CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN.. 2
TỪ BỎ HẾT- Chú giải của Noel Quesson. 5
NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU– Chú giải của Fiches Dominicales. 10
NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ BƯỚC THEO ĐỨC GIÊSU- Lm FX Vũ Phan Long, ofm.. 14
ĐỂ LÀ MÔN ĐỆ CHÚA– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*) 20
LÀM MÔN ĐỆ CỦA CHÚA- ĐTGM Ngô Quang Kiệt. 28
CÁI GIÁ PHẢI TRẢ- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 30
DẤN BƯỚC ĐI THEO CHÚA– Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 39
ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 50
TRUNG THÀNH THEO CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 57
BƯỚC THEO CHÚA- Trích Logos năm C. 62
CHỌN LỰA- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn. 65
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN
BÀI ĐỌC I: Kn 9, 13-18b
“Ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn”.
Bài trích sách Khôn Ngoan.
Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những dự định của chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh hồn ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề. Chúng tôi ước lượng cách khó khăn các việc dưới đất, và khó nhọc tìm thấy những sự trước mắt. Còn những sự trên trời, nào ai khám phá ra được? Ai hiểu thấu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống. Như thế, mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng, và loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa. Vì, lạy Chúa, những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17
Đáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến cho con người trở về bụi đất, Ngài phán: “Hãy trở về gốc, hỡi con người”.
2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.
3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.
4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.
BÀI ĐỌC II: Plm 9b-10. 12-17
“Con hãy tiếp nhận nó không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Philêmon.
Con thân mến, Phaolô già nua, và hiện đang bị cầm tù vì Đức Giêsu Kitô, cha nài xin con cho Ônêsimô, đứa con cha đã sinh ra trong xiềng xích. Cha trao nó lại cho con. Phần con, con hãy đón nhận nó như ruột thịt của cha. Cha cũng muốn giữ nó lại để thay con mà giúp đỡ cha trong lúc cha bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng vì chưa biết ý con, nên cha không muốn làm gì, để việc nghĩa con làm là một việc tự ý, chớ không vì ép buộc. Vì biết đâu nó xa con một thời gian để rồi con sẽ tiếp nhận muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng thay vì nô lệ, thì như một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với cha, huống chi là đối với con, về phần xác cũng như trong Chúa. Vậy nếu con nhận cha là bạn hữu, thì xin con hãy đón nhận nó như chính mình cha vậy.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 10, 27
All. All. – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – All.
PHÚC ÂM: Lc 14, 25-33
“Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. “Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: ‘Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi’. “Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Đó là lời Chúa.
———————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
TỪ BỎ HẾT- Chú giải của Noel Quesson
Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ
Chúng ta vẫn đang trên con đường lên Giêrusalem, ở đó Luca đã tập hợp các tài liệu gốc mà ngài đã thu thập bởi các nguồn thông tin của riêng ngài. Người ta có thể nói rằng đây không chỉ là một bài tường thuật cụ thể mà hơn thế nữa là lịch sử cao cả của Đức Giêsu Kitô trong mọi thời đại. Những “đám đông người” cùng đi với Đức Giêsu không chỉ là vài trăm người ở Palestine trong thời đại đó, mà là vô số người, đàn ông có, đàn bà có đã bắt đầu đi theo Đức Giêsu qua bao thế kỷ. Vậy ngày hôm nay, Đức Giêsu hướng về phía chúng ta để đặt cho chúng ta một vài câu hỏi: “Anh em nói rằng anh em là những môn đệ của Thầy nhưng anh em có biết điều đó có nghĩa gì không? Anh em có biết đi theo Thầy sẽ dẫn anh em đi tới đâu không?”.
Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được
Yêu sách đầu tiên của Đức Giêsu đúng là làm người ta phải hốt hoảng và nếu cần một lần nữa minh chứng rằng Giêsu Na-da-rét có ý thức Người không phải là “một người bất kỳ nào đó”. Vậy thì Người là ai, nếu không phải là một người điên, lại yêu cầu toàn thể nhân loại phải dứt bỏ tình cảm đến như thế, để gắn bó với bản thân của Người?
Ai có thể hiểu được ngôn ngữ của các vì sao,
Ai có thể nhận ra âm nhạc của các linh hồn,
Ai với trái tim có đủ tự do
Sẽ biết yêu mến Thầy trên hết và đi theo sau Đấng, Lời của sự sống?
Tấm lòng cần phải rất tinh tế để hiểu biết Đức Giêsu.
Dĩ nhiên Đức Giêsu là ngôn sứ của tình yêu chứ không phải của lòng thù hận. Công thức gay gắt của Người không có nghĩa chúng ta bỏ rơi những mối liên hệ gia đình. Không nhằm biện minh cho thói ích kỷ, trái lại Đức Giêsu kêu gọi một sự từ bỏ triệt để bản thân mình. Vả lại, cần phải yêu mến Đức Giêsu hơn cả mạng sống mình. Như thế, thay vì phá vỡ một cách ích kỷ mọi quan hệ nhân bản thiêng liêng nhất của chúng ta (tình yêu phụ tử, hôn nhân, bằng hữu), Đức Kitô mời gọi chúng ta, mỗi người phải làm cho tình cảm ấy được sinh động và xuyên suốt bởi tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa… Và trong trường hợp hạn chế, thật vậy, vẫn phải là: “bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa” (Lc 18,29). Và chính Đức Giêsu đã buộc mình phải dứt bỏ gia đình riêng trước khi yêu cầu điều đó với chúng ta, khi Người hiến dâng cả hồn và xác cho việc rao giảng Tin Mừng (Lc 8,19-21; 11,27-28).
Mỗi Người, tùy theo hoàn cảnh và ơn gọi của mình, phải vui lòng đón nhận yêu sách phi thường ấy trong đời sống cụ thể. Những từ bỏ tuyệt đối nào được đặt ra cho tôi để phục vụ Nước Thiên Chúa?
Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được
Ở đây có hai công thức: Vác thập giá và đi theo Đức Giêsu. Vậy vấn đề trước tiên không phải là từ bỏ mà là tình yêu. Người nào đã thật sự tìm thấy Đức Giêsu, Người ấy đã tìm thấy giá trị phát triển nhất trong mọi trường hợp. Tất cả những gì làm chúng ta đau khổ, có thể trở thành “sự hiệp thông của tình yêu”. Mọi người vác thập giá đi theo Đức Giêsu là đi theo Đấng đã vác thập giá đi đầu. Nếu chúng ta suy nghĩ thấu đáo, khi chúng ta lảo đảo dưới sự thử thách thì Đức Giêsu đã ở đó, kề bên chúng ta, đi trước chúng ta, chính Người cũng đang lảo đảo trên con đường thập giá dẫn Người đến niềm hoan lạc của sự sống lại! Simon, gốc Kyrênê, được đặt thập giá lên vai vác theo sau Đức Giêsu là hình ảnh của người môn đệ chân chính (Lc 23,26). Ai đã khám phá điều đó, đã tìm ta một bí mật; bí mật của một hạnh phúc mà không gì có thể phá hủy được. Không gì. Phúc cho người nào có cái nhìn xuyên thấu điều vô hình để tìm kiếm khuôn mặt của Người!
Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc!”.
Dụ ngôn này là của riêng Thánh Luca: “Bổn phận phải ngồi xuống!” Dụ ngôn này nói lên khó khăn to lớn mà người ta phải chấp nhận khi cồ quyết định bắt đầu đi theo Đức Giêsu. Đây là một cuộc phiêu lưu dài ngày; và phải có thể đi đến cùng!
Đức Giêsu đã không bao giờ tìm cách quảng cáo, khi tạo ra tâm lý thành công giả tạo ở xung quanh Người. Thay vì che giấu những nguy cơ của công việc, Người nhấn mạnh chúng như để làm nản lòng ngay tức khắc những nhiệt tình bồng bột và chóng qua; như thể sự rút lui dọc đường còn tệ hơn là chưa bao giờ khởi sự? Điều này phải làm chúng ta suy nghĩ một cách thật nghiêm túc tính chất trầm trọng của việc từ bỏ đức tin khi việc từ bỏ này cố tình và có ý thức. Thôi không theo “Đức Giêsu nữa, khi người ta đã bắt đầu đi theo Người…” phải chăng trầm trọng hơn việc chưa từng biết Người? Trách nhiệm vô cùng của việc Tuyên xưng Đức Tin là thế. Nếu không nghiêm túc thì đừng làm? Trước khi tuyên hứa phải ngồi xuống, dùng thời gian mà suy nghĩ.
“Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa”.
Hai dụ ngôn này “xây tháp” và “chiến đấu để thắng trận” là thành phần của các bản văn mà Luca đã có chủ ý tập hợp trong “đường lên Giêrusalem”. Hai câu chuyện này đặt song song, dễ nhớ, với văn phong nói và lặp lại. Cùng một bài học được làm nổi rõ, được gấp đôi để không ai quên: Đời sống Kitô hữu chính là “xây dựng” và “chiến đấu”. Hai công việc gian nan đòi hỏi phải suy nghi và kiên trì. Chúng cũng yêu sách sự tiên liệu và tổ chức. Anh em phải ngồi xuống để suy tính!
Một đôi khi tôi có hoàn thành lời yêu cầu này của Đức Giêsu không?
Tôi có dùng thời gian để suy nghĩ cuộc đời tôi về những cam kết của tôi? Chúng ta đều biết làm các bảng tổng kết, tính toán, tiên liệu cho các công việc của con người vậy có khi nào chúng ta dừng lại một mình hay trong nhóm với những người khác để nhận định xem chúng ta đã thật sự sống những công việc của con Người trong đường lối của Đức Kitô? Đó là mục đích của việc “xét lại đời sống”: Hãy nhìn, phán đoán, hành động, cầu nguyện trong ánh sáng của Tin Mừng.
Đi nghỉ hè về, lời mời gọi của Đức Giêsu đến đúng lúc. Một năm mới đây rồi, trước mặt chúng ta. Tất cả sẽ lại tiếp tục: Nghề nghiệp, trường học, tập đoàn, hiệp hội. Để không sống hời hợt với mình và với mọi việc, nguyện gẫm là bí quyết cửa đời sống sâu sắc và thật sự hiệu quả. Ngày hôm nay Đức Giêsu yêu cầu chúng ta không nên sống một cách hời hợt nông cạn.
Lạy Chúa, người nào mà Thần Khí Chúa cư ngụ, người ấy sẽ tiếp nhận những bí mật của Chúa Cha.
Trong ba năm của đời sống hoạt động, Đức Giêsu hầu như đã làm nhiều hơn mọi người hoạt động của thế gian.
Một bà mẹ trẻ trong gia đình, bề bộn công việc, một ngày nọ nói với tôi: “Những ngày nào con càng phải làm nhiều việc thì con càng cảm thấy nhu cầu phải ngừng lại, phải ngồi xuống mười phút để nguyện gẫm: và con được lời thời gian!”
“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
Vậy đây là lần thứ ba trong ít dòng trở lại cùng một điệp khúc sắc bén như dao thái thịt: “Không thể làm môn đệ của tôi được”.
Và đối với Luca, điệp khúc như là kết luận của hai dụ ngôn nói trên. Cũng chính vì thế mà cần phải “ngồi xuống”. Người ta không theo Đức Giêsu trong sự dễ dãi. Ai không sẵn sàng đi đến cùng tốt hơn đừng nên khởi sự: Hãy từ bỏ tìm kiếm chính mình trong tình cảm, từ bỏ đời sống của riêng mình, từ bỏ của cải… bởi tình yêu. Lời mời gọi sự lột bỏ triệt để này, để sống nghèo khó, không phải là một “lời khuyên” dành riêng cho những Kitô hữu thượng hạng, các tu sĩ nam nữ như đôi khi Người ta thường hiểu như thế… Sự từ bỏ chính là điều kiện của mọi đời sống Kitô hữu như Đức Giêsu đã nói. Phải như thế để trở thành một “môn đệ đơn sơ”. “Anh em không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền bạc” (Lc 16,13). Một lần nữa, thay vì phải quan niệm những lời ấy của Đức Ki tô như những lời quá đáng, hãy dùng thời gian để cảm nhận chúng như những lời thật sự giải phóng và làm triển nở. “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà cho em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).
Nhưng để hiểu được điều đó, dĩ nhiên Thiên Chúa phải tràn ngập trong một tâm hồn. Chúng ta có tiếp tục hướng về “cái có” một cách tham lam hay không? Chúng ta có khám phá và nghĩ ra một cách sống sung sướng trong tình bạn, sự chia sẻ và tính đơn sơ không?
“Xã hội tiêu thụ không làm cho con người hạnh phúc”.
Đức Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ ở Công viên các Hoàng Tử. Họ đã vỗ tay tán thưởng. Họ đã đồng ý. Nhưng thế thì sẽ có những kết luận thực hành nào về phương diện mua sắm, nhịp độ của đời sống và sử dụng tiền bạc… để được tự do hơn. Và thật đơn giản, để “đi theo Đức Giêsu”, để giống Người đôi chút.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Anh Nghèo, vinh quang đời đời của Thiên Chúa ở nơi Ngài!
———————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU– Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Để đi đến cùng.
“Trên đường lên Giêrusalem” (l3,22), bằng một động tác có tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía “đám đông cùng đi đường” với Người, để dạy cho họ bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người.
Chỉ “đến với” Đức Giêsu thôi không đủ. Đi theo Người bao gồm việc phải chấp nhận để chó những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng khuấy động lối sống của chúng ta: cách riêng trong phạm vi những mối liên hệ gia đình và sử dụng của cải vật chất, là đề tài quen thuộc của Luca.
Những “liên hệ gia đình”:
Đức Giêsu tuyên bố không úp mở “ai đến với tôi, mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Ở đây, Luca dùng động từ Hy Lạp có nghĩa “là ghét bỏ” để diễn tả lối nói nguyên thuỷ bằng tiếng Aram, một thứ ngôn ngữ vốn không có từ so sánh. Một kiểu nói mạnh mà soạn giả Tin Mừng dịch là ‘dứt bỏ’ hay “tai ương ít hơn”, “không thương hơn.”: Tất cả những mối liên hệ nhân loại, dù chính đáng và thâm sâu đến đâu ngay cả đến “mạng sống” con người đi nữa, đều phải phụ thuộc vào mối liên hệ của họ với Đức Kitô. N. Quesson giải thích ngay. “Lẽ dĩ nhiên Đức Giêsu là một vị Ngôn sứ của tình thương chứ không phải của thù ghét.
Lối nói thẳng thừng của Người ở đây không có nghĩa là cho chúng ta được phép xem nhẹ những liên hệ gia đình. Thay vì biện minh cho tính ích kỷ Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải có một sự từ bỏ mình triệt để. Hơn nữa, còn phải mến yêu Đức Giêsu hơn cả chính mạng sống mình. Cho nên không hề dạy người ta phải đoạn tuyệt một cách ích kỷ với mọi liên hệ nhân loại thiêng liêng nhất (như lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng, tình bằng hữu…), Đức Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta phải nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm trên xuyên qua tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa. Quả thực, có những trường hợp người ta đành “phải” bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái “vì Nước Thiên Chúa” (Lc 18,29). Đó là sự từ bỏ của Đức Giêsu đối với chính gia đình của Người. Người đã tự nguyện làm thế trước khi đòi hỏi chúng ta, lúc Người hiến trọn thân xác và linh hồn cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. (“Parole de Dieu pour chaque dimanche. Năm C, Droguet Ardant, trg 268).
Ngay sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Vấn đề là người môn đệ phải đi theo con đường của Đức Giêsu, dẫn đến Giêrusalem và dẫn đến thập giá, dù phải bỏ mạng ở đó. Bởi vì điều thiết yếu là phải đồng số phận với Thầy mình. Và đó chính là thân phận của người môn đệ.
Đối với các Kitô hữu thời thánh Luca, cũng như đối với chúng ta hôm nay sau 20 thế kỷ, lời dạy của Đức Giêsu vẫn là tiếng gọi thiết tha hãy đi theo người trên con đường Canvê, hãy đích thân chia sẻ mọi đau đớn, khổ nạn là cái chết của Người (J Seynave, “Assemblées du Seigneur”, số 54, trg 70-71).
Những của cải vật chất:
Đức Giêsu kết luận: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được “. Từ chối không tôn thờ của cải vật chất, bằng cách sẵn sàng chấp nhận mất tất cả để trung thành với đức tin, đó chính là một đòi hỏi của Tin Mừng cho ai muốn đi theo Đức Giêsu.
- Meynet chú thích, “Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trữ bước chân. Chỉ có thập giá là cái phải mang theo để đi theo Người” (L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhétorique”, tập 2, Cerf, trg 157).
- Trước tiên phải ngồi xuống tính toán:
Sau đó, để tránh mọi hàm hồ, Đức Giêsu ngỏ với những người đang nghe hai dụ ngôn nhỏ, nhằm cảnh giác họ phải coi chừng một kiểu dấn thân hời hợt: dụ ngôn người đàn ông nọ định xây một cái tháp và dụ ngôn vị vua kia sắp đi giao chiến với một vua khác. Cả hai đều sử dụng dạng câu hỏi: Ai trong anh em muốn xây một cái tháp?… Có vua nào đi giao chiến…?, để kêu gọi người ta phải trước tiên ngồi xuống suy tính đã, rồi mới dấn thân và chấp nhận mạo hiểm bước theo Đức Giêsu.
Theo tạp chí ’Célébrer’ số 251, trang 42, chắc đây là hai dụ ngôn nhỏ vốn nằm riêng rẽ, nay được Luca xếp chung lại với nhau trong bài viết của Ngài. Trong bối cảnh quãng đời công khai của Chúa, cũng giống như một số dụ ngôn khác tương tự có thể gọi chung là “những dụ ngôn về sự quyết định”, chúng là công cụ được Đức Giêsu sử dụng để giúp cho các thính giả của người có dịp suy nghĩ, mời gọi họ cởi mở tâm hồn với Người, sẵn sàng sám hối trở về. Luca đã lấy lại hai dụ ngôn này là hướng ý nghĩa của chúng về mối bận tâm chính của ngài: phải dứt khoát rõ ràng, để làm môn đệ Đức Giêsu ở đây và lúc này. Có hai phạm vị áp dụng chính: tiền bạc và liên hệ gia đình. Cần phải suy tính đo lường giá phải trả, đừng liều lĩnh nhắm mắt đưa chân.
BÀI ĐỌC THÊM
- Động lực duy nhất hướng đến sự sống.
“Trước lúc lên đường làm một chuyến leo núi, bạn phải ngồi tính toán xem nên mang theo những gì trong bị: lương khô kẹo bánh, đường,.. Tóm lại, tất cả những gì là cần thiết, tuy nhiên chỉ những gì phải có để leo tới đỉnh núi rồi xuống. Chẳng ai dại gì ôm đồm nhiều cho nặng hay vướng vít khó đi, bỏi vì vấn đề là làm sao đi đến nơi về đến chốn an toàn. Muốn bước theo Đức Giêsu, cũng thế bạn đừng để mình vương vấn bất cứ cái gì? “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa…”. Đúng là một danh sách dài! Chuyện này có khả thi hay không? Lẽ nào Đức Giêsu, một con người rất mực nhân lành, dịu dàng, lại có thể đòi hỏi một chuyện như thế? Ngộ nhận, gây vấp phạm? Không thiếu kẻ đã bị dội trước những lời yêu sách quá đáng này. Một số môn đệ và ngay cả các tông đồ đã không đi theo Người đến tận đỉnh Gôngôtha. Họ run sợ khi thấy chính quyền và dân chúng lồng lên chống lại Người. Họ nhát. Họ chẳng dám liều mạng. Phải chăng họ có lý? Hy sinh, chết để mà chết, có ích gì?
Phải đợi đến sau biến cố Phục sinh họ mới sẵn sàng đón nhận cái chết. Khi đó, họ mới hiểu rõ rằng chết không phải là uổng đời, và cái biện chứng “chết – sống” chính là động lực duy nhất đưa đến sự sống. Sống cho tình yêu phải chăng là chết đi liên lỉ mỗi ngày trong suốt cuộc đời? Yêu mến Đức Giêsu hơn cả cha mẹ, vợ con, đâu phải là chê bỏ lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng? nhưng là yêu thương bằng một tình yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn, nhân danh Đức Giêsu Kitô.
Đi theo Đức Giêsu chính là bước vào quỹ đạo của tình yêu tự trao ban đến cùng”.
- Thiên Chúa, Đấng duy nhất tuyệt đối:
Đức Giêsu đã đảo lộn tất cả mọi ý niệm về giá trị và tình cảm của chúng ta khi Người truyền phải yêu mến Người hơn cả cha mẹ, vợ con… Chúng ta vốn nhạy cảm với cái nghĩa thiêng liêng của gia đình nên không dễ gì hiểu ngay được lời mời gọi của Tin Mừng. Đối với chúng ta, cũng như đối với mọi định chế trong xã hội, có gì hiển nhiên cho bằng trước hết phải thương yêu vợ con mình? phải làm tất cả cho người thân trong gia đình mình?
Dường như Đức Giêsu đang có ý thách thức chúng ta. Người đề nghị cho chúng ta một lối đi đầy ngỡ ngàng, đòi phải có niềm tin lẫn quyết tâm. Người như muốn nói với chúng ta rằng chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối mà thôi. Trước đòi hỏi gắt gao của Đức tin, chúng ta thường có xu hướng biện minh: mình phải lo cho gia đình, công việc, cửa nhà, ruộng đất… đã chứ!
Đi theo Đức Giêsu là phải dám đảo lộn lại trật tự mọi sự và mọi việc. Phải có can đảm đặt Thiên Chúa ở hàng đầu, ở trung tâm cuộc sống. Đúng chỗ của Người. Khi đó, chúng ta sẽ thấy mình yêu thương người thân cách chân thực hơn. Chu toàn mọi công việc có kết quả đích thật hơn. Lo lắng cho gia đình đúng nghĩa hơn.
Những gì chúng ta có thể làm cho mái ấm của mình, cho sự tôn trọng quyền con người, cho việc bảo vệ sự sống, cho sự nhìn nhận kẻ khác với lòng bao dung, cho cuộc đấu tranh chống lại mọi hình thức ngược đãi, cho tự do và dân chủ… chúng ta hãy qui tất cả một cách trọn vẹn vào mối tương quan với Thiên Chúa. Trong thái độ của Đức tin, chúng ta đặt Người vào trọng tâm của tất cả, ở nguồn mạch tất cả, nơi tận cùng của tất cả. Như là Đấng Tuyệt đối.
Nhận ra Thiên Chúa là cái “nền” của toàn thể nhân loại, chúng ta mới gặp gỡ được ý định của Người. Khi đó chúng ta mới phục vụ và làm thăng tiến nhân loại.
———————————————————-
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ BƯỚC THEO ĐỨC GIÊSU- Lm FX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Được đặt vào trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, cuộc nói chuyện của Đức Giêsu trong bữa ăn tại nhà một thủ lãnh người Pharisêu (Lc 14,1) nay đã đến lúc kết thúc. Tác giả Tin Mừng III lại giúp độc giả để ý đến bước tiến của Đức Giêsu lên Giêrusalem cũng như đến đám đông đang cùng đi với Người. Tác giả cho thấy Đức Giêsu nói về những điều kiện để làm người môn đệ đích thực (14,25-33). Khi tìm lại văn cảnh trước đó, ta gặp một lời mời gửi đến mọi người trên mọi nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ dậu, đến dự tiệc vương quốc, để “người ta vào đầy nhà cho ta” (c. 23). Nay Đức Giêsu thêm một nhận định mới: điều kiện phải giữ để được làm môn đệ trong Vương quốc. Để được vào Vương quốc, phải đáp ứng những điều kiện riêng, và phân đoạn 14,25-33 ở trong thế song đối đối nghĩa với phân đoạn 14,15-24. Nếu đặt vào trong ngữ cảnh rộng lớn hơn, là bài tường thuật về hành trình, phân đoạn này với nhiều chi tiết nói về việc bước theo Đức Giêsu, bước đi đàng sau Người, lên kế hoạch chuẩn bị cho một công trình, … cung cấp cho tác giả những chi tiết để ngài phác ra đời môn đệ của Đức Kitô.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Mở đầu (14,25);
2) Điều kiện để đi theo Đức Giêsu (14,26-27);
3) Hai dụ ngôn (14,28-32):
- a) Dụ ngôn Người xây tháp (cc. 28-30),
- b) Dụ ngôn Vị vua ra trận (cc. 31-32);
4) Kết (14,33).
3.- Vài điểm chú giải
– dứt bỏ (26): dịch sát là “ghét” (miseô), ngược lại với agapaô, “yêu thương”. Động từ miseô đã được dùng ở Lc 6,22.27 để mô tả thái độ của những người ở ngoài đối với các môn đệ Đức Giêsu. Bây giờ động từ này lại được dùng để nói về tình yêu ưu tiên người ta phải dành cho Đức Giêsu.
– môn đệ tôi (27): Các môn đệ Đức Giêsu đã được nhắc đến ở Lc 5,30; 6,1.13.17.20; 8,9.22; 9,14.16.18.40.43b.54; 10,23;12,1.22. Sau đó họ lại được nhắc đến ở 16,1; 17,1.22; 18,15; 19,29.37.39; 20,45; 22,11.39.45. Trong sách Cv, từ ngữ mathêtai, “các môn đệ”, trở thành từ quen thuộc để gọi các Kitô hữu (6,1.2.7; 9,1.10.19.26.38; 11,26.29; 13,52; 14,20.22.28; 15,10; 16,1; 18,23.27; 19,1.9.30; 20,1.30; 21,4.26 (2x).
– một cây tháp (28): Đây là một tháp canh để bảo vê một ngôi nhà, một mảnh đất, một vườn nho.
– từ bỏ (33): Động từ Hy Lạp apotassomai, như ở 9,61, có nghĩa là “kiếu từ, từ giã” (say good-bye, say farewell). Lời khuyên này làm vọng lại lời khuyên ở 12,33, và sẽ được nhắc lại ở 18,22.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu (25)
Điểm nổi bật nơi Đức Giêsu là sự cương quyết chấp nhận số phận bằng cách nhất định tiến về Giêrusalem. Trên đường đi, có rất nhiều người đi theo Người. Họ muốn ở với Người. Họ tưởng rằng Người có điều gì đó chắc chắn mà nói với họ và có điều gì đó bền vững mà ban cho họ. Họ bị Người thu hút. Đức Giêsu không xua đuổi họ. Nhưng Người cũng không muốn họ đi theo Người với những nỗi niềm chờ mong sai lạc. Người nói với họ rõ ràng.
Chúng ta thấy Đức Giêsu đã ba lần nêu lên những yêu cầu cho những ai muốn đi theo Người, và mỗi lần Người đều kết luận như nhau, “… thì không thể làm môn đệ tôi được” (cc. 26.27.33). Người khiến chúng ta có ấn tượng là Người muốn họ bỏ Người thay vì lôi kéo họ đến với Người.
* Điều kiện để đi theo Đức Giêsu (26-27
Ai gắn bó với Đức Giêsu, thì cần biết mình phải đáp ứng những yêu cầu nào. Các điều kiện Người nêu ra không chỉ được đề nghị riêng cho một ít người tuyển chọn, nhưng cho tất cả những ai đang đi với Người.
Trước tiên, Người yêu cầu phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Chẳng phải là điều răn yêu thương người thân cận đã bị đảo lộn rồi sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự ghét bỏ đối với họ? Nhưng ý nghĩa của từ “ghét” ở đây được làm sáng tỏ nhờ Mt 10,37: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Điều này có nghĩa là ai muốn đi theo Đức Giêsu thì phải yêu mến Người hơn tất cả những người khác, kể cả những người gần gũi với mình nhất. Người ấy lại còn phải yêu mến Người hơn cả chính bản thân mình. Đức Giêsu yêu cầu người ta dành cho Người một vị trí đặc biệt và duy nhất. Vì thế, “ghét” đây cũng có thể phải hiểu là “dứt khoát” với những quan hệ nào đó nếu cần, để có thể trung thành với Tin Mừng. Chính tương quan duy nhất với Đức Giêsu sẽ điều hành mọi tương quan của ta với những người khác.
Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, mà là cái tôi, là tính ích kỷ, là tình yêu đối với chính mình. Cả cái tôi và sự sống của ta cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Đức Giêsu. Ai muốn đi theo Đức Giêsu, thì phải vác thập giá của chính mình, phải đi theo Người trên con đường thập giá. Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Người thích. Nhưng Người vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa.
* Hai dụ ngôn (28-32)
Rất có thể Đức Giêsu nhận thấy rằng nhiều thính giả bắt đầu nghĩ rằng Người phóng đại. Để giúp họ hiểu Người muốn nói gì, Người kể cho họ nghe hai dụ ngôn ngắn, đơn giản. Dụ ngôn thứ nhất nói về một người muốn bảo vệ hoa mầu khỏi trộm cướp và dã thú phá phách. Ông đã quyết định xây một cái tháp trong cánh đồng của mình. Trước khi bắt đầu công việc, ông đã tính toán phí tổn, để xem ông có đủ tiền mà thực hiện chăng (cc. 28-30). Dụ ngôn thứ hai nói về một vị vua quyết định ra trận. Tuy nhiên, ngay lúc đầu, ông phải lượng định về sức mạnh của đoàn quân của ông (cc. 31-32). Vào thời của Đức Giêsu, có một câu tục ngữ: “Nếu bạn muốn săn sư tử, hãy phóng cái lao của bạn xuống đất. Nếu bạn không thể phóng cái lao thật sâu, thì đừng đi săn sư tử!”. Bài học rất rõ: đừng tự lừa dối chính mình; bạn không phải là môn đệ Đức Giêsu chỉ nhờ nghe Tin Mừng của Người và cảm thấy hứng thú đối với Tin Mừng ấy. Bạn phải xem bạn có thể làm chăng những điều Người yêu cầu bạn.
Qua hai dụ ngôn, Đức Giêsu khuyên những người đang đi theo Người đừng quyết định làm môn đệ, nếu trước đó không cân nhắc kỹ càng trước. Người ta phải cứu xét đến không những các đòi hỏi phải thực hiện, nhưng cả những hậu quả của chuyện mới bắt đầu thì đã bỏ dở dang vì không có sức đi tới cùng. Các môn đệ phải xem lại là mình có những sức mạnh và tài nguyên nào.
Sau hai dụ ngôn, Đức Giêsu nêu ra điều kiện thứ ba: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (c. 33). Vấn đề không chỉ là bỏ ra một ít tiền để làm việc bác ái, mà là phải bỏ hết mọi sự.
* Kết (33)
Sau hai điều kiện (cc. 26.27), câu kết này là điều kiện thứ ba (c. 33), một đòi hỏi triệt để. Đức Giêsu kêu mời người ta từ bỏ tất cả các của cải vật chất, để có thể làm môn đệ Người.
Có những người đã giải quyết khó khăn này bằng cách chia các Kitô hữu thành “những người hoàn thiện” (linh mục, tu sĩ) một bên, còn bên kia là tất cả các Kitô hữu còn lại, những người có thể giữ tất cả những gì họ có và chấp nhận làm “Kitô hữu bất toàn”. Cách làm này đã chia họ các môn đệ Đức Giêsu thành hai, đánh mất sự hợp nhất thiêng liêng của họ. Nhưng lệnh đó được ban cho tất cả những ai muốn nên “xứng đáng” với Đức Giêsu. Để không một ai hiểu sai ý Người, Đức Giêsu đã nhắc lại giáo huấn này nhiều lần (Lc 12,33; 18,22; x. 5,11.28).
+ Kết luận
Ai muốn đi theo Đức Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vì trân trọng ý muốn của Ngài, người ta phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, bị khinh bỉ và tất cả những gì đối lập lại với một cuộc đời thú vị, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Hẳn là chúng ta muốn tạo ra một hình thái Kitô giáo vừa tầm với chúng ta, làm chúng ta vui thích. Đức Giêsu nói với người ta rằng họ chỉ có thể bước theo Người theo những điều kiện của Người. Ai muốn thuộc về Đức Giêsu, thì phải quyết định theo Đức Giêsu toàn thể, với trọn con đường của Người.
Đức Giêsu không nói rằng nếu ai muốn đi theo Người mà không từ bỏ những người thân, mạng sống và mọi của cải, thì không thuận lợi bao nhiêu, mà nói là hoàn toàn vô ích, như muối không còn vị mặn nữa (x. Lc 14,34-35).
5.- Gợi ý suy niệm
Ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu, muốn thực sự làm Kitô hữu, thì cần phải biết các điều kiện được đề ra, và phải suy nghĩ xem mình có khả năng đáp ứng chăng. Nếu dừng lại giữa đường rồi bỏ cuộc, thì chẳng nghĩa lý gì. Đức Giêsu muốn người ta đi theo Người cách ý thức và có cân nhắc. Các điều kiện được nêu ra không chỉ có giá trị cho mộtthiểu số ưu tuyển, nhưng cho mọi người. Bước theo Đức Giêsu có nghĩa là tuyệt đối không bám víu vào các của cải vật chất, và phải sử dụng chúng tùy theo dây liên kết chúng ta với Đức Giêsu.
Dây liên kết người ta với Đức Giêsu phải có quyền ưu tiên hơn mọi liên hệ khác. Tình yêu đối với Người không loại trừ tình yêu đối với loài người, trái lại là đàng khác. Đức Giêsu muốn chúng ta yêu thương người thân cận. Và tình yêu đối với Người đòi hỏi chúng ta chu toàn ý muốn của Người. Nhưng tương quan với người thân cận phải được quy định bởi tương quan với Đức Giêsu và phải được tháp nhập vào trong tương quan này. Nếu phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và mộtngười gần gũi với ta, ta phải chọn Đức Giêsu. Đàng khác, ta phải đào luyện tương quan của mình với người thân cận thế nào để không gây rối cho tương quan của ta với Đức Giêsu. Tiêu chuẩn tối hậu của đời sống chúng ta không phải là nguyện vọng hoặc ý muốn của người thân cận, hoặc sở thích của người ấy, hay là sự hòa hợp với người ấy, nhưng là ý muốn của Đức Giêsu và con đường trên đó Người đang đi mà dẫn dắt chúng ta. Người Kitô hữu không được tìm cách sống hài hòa với người thân cận ngược lại với ý muốn của Đức Giêsu, nhưng là với và trong sự lệ thuộc ý muốn đó.
Bước theo Đức Giêsu: hoặc là mộtcuộc bước theo trọn vẹn, hoặc chẳng phải là mộtcuộc bước theo. Người ta không được chỉ chọn ra một vài nét thuộc về hành trình của Đức Giêsu mà người ta thích. Hoặc là người ta sẵn sàng đi với Người trọn chuyến đi, hoặc có bắt đầu cũng chẳng ích gì. Thập giá của Đức Giêsu là dấu chỉ cụ thể về sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha, với định mệnh của Người và với sứ mạng của Người. Đối với Người, sự trung thành này còn quý giá hơn chính mạng sống Người.
Cộng đoàn Giêrusalem đã góp mọi sự lại, nên không còn có ai bị nghèo túng ở giữa họ (Cv2,44-45; 4,32-35). Hẳn là các Kitô hữu hôm nay cũng có thể thử những nẻo đường mới. Chắc chắn nếu chúng ta chọn bước theo Đức Kitô, chúng ta phải thay đổi thái độ của chúng ta đối với của cải của thế gian này.
Hôm nay, chúng ta nghe Đức Giêsu đưa ra ba yêu cầu cho chúng ta là các môn đệ của Người. Ta phải sẵn sàng chịu rủi ro trong mối quan hệ gia đình, thực hiện sự tự từ chối và sẵn lòng từ bỏ hết những gì mình có. Cái giá mà người môn đệ phải trả là rất đắt và không phải là những điều tình cờ ngẫu nhiên. Theo Đức Kitô không hề là một điều dễ dàng chút nào. Nhưng chúng ta không đơn độc một mình. Khi ta vấp ngã, Đức Kitô luôn ở bên cạnh sẵn sàng đáp ứng lời kêu cầu của chúng ta: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Cũng chẳng phải là chỉ một mình chúng ta đơn độc khi nỗ lực thực hiện những sự hy sinh lớn lao trong danh thánh Giêsu. Thay vào đó, (điều này đặc biệt đúng trong Tin mừng theo thánh Luca) Đức Giêsu ban tặng cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Đấng luôn sẵn sàng hướng dẫn ta ngày càng nhiều để đáp trả trọn vẹn hơn với lời kêu gọi, mà mỗi người chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép rửa tội rằng: “Hãy theo Ta”.
———————————————————-
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
ĐỂ LÀ MÔN ĐỆ CHÚA– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta suy niệm về ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa làm chúng ta đôi phen hụt hẩng, làm đảo lộn mọi kỳ vọng của con người, làm thay đổi những mối quan hệ giữa người với người, tương đối hóa quan niệm của con người về thế giới.
Kn 9: 13-18
Đoạn trích sách Khôn Ngoan gợi lên những giới hạn của những hiểu biết phàm nhân. Với trí tuệ phàm nhân, con người vô phương dò thấu những ý định của Thiên Chúa, nhưng nhờ ánh sáng Mặc Khải và tác động thần khí thánh ở nơi con người mà con người mới có thể đạt được một sự hiểu biết sung mãn.
Plm 9b-10, 12-17
Trong thư gởi ông Phi-lê-mon, thánh Phao-lô đưa ra một lời khuyên thật cảm động. Thánh nhân thỉnh cầu ông hãy đón nhận người nô lệ trốn chạy khỏi nhà ông và nay đã trở thành Ki-tô hữu, như một người con ruột thịt của thánh nhân và như người anh em rất thân mến trong Đức Ki-tô.
Lc 14: 25-33
Tin Mừng tường thuật cho chúng ta giáo huấn của Đức Giê-su về những yêu sách mà Ngài đòi hỏi các môn đệ Ngài: muốn theo Ngài phải dành quyền ưu tiên tuyệt đối cho Ngài, thậm chí trên mọi mối dây ràng buộc trần thế, kể cả gia đình đi nữa.
BÀI ĐỌC I (Kn 9: 13-18)
Chúng ta không biết tác giả sách Khôn Ngoan là ai. Tác phẩm này đã được biên soạn vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, bởi một người Do thái mộ đạo thành A-lê-xan-ri-a. Tác giả muốn cảnh giác đồng bào của mình trước những sức quyến rũ của nền văn hóa Hy-lạp. Ông đổ hết tâm trí để nhắc lại những giá trị khôn sánh của sự khôn ngoan Do-thái giáo, gia sản của cha ông họ.
Đoạn văn hôm nay được trích từ phần thứ hai của sách. Bằng hư cấu văn chương, tác giả để cho vua Sa-lô-mon, một vị vua nổi tiếng khôn ngoan bậc nhất, lên tiếng. Chương 9 là lời cầu nguyện dài của vua, tán rộng lời cầu nguyện mà 1V 3: 6-10 đã trích dẫn một cách ngắn gọn, theo đó, vua Sa-lô-mon chỉ cầu xin Chúa ban cho mình được ơn khôn ngoan. Lời cầu nguyện của vua làm đẹp lòng Chúa. Thiên Chúa chẳng những ban cho vua được ơn khôn ngoan mà còn được muôn vàn những ân phúc khác nữa.
Việc nêu lên lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon như vậy đã trở nên một đề tài kinh điển của các tác phẩm minh triết. Tác giả sách Khôn Ngoan đem lại cho lời cầu nguyện này những dấu ấn riêng nhằm đánh động những người đương thời của ông. Dưới những khía cạnh phi thời gian của sự khôn ngoan, sứ điệp trực tiếp nhắm đến một xã hội phàm trần vào thời đại của tác giả. Sứ điệp này vẫn giữ mãi giá trị trường tồn của nó.
1.Thành phố A-lê-xan-ri-a vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên:
Hơn hai thế kỷ qua, thành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô trí tuệ của thế giới thời xưa. Vị vua đầu tiên của triều đại nhà Tô-lê-mê (323-285 trước Công Nguyên) đã cho xây cất một Bảo Tàng Viện danh tiếng, tại đó quy tụ các nhà thông thái và những nhà nghiên cứu các môn học thời danh; họ có sẵn một thư viện bao la cũng như phòng thí nghiệm. Những tiến bộ đáng chú ý trong mọi lãnh vực: toán học, thiên văn học, y học, nhất là giải phẩu học, vật lý, địa lý. Về triết học, thành A-lê-xan-ri-a tiếp nối sự nghiệp của thành A-thê-na. Những hệ thống triết học đặt cạnh nhau và giải thích cho nhau. Về tôn giáo, những khuynh hướng tôn giáo hỗn hợp khẳng định cho nhau. Tóm lại, một thời kỳ huy hoàng nhất đối với trí tuệ con người, con người có thể tự hào về những chinh phục của mình.
2.Sự mõng dòn của lý trí phàm nhân:
Tác giả sách Khôn Ngoan phản ứng lại do quan điểm tôn giáo của ông về thế giới. Những hiểu biết phàm nhân, dù đáng chú ý đến mấy đi nữa, chẳng bao giờ hiểu được những ý định của Thiên Chúa: “Lạy Chúa, nào ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi?”.
Câu hỏi này Kinh Thánh thường đặt ra để nhắc nhớ sự siêu việt của Thiên Chúa, như Gióp: “Có phải anh đã hiện diện trong triều thần Thiên Chúa, và đã chiếm đoạt được khôn ngoan?” (G 15: 8) hay Giê-rê-mi-a: “Nhưng ai đã được họp bàn với Đức Chúa, để chứng kiến và nghe lời Người?” (Gr 23: 18) hoặc I-sai-a: “Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?” (Is 40: 13). Tác giả sách Khôn Ngoan hỗ trợ đề tài này bằng một tư tưởng không kém phần chứng thực: “Chúng con vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững”.
Tiếp đó, một câu nhuốm màu sắc nhị nguyên của Platon: “Quả vậy, thân xác dể hư nát này khiến linh hồn ra nặng”, nhưng ngay tức khắc lại gắn bó với đề tài Kinh Thánh về con người: “cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề”.
Những suy tư tiếp theo sau có thể mang tính bút chiến; chúng xem ra làm giảm thiểu những nổ lực của các bậc thông thái trong việc giải thích những thực tại trần thế. Thêm nữa, những nổ lực này không thể nào dò thấu những thực tại thiên giới: “Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng?”.
3.Lý trí phàm nhân được sự khôn ngoan Thiên Chúa soi sáng:
Những hiểu biết phàm nhân chỉ được sung mãn nhờ Mặc Khải và tác động thần khí thánh ở nơi con người: “Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Người chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gởi thần khí thánh?”. Vì là một tín đồ Do thái giáo, trung thành với độc thần giáo tuyệt đối khó mà gợi lên trong tâm trí của tác giả một sự biệt phân giữa Đức Chúa và thần khí thánh của Người; nhưng đúng hơn, tác giả đồng hóa Đức Khôn Ngoan của Đức Chúa với thần trí của Người. Tuy nhiên, thật chính đáng để đọc thấy ở đây một sự linh cảm nào đó về sự khác nhau về Đức Chúa và thần khí thánh của Người ở lòng cuộc sống của Thiên Chúa.
Cuối cùng, tác giả ám chỉ đến Lề Luật, được xem như cách diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa, kim chỉ nam cho những đức hạnh phàm nhân, con đường cứu độ: “Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ”.
Đoạn trích hôm nay vừa kết thúc lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon và cũng là để chuyển sang phần thứ ba của sách: suy tư về sự khôn ngoan của Thiên Chúa đang hoạt động trong Lịch Sử.
BÀI ĐỌC II (Plm 9b-10, 12-17)
Thư gởi ông Phi-lê-mon, tuy ngắn nhất trong các thư của thánh Phao-lô, nhưng rất độc đáo vì những tâm tình tinh tế được diễn tả ở đây và những tấm lòng được biến đổi dưới ảnh hưởng của Ki-tô giáo thật là cảm động mà bức thư này làm chứng,.
1.Lý do thánh nhân viết bức thư này:
Vào lúc đó, thánh Phao-lô đang bị giam cầm ở Rô-ma, chắc hẳn vào những năm 62-63. Thánh nhân đang đối mặt với một vấn đề không đơn giản một chút nào. Ông Phi-lê-mon là một Ki-tô hữu Cô-lô-xê; chắc chắn là một nhân vật khá giả, vì cộng đồng Ki-tô hữu tụ họp ở tại nhà ông. Ông có một người nô lệ tên là “Ô-nê-xi-mô”. Người nô lệ này đã trốn chạy khỏi nhà ông và lấy trộm của chủ một số đồ đạc, như thánh nhân đã viết trong thư: “Nếu anh ấy đã làm thiệt hại anh hay mắc nợ anh điều gì thì xin để tôi nhận cả”. Để tránh khỏi những cuộc truy tìm và những hình phạt mà anh có thể phải chịu, anh Ô-nê-xi-mô đã chạy đến Rô-ma, vì anh hy vọng mình có thể dễ dàng lẫn trốn vào đám đông trong các đường phố tại thành phố rộng lớn này.
Người nô lệ này biết rất rõ những người Ki-tô hữu vì đã thấy họ thường xuyên tụ họp tại nhà của chủ mình. Phải chăng đó là lý do thúc đẩy anh chạy đến Rô-ma để gặp thánh Phao-lô? Bức thư không nói cho chúng ta biết lý do. Dù sao thánh Phao-lô đã rửa tội cho anh và quý mến anh. Trong thời gian ở với thánh Phao-lô, anh Ô-nê-xi-mô đã trở nên một người hữu ích đến nỗi thánh nhân muốn giữ anh lại bên cạnh mình. Tuy nhiên, thánh nhân không thể, vì sợ vi phạm quyền lợi của ông Phi-lê-mon, chủ của anh. Vì thế, thánh nhân quyết định gởi anh Ô-nê-xi-mô trở về chủ của anh, ông Phi-lê-mon, kèm theo bức thư do tự tay thánh nhân viết. Không ai biết rõ hơn thánh nhân rằng người nô lệ đào thoát này trở về nhà chủ có thể gặp phải những nguy hiểm như thế nào. Như chúng ta biết thân phận của người nô lệ vào thời đó, người nô lệ không được đối xử như một con người nhưng như một dụng cụ sống trong bàn tay của chủ, tùy ý chủ sử dụng. Trong trường hợp một nô lệ trốn chủ, anh sẽ bị đóng dấu bằng thỏi sắt nung đỏ mang hình chữ viết tắt Đào Tẩu và chịu hình phạt tùy theo ý chủ.
Với sự tế nhị, thánh nhân thỉnh cầu ông Phi-lê-mon hai cử chỉ khác thường: khoan hồng cho phạm nhân và nhận lại người này không phải trong tư thế của người nô lệ nhưng như người con ruột thịt của thánh nhân và như một người anh em thân mến trong Đức Ki-tô.
Một sự gợi ý thật tinh tế, một lời mời gọi thật kín đáo, một lời thỉnh cầu mà không đòi buộc. Đoạn trích này thuộc phần trung tâm của bức thư.
- “Tôi, một người đã già và đang bị tù vì Đức Ki-tô”:
Thánh Phao-lô thử đặt tất cả danh dự của con người ngài vào lời thỉnh cầu của mình cho người nô lệ này: thánh nhân nhắc lại rằng ngài đã già (vào thời đó, 50-55 tuổi được xem là già) và đang bị cầm tù, và chính trong cảnh giam cầm này mà thánh nhân rửa tội cho anh: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích”.
- “Tôi xin gởi nó về cho anh”:
Thánh Phao-lô muốn mọi việc đều rõ ràng. Anh Ô-nê-xi-mô thuộc quyền sở hữu của ông Phi-lê-mon. Thật ra thánh nhân biết rằng nếu ngài ngỏ lời với ông Phi-lê-mon, chắc chắn bạn của mình sẵn lòng để anh Ô-nê-xi-mô ở lại với thánh nhân để phục vụ thánh nhân trong cảnh xiềng xích. Như vậy, khi gởi anh Ô-ne-xi-mô trở về chủ của mình, thánh nhân xem trọng tính cách nhưng không của tình bạn.
4.Như một người con ruột thịt của thánh nhân:
Nhưng thánh nhân nhấn mạnh tình phụ tử tinh thần của ngài; vì đã có một thay đổi sâu xa: anh Ô-nê-xi-mô đã trở thành Ki-tô hữu. Thánh nhân thương mến anh như đứa con ruột thịt mà thánh nhân đã mang nặng đẻ đau trong cảnh xiềng xích. Phải chăng thánh nhân muốn ông Phi-lê-mon cũng sẽ chia sẻ với thánh nhân những tâm tình như thế?
Thánh nhân khuyên ông Phi-lê-mon nên tha thứ cho anh Ô-nê-xi-mô, dù không nói trắng ra nhưng chỉ gợi ý: “Tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không tự nguyện”.
5.Như một người anh em rất thân mến:
Thánh nhân nhắc cho ông Phi-lê-mon biết rằng việc anh Ô-nê-xi-mô trốn chủ phải được xem như một thiên ân: vì ông Phi-lê-mon “không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến”. Với chỉ vài lời này thôi cũng đủ để diễn tả cuộc cách mạng mà Ki-tô giáo đem đến cho những mối quan hệ giữa người với người.
Quả thật, sau này thánh nhân đã viết: “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, , nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3: 28; Cl 3: 14). Biểu thức này không muốn nói rằng từ nay không còn phân biệt chủng tộc, phái tính, chủ tớ, nhưng những phân biệt này chẳng còn có ý nghĩa gì trước mặt Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng dạ con người. Từ nay, sự biến đổi nội tâm mới là đáng kể; nó làm đảo lộn thậm chí những thân phận bên ngoài, đến độ ở nơi khác, thánh nhân mạnh dạn phát biểu: “Người đang làm nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người đang tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Ki-tô” (1Cr 7: 22).
6.Mối liên hệ được tăng gấp bội:
Ông Phi-lê-mon được lại anh Ô-nê-xi-mô như một người anh em “cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa”, nghĩa là cả trong sự phục vụ của anh cũng như trong những mối liên hệ của anh giữa người Ki-tô hữu với người Ki-tô hữu. Chắc hẳn thánh nhân muốn nói rằng việc ông Phi-lê-mon tha thứ sẽ thiết lập nên một mối liên hệ đặc biệt giữa chủ và nô lệ.
Thánh Phao-lô đưa ra lời khuyên tinh tế sau cùng: “Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Ông Phi-lê-mon và thánh Phao-lô là anh em trong đức tin. Tình huynh đệ này phải trải rộng đến người nô lệ, người anh em khác này. Đó là sự “hiệp thông” của các chi thể Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Lc 14: 25-33)
Các sách Tin Mừng, đặc biệt sách Tin Mừng Lu-ca, tường thuật muôn vàn những lời khuyên của Đức Giê-su về việc từ bỏ: từ bỏ chính mình, từ bỏ của cải, đoạn tuyệt với sự giàu sang phú quý, vân vân. Nhưng chưa bao giờ Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài xa đến mức phải hy sinh thậm chí ngay cả những tình cảm cao quý và chính đáng nhất.
Quả thật, Đức Giê-su không nghĩ phải hủy bỏ huấn lệnh yêu người mà Ngài đã công bố ngang bằng với huấn lệnh mến Chúa; nhưng Ngài ấn định theo cấp bậc hai bổn phận: “mến Chúa” và “yêu người”. Lời của Ngài đã vang lên bên tai các môn đệ Ngài, những người đã bỏ hết mọi sự mà theo Ngài. Những môn đệ đầu tiên, Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, đã là mẫu gương, thậm chí Gia-cô-bê và Gioan đã để lại cha già mình là ông Dê-bê-đê mà họ có bổn phận chu toàn đạo hiếu, phụng dưỡng hằng ngày.
Những đòi hỏi của Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay, dù cứng rắn đến mấy đi nữa, tương ứng với thực tại và vang vọng xuyên suốt lịch sử Giáo Hội. Vốn bận lòng về Giáo Hội, thánh Lu-ca nghĩ trước tiên đến Giáo Hội truyền giáo, nhưng cũng đến Giáo Hội của đời sống tu trì mà lý tưởng tu viện sẽ nối tiếp.
1.Mến Chúa trên hết mọi sự:
Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi yêu mến Người đến tuyệt mức như vậy. Khi đòi hỏi phải yêu mến Ngài đến tuyệt mức tương tự, Đức Giê-su nhận về mình những đặc quyền của Thiên Chúa; Ngài ngầm khẳng định sự duy nhất của Ngài với Chúa Cha. Ngài đòi hỏi một tình yêu tuyệt đối phải vượt lên trên mọi tình yêu khác.
Thánh Mát-thêu cũng nêu lên tính tận căn của những đòi hỏi của Đức Giê-su: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10: 37), nhưng thánh Lu-ca đưa ra một danh sách đầy đủ hơn về những người mà tình cảm dành cho họ phải được đặt vào hàng thứ hai: cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thậm chí cả mạng sống mình.
2.Để là môn đệ Ngài:
“Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Ngài quay lại bảo họ”. Cử chỉ này của Đức Giê-su được thánh Lu-ca ghi nhận nhiều lần. Đức Giê-su luôn luôn dẫn đầu; Ngài là thầy, người dẫn đường; các môn đệ là những người bước theo Ngài. Khi Đức Giê-su quay lại, Ngài ngỏ lời với đám đông hiện diện, nhưng bên kia đám đông này, với đám đông môn đệ tương lai. Tuy nhiên, cử chỉ của Đức Giê-su cũng nhấn mạnh sứ điệp quan trọng mà Ngài sắp công bố qua ánh mắt nghiêm trang của Ngài.
“Ai đến với tôi…”. Đây là biểu thức Cựu Ước được gặp thấy ở nơi lời công bố Lề Luật. Trong Bộ Luật Giao Ước của sách Xuất Hành, biểu thức này được phát biểu: “Ngươi sẽ…” hay “Nếu ngươi…” (Xh 20: 22tt; 21: 2-17). Như vậy, đây là quy luật sống mà Đức Giê-su long trọng công bố, như xưa kia ông Mô-sê đã ngỏ lời như vậy với toàn thể dân Ít-ra-en.
Những yêu sách được trình bày dưới dạng phủ định: “Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Ở nơi khác, biểu thức này được diễn tả dưới dạng thức khẳng định: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9: 23). Các tác giả Tin Mừng đều sử dụng diễn ngữ “vác thập giá”, thậm chí trước khi Đức Giê-su nói rõ rằng Ngài sẽ bị đóng đinh vào thập giá khi Ngài loan báo lần thứ ba về cuộc Khổ Nạn của Ngài (x. Mt 20: 19). Nhưng các sách Tin Mừng được biên soạn dưới ánh sáng của các biến cố và diễn ngữ này gợi lên ở nơi các tín hữu tiên khởi còn khủng khiếp hơn. Các môn đệ phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, chấp nhận bước đi trên con đường đau khổ, thậm chí cho đến mức phải hy sinh cả tính mạng của mình.
3.Phải suy nghĩ cho thật nghiêm túc:
Tiếp đó là hai dụ ngôn về việc xây tháp và việc một vị vua muốn xuất quân đi giao chiến, cả hai dụ ngôn này đều có chung một tư tưởng trong mối liên kết với những đòi hỏi của Đức Giê-su. Để là môn đệ Đức Giê-su, phải dấn thân trọn vẹn, phải yêu mến Ngài tuyệt mức. Như vậy, trước khi quyết định theo Ngài, trở thành môn đệ của Ngài, phải ngồi lại mà tính toán cho thật nghiêm túc, định liệu sức mình có thể theo đuổi cho đến cùng không, nếu quyết định trong giây phút bốc đồng có nguy cơ giữa đường đứt gánh.
Tuy nhiên, vài nhà chú giải tự hỏi phải chăng Đức Giê-su đã công bố hai dụ ngôn này ở đây chứ không vào những hoàn cảnh khác. Bởi vì, việc dấn bước theo Đức Giê-su, gắn bó với Ngài, phải phát xuất từ sự bùng phát của một con tim bốc lửa chứ không từ những tính toán đắn đo hơn thiệt của lý trí. Ấy vậy, hai dụ ngôn này hoàn toàn thiếu vắng niềm hưng phấn của tình yêu bốc lửa này. Vì thế, câu kết luận mà từ đó Đức Giê-su rút ra: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”, khó định vị vào cái lô-gích của hai dụ ngôn này, nhưng lại rất phù hợp với những yêu sách tuyệt mức của Ngài đối với ai muốn làm môn đệ của Ngài như được kể ra trước đó.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
———————————————————-
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LÀM MÔN ĐỆ CỦA CHÚA- ĐTGM Ngô Quang Kiệt.
Ai trong chúng ta cũng mong ước được làm môn đệ của Chúa. Ai cũng muốn theo chân Chúa. Nhưng ta có thực sự hiểu làm môn đệ Chúa là như thế nào không? Hôm nay Chúa chỉ cho ta thấy rõ điều đó.
Làm môn đệ là một việc làm nghiêm túc. Đây không phải là một cảm tính bồng bột nhất thời. Nhưng là một việc lâu dài. Chúa Giêsu ví việc làm môn đệ theo Chúa với việc “xây dựng một cây tháp” và việc “chiến đấu với kẻ thù”. Xây dựng cây tháp là một việc làm lớn lao. Chiến đấu với kẻ thù là việc làm nghiêm trọng. Vì thế cần phải ngồi xuống suy tính cho cẩn trọng, chi li. Cũng thế việc làm môn đệ của Chúa là một việc làm nghiêm túc, vừa lớn lao như sự nghiệp cả đời, vừa nghiêm trọng vì ảnh hưởng tới cả định mệnh. Vì thế phải ngồi xuống suy tính cho kỹ lưỡng để có thể theo Chúa đến cùng. Phải suy tính kỹ lưỡng vì làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng.
Làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng. Môn đệ không phải là kẻ hiếu kỳ cưỡi ngựa xem hoa. Môn đệ không phải là kẻ tài tử nay làm mai không. Môn đệ là người đi theo thày suốt đời, sống như thày trong mọi sự. Chính vì thế mà phải coi thày là thần tượng duy nhất, không yêu mến thày. Chính vì thế mà phải từ bỏ tất cả, không chỉ người thân mà từ bỏ cả chính bản thân với những ý nghĩ riêng tư. Để không những đi theo thày, sống như thày mà con ăn nói như thày, suy nghĩ như thày nữa. Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong mình. Muốn có Chúa Kitô trong mình, ta phải loại bỏ tất cả những gì không phải Chúa ra khỏi mình. Điều này chắc chắn không dễ dàng. Nhưng ta an tâm, vì Chúa Giêsu không chỉ đòi hỏi ta. Người đã đòi hỏi chính mình trước. Chúa Giêsu không chỉ đòi ta vác thánh giá. Chính Người đã vác thánh giá trước. Ta sẻ cảm thấy dễ dàng vì chỉ việc làm như Chúa Giêsu.
Làm môn đệ là làm như Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi ta từ bỏ, chính Người đã từ bỏ trước. Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người và tự nguyện chết thay loài người. Khốc liệt nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới, Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Chúa đã từ bỏ ý riêng, vâng theo ý Cha, sẵn sàng ra đi chịu chết: “Nhưng đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”.
Nhờ hoàn toàn từ bỏ ý riêng, vác thánh giá đi đến cùng, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc của Chúa Cha trao phó, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Người môn đệ, khi hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẽ nên một với Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Làm môn đệ là gì?
- Chúa Giêsu đã nêu gương từ bỏ thế nào?
- Tại sao ta phải từ bỏ tất cả?
———————————————————-
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CÁI GIÁ PHẢI TRẢ- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Ý thức cái giá phải trả khi làm môn đệ Chúa.
“Từ bỏ mọi sự và vác thập giá theo Chúa” (Lc 14, 25-33)
Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Mỗi ngày Chúa nhật khi chúng ta đến với Chúa, chúng ta đã được nghe Chúa nói với chúng ta nhiều điều, những điều rất ngọt ngào, những điều rất an ủi. Hôm nay Chúa sẽ nói với chúng ta một điều không ngọt ngào lắm: Ngài muốn chúng ta phải hy sinh, phải từ bỏ.
Tại sao theo Chúa thì phải hy sinh và từ bỏ? Và phải hy sinh từ bỏ những gì?
Chúng ta hãy chú ý nghe Chúa giải thích. Và xin Chúa giúp chúng ta can đảm đáp lại lời kêu gọi của Ngài.
Gợi ý sám hối
- Phải chăng từ trước tới nay chúng ta đi theo Chúa vì tính toán vụ lợi, nghĩa là chỉ để được Chúa ban cho ơn này ơn nọ?
- Phải chăng chúng ta ít biết hy sinh?
- Phải chăng chúng ta rất ngại từ bỏ?
III. Lời Chúa
Bài đọc I (Kn 9, 13-18)
Sách Khôn ngoan sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người về những vấn đề căn bản. Đoạn trích hôm nay bàn về giới hạn của sự hiểu biết của con người:
– Ngay cả những vấn đề thuộc hạ giới, tức là những vấn đề trong tầm tay con người mà con người cũng phải rất nhọc công mới khám phá được, thậm chí nhiều điều con người không hiểu nổi.
– Huống chi những vấn đề thuộc thượng giới, những vấn đề liên quan đến cuộc sống đời đời.
– Vì thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để mà đi theo và nhờ đó được ơn cứu độ.
Đáp ca (Tv 89)
Tv này triển khai những ý tưởng của bài đọc I:
– Thân phận con người rất mỏng manh: “như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn”
– Do đó con người kêu xin Chúa: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.
Tin Mừng (Lc 14, 25-33)
Khung cảnh: Khi ấy “Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu”: họ đang cùng với Chúa Giêsu “tiến lên Giêrusalem”. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu (“đi theo” Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là “ghét”) tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
Bài đọc II (Plm 9b-10. 12-17) (Chủ đề phụ)
Đây là một phần của bức thư Phaolô viết cho một tín hữu của ngài là Philêmon.
Hoàn cảnh: Khi ấy, một nô lệ của Philêmon tên là Ônêsimô bỏ nhà trốn đi có lẽ sau khi đã ăn cắp một số tiền. Do hoàn cảnh nào đó đẩy đưa, Ônêsimô gặp Phaolô đang ở tù. Ônêsimô xin theo đạo. Phaolô chấp thuận. Phaolô cũng quyến luyến Ônêsimô muốn giữ anh lại với mình, nhưng không thể được. Vì thế Phaolô quyết định gởi Ônêsimô về cho chủ. Nhưng Phaolô không gởi suông, mà cho Tychique đi kèm và còn mang theo lá thư này nữa cho Philêmon trong đó Phaolô tế nhị gợi ý Philêmon sẽ đón nhận Ônêsimô như một người anh em trong đức tin. Nhưng Phaolô không hề lạm dụng tình nghĩa của Philêmon đối với mình để làm áp lực, trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmon sẽ vì lòng tốt mà làm việc đó.
Gợi ý giảng
* 1. Con đường theo Chúa
Thánh Luca mở đầu bài tường thuật này như sau:”Có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ”. Trong ngôn ngữ Thánh kinh, “đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Chúa Giêsu là ông thầy đi trước, các môn đệ đi theo phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này Chúa Giêsu đã “quay lại bảo họ”, nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ.
Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn dặn dò kỹ các môn đệ là gì? Đọc tiếp đoạn Tin mừng chúng ta thấy Chúa dặn dò 2 điều: một điều tiêu cực là phải từ bỏ, một điều tích cực là phải vác thập giá. Chúng ta hãy suy nghĩ về từng điều:
1a. Điều thứ nhất là từ bỏ
a/ Tại sao làm môn đệ Chúa thì phải từ bỏ? Vì đi theo Chúa giống như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc.
b/ Vậy phải từ bỏ những gì? Chúa Giêsu kể: phải bỏ “cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình”. Qua cách nói “Cha mẹ, vợ con, anh chị em”, ý Chúa muốn nói tới gia đình; còn qua chữ “mạng sống”, ý Chúa muốn nói tới những gì thân thiết nhất của mình. Nhưng ta hãy hiểu cho đúng; Chúa không bảo người môn đệ phải bỏ những thứ vừa kể một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Gia đình là tốt, mạng sống là cần. Gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng sống không có gì là xấu cả. Tuy nhiên bất cứ khi nào mình cảm thấy 2 thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ.
- Điều quan trọng thứ hai mà Chúa Giêsu căn dặn chúng ta là vác Thập giá
a/ Tại sao muốn đi theo Chúa thì nhất thiết phải với thập giá? Vì, như đã vừa nói ở phía trên, nếu đi theo Chúa giống như đi leo núi, thì thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
b/ Điều thứ hai này có liên quan tới điều thứ nhất: chúng ta từ bỏ những thứ bận vướng là để mình có thể thong dong mà vác thập giá.
Chúng ta thường quên mất 2 việc rất quan trọng để thực sự xứng đáng làm môn đệ Chúa:
1.Xưa nay chúng ta quen tìm kiếm để được thêm chứ ít khi nào chủ động từ bỏ. Thỉnh thoảng có từ bỏ chỉ là vì miễn cưỡng, vì rán chịu vậy mà thôi. Thí dụ khi chúng ta bị mất tiền, mất đồ đạc, khi một người thân chết.
2.Cũng thế xưa nay chúng ta không chủ động vác thánh giá. Thập giá nào Chúa gởi thì chúng ta rán mà vác vậy thôi. Nguyên việc khám phá thứ nhất này cũng cho thấy chúng ta chưa thực sự xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu. Người môn đệ thật của Chúa phải chủ động từ bỏ và chủ động vác thập giá.
* 2. Đòi hỏi của tình yêu
Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.
Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.
Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.
Trùng Nhĩ dù sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ “dứt bỏ” không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là “ít hơn”. Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu “yêu và bỏ”. Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mi 10, 37).
Vậy ý của Chúa Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.
Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.
Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.
Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận “cầm cày mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy, những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Đúng như Pierre Charles đã nói về họ: “Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi”.
Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.
Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hôi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen. (TP)
* 3. Lời nói thẳng thắn
Dòng Thừa Sai Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta đã rất nổi tiếng, nên có rất nhiều thiếu nữ xin gia nhập. Nhưng Mẹ Têrêsa rất thẳng thắn, Mẹ nói với họ: “Công việc người nữ tu dòng này rất cực khổ: chúng tôi phải phục vụ cho những người nghèo và những người vô gia cư. Chúng tôi phải làm việc suốt 24 giờ mỗi ngày”. Mẹ Têrêsa thẳng thắn như thế để các thiếu nữ ý thức và cân nhắc cẩn thận trước khi gia nhập dòng.
Gia nhập “dòng” của Chúa Giêsu để làm môn đệ Ngài còn cực khổ hơn nhiều. Vì thế Chúa Giêsu cũng rất thẳng thắn nói rõ cho những kẻ đi theo Ngài: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải sẵn sàng từ bỏ tất cả và còn phải vác thập giá mà theo.
Làm môn đệ Chúa không phải là bám theo một nhân vật quyền thế để có ô dù che chở hay để chia xẻ vinh dự, mà là để sống theo gương Ngài: hy sinh tất cả vì yêu thương mọi người.
Bởi đó người muốn làm môn đệ Chúa cần phải suy nghĩ kỹ xem mình có thể đáp ứng được những đòi hỏi khó khăn ấy không. Như người xây tháp phải suy nghĩ kỹ về khả năng tài chính của mình, như một ông vua trước khi xuất chinh phải suy nghĩ kỹ về sức mạnh quân sự của mình.
Nếu chúng ta suy nghĩ kỹ về khả năng đáp ứng của mình trước hai đòi hỏi trên của Chúa Giêsu, chắc là chúng ta nản lòng không dám làm môn đệ của Ngài nữa.
Tuy nhiên gương các tông đồ là một khích lệ cho chúng ta: ban đầu các ông theo Chúa Giêsu mà không suy nghĩ gì nhiều; nhiều lúc các ông còn nghĩ rằng theo Chúa Giêsu thì sẽ được chia quyền chia thế trong nước mà Ngài sẽ thành lập. Nhưng Chúa Giêsu từ từ thanh luyện suy nghĩ của các ông. Sau ngày Chúa phục sinh, các ông mới hiểu rõ thế nào là làm môn đệ Chúa; và nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần các ông đã can đảm từ bỏ tất cả và vác thập giá của mình đi theo Chúa một cách hăng hái và vui vẻ.
Hiện giờ chúng ta chưa đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi của Chúa về một người môn đệ. Nhưng ít ra ý thức của chúng ta về những đòi hỏi đó cũng giúp chúng ta không đi theo Chúa vì những tính toán sai lệch. Nhìn gương các tông đồ và tin tưởng vào sự trợ giúp của ơn Chúa, chúng ta có thể can đảm từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.
* 4. Người-đi-theo và người-môn-đệ
Trong đoạn Tin Mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo” và “làm môn đệ”. Thánh Luca đã xử dụng những cụm từ này rất khéo: “Khi ấy có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi”… Rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu nhưng không phải tất cả đều là “môn đệ” Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là môn đệ.
Người-đi-theo chưa hẳn là người-môn-đệ
Cũng như người-nói “Lạy Chúa lạy Chúa” chưa hẳn là người-làm theo ý Chúa.
Cũng như người-đến-nhà-thờ chưa hẳn là người-tín-hữu.
Cũng như người-mang-danh kitô hữu chưa hẳn là người-kitô-hữu.
Điều khiến người-nói thành người-làm, người-đến-nhà-thờ thành người-tín-hữu, người-đi-theo thành người-môn-đệ, người-mang-danh-kitô-hữu thành người-kitô-hữu-đích-thực, đó là từ bỏ và vác thập giá.
Một trong những khiếm khuyết của Giáo Hội–và là khiếm khuyết lớn nhất – đó là trong Giáo Hội có rất nhiều người-đi-theo Chúa Giêsu, nhưng rất ít người-môn-đệ thực sự của Ngài.
* 5. Trả giá
Muốn làm việc gì cũng phải trả giá cho việc đó. Việc càng trọng thì giá càng cao. Nhiều người không làm xong việc mình muốn làm là vì không dám trả giá.
Antoinette là một cô gái rất đẹp nhưng rất nghèo. Điều mơ ước duy nhất của cô là trở thành giàu có, và cô nghĩ rằng cách dễ nhất là lấy được một người chồng giàu. Nhưng rủi thay khi cô lấy chồng thì người chồng của cô chỉ là một kẻ thường dân. Thất vọng và chán nản, cô chẳng muốn làm gì nữa, cũng chẳng muốn đi đâu hết.
Một hôm, Antoinette nhận được thiệp mời đến dự một bữa tiệc gồm toàn những người quý phái. Cô mừng lắm. Nhưng cô không có y phục và nữ trang sang trọng. Tuy nhiên cô biết cách thu xếp: cô rút hết tiền tiết kiệm ra mua được một bộ áo đẹp; cô đến với Marie một bạn học cũ mượn được một chiếc vòng nạm kim cương.
Thế là Antoinette xuất hiện trong bữa tiệc với một dáng vẻ rất xinh đẹp và sang trọng. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về cô. Cô rất sung sướng. Tuy nhiên khi tiệc tàn, trở về nhà, cô hoảng hốt khi biết chiếc vòng nạm kim cương đã rơi mất. Tìm tới tìm lui nhiều lần mà vẫn không thấy.
Chẳng còn cách nào khác, cô đành phải đi vay 40 ngàn quan với lãi xuất cao để ra tiệm kim hoàng mua một chiếc vòng y như thế trả lại cho Mary. Vì hai chiếc vòng rất giống nhau nên Marie không thắc mắc gì cả.
Từ đó trở đi, Antoinette phải làm đủ mọi việc để kiếm tiền trả nợ. Sau 10 năm, cô trả xong nợ. Nhưng khi đó trông cô rất già và không còn xinh đẹp như ngày xưa nữa.
Một hôm Antoinette và Marie tình cờ gặp nhau:
– Ồ sao trông bạn già đi và tiều tụy như thế? Marie giật mình hỏi.
– Tất cả chỉ tại bạn đó.
– Sao lại tại tôi?
Antoinette kể rõ đầu đuôi sự việc. Nghe xong Marie nói:
– Trời ơi tội nghiệp cho bạn quá. Chiếc vòng nạm kim cương của tôi là đồ giả. Giá chỉ có 400 quan thôi.
Thế là đột ngột Antoinette được Marie trả lại 39. 600 quan. Cô đã trở thành người giàu có. Nhưng với cái giá là 10 năm làm quần quật đủ mọi thứ việc cùng với một thân xác tiều tuỵ và một bộ mặt già nua.
Phải chi Antoinette đã chịu khó làm việc ngay từ đầu thì cái giá đâu đến nỗi cao quá như vậy!
- Chuyện minh họa
a/ Một hôm, có một người đến hỏi một giáo sư nổi tiếng về một thanh niên: “Anh ta có phải là môn đệ của Thầy không?” Vị giáo sư đáp: “Quả thật anh ta đang theo học những bài dạy của tôi. Nhưng không bao giờ anh ta là môn đệ của tôi”.
b/ Một vị vua đến thăm một thiền viện. Nhà vua hỏi vị thiền sư: “Trong thiền viện này có tất cả bao nhiều người đang theo học”. Thiền sư đáp “10 ngàn”. Nhà vua rất ngạc nhiên. Nhưng nhà vua càng ngạc nhiên hơn nữa khi thiền sư nói tiếp: “Trong số đó, số môn đệ thật của tôi chỉ có 4 hoặc 5 người”.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, có người nào biết được ý định của Thiên Chúa? Ai hiểu được Chúa muốn gì? Với ước mong được Chúa gan Đức Khôn ngoan và Thánh thần để giúp ta hiểu được thánh ý Người, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Hội thánh luôn bênh vực những người thấp cổ bé miệng / bảo vệ những ai cô thế cô thân / giúp đỡ những kẻ đói rách bần cùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ các công cuộc từ thiện của Hội thánh trên khắp hoàn cầu.
- Ngày nay / tuy chế độ nô lệ không còn nữa / nhưng nhiều hình thức nô lệ khác tinh vi hơn vẫn tồn tại và phát triển / làm mất hết tự do và phẩm giá của con người / như việc buôn bán phụ nữ còn đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những nhà lãnh đạo các quốc gia / sớm tìm được phương thế thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng kinh tởm này.
- Trách nhiệm của người Kitô hữu / là cộng tác với hất thảy mọi người thành tâm thiện chí / để xây dựng trái đất này ngày càng xinh đẹp và hữu ích hơn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết cố gắng thực hiện trọn vẹn bổn phận cao quý này.
- Chúa Giêsu nói: / Ai không vác thập giá mình mà theo tôi / thì không thể làm môn đệ tôi được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn can đảm đón nhận mọi thử thách / và trung kiên bước theo Chúa mái đến cùng.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương và mời gọi chúng con làm con cái Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống xứng danh người Kitô hữu, để những anh chị em chưa nhận biết Chúa, nhìn vào đời sống của chúng con mà nhận ra Chúa chính là tình yêu. Chúng con cầu xin
- Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Tác giả đoạn sách Khôn ngoan hôm nay đã viết “ý định của Chúa ai nào biết được”. Chúng ta hãy xin Chúa tỏ cho chúng ta biết được thánh ý của Ngài để chúng ta thi hành.
VII. Giải tán
Chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa Giêsu “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Trong tuần này chúng ta hãy can đảm vác lấy những thập giá hằng ngày để theo Chúa.
——————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
DẤN BƯỚC ĐI THEO CHÚA– Lm Giuse Đinh lập Liễm
- DẪN NHẬP
Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất đông người đi theo Đức Giêsu. Nhiều người đi theo Ngài vì tưởng rằng Ngài đến đó để lập một vương quốc hùng cường theo nghĩa trần gian, Ngài đến đó với một vẻ huy hòang chiến thắng. Nhưng cũng có người có thiện cảm, có thiện chí đi theo để làm môn đệ Ngài. Trong bầu khí hồ hởi đó, Đức Giêsu không ngần ngại đưa ra những điều kiện khắt khe cho những ai muốn đi theo Ngài. Ngài biết trước số người đi theo thì rất đông, nhưng người trở thành môn đệ thì rất ít. Ngài đưa ra những điều kiện như vậy để họ suy nghĩ và tự quyết định con đường để theo.
Điều kiện Đức Giêsu đưa ra cho những ai muốn đi theo làm môn đệ Ngài là từ bỏ và vác thập giá. Ngài đã nói thẳng thừng và cương quyết :”Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được”(Lc 14, 26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định : nếu yêu chính bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ của Ngài.
Chúng ta là những Kitô hữu. Trên nguyên tắc, Kitô hữu là người được mang tên Đức Kitô, được thuộc về Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài và làm môn đệ Ngài, nhưng trong thực tế, mấy ai sống xứng đáng với danh hiệu là Kitô hũu chính danh, xứng đáng với danh hiệu là môn đệ trung thực của Đức Kitô, nhiều khi vô tình đã trở thành những môn đệ dổm. Hôm nay chúng ta phải xác quyết lại lời hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma qủi và quyết tâm theo Chúa đến cùng.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Kn 9,13-18.
Sách Khôn ngoan là một sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người chung quanh vấn đề khôn ngoan minh triết. Ngày xưa vua Salômôn chỉ xin Chúa ban cho sự khôn ngoan ấy và ông đã trở nên người khôn ngoan nhất trên trần. Vậy sự khôn ngoan đích thực là gì và từ đâu tới ? Thưa, sự khôn ngoan đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa.
Đọan trích hôm nay cho biết con người có sự khôn ngoan, nhưng sự khôn ngoan ấy rất hạn chế. Ngay trong những việc thuộc trần thế nằm trong tầm tay của con người mà chưa thể hiểu nổi, phương chi là những điều thuộc thượng giới, những điều liên quan đến cuộc sống đời đời thì làm sao hiểu thấu được.
Vì thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để đi theo và nhờ đó mà được ơn cứu độ. Thiên Chúa sẽ ban ơn khôn ngoan cho chúng ta nhờ Thần Khí giúp đỡ.
+ Bài đọc 2 : Plm 9b-1012-17.
Trong lá thư ngắn gửi cho Philêmôn, thánh Phaolô biện hộ cho tên nô lệ Ôânêximô để gợi lên lòng bác ái Kitô giáo mà tha thứ cho anh ta. Anh Ônêximô là tên nô lệ của Philêmôn, đã trốn đi sau khi đã ăn cắp một số tiền. Sau khi anh này đã theo đạo, thánh Phaolô gửi anh ta lại cho chủ và xin ông chủ hãy đón nhận anh không phải một tên nô lệ mà là một người anh em trong Đức Kitô.
Tuy thế, thánh Phaolô không hề lạm dụng tình nghĩa của Philêmôn đối với mình để gây áp lực; trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmôn sẽ vì lòng tốt mà làm theo sự gợi ý của mình.
+ Bài Tin mừng : Lc 14, 25-33.
Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất nhiều người đi đường với Đức Giêsu. Theo tâm lý chung của những người thời đó, Đức Giêsu sẽ thiết lập một vương quốc hùng cường, cho nên họ nghĩ rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Nhưng để đánh tan sự hiểu lầm này, Đức Giêsu đã đưa ra những điều kiện cho nghững kẻ muốn theo Ngài.
Theo ý Đức Giêsu, ai muốn theo Ngài thì phải coi Ngài hơn tất cả mọi mối dây liên hệ thân ái nhất như cha mẹ, vợ con, anh chị em và kể cả mạng sống mình nữa. Theo Ngài tức là làm một đệ Ngài, và đã làm môn đệ Ngài thì phải thực hiện những điều kiện cực kỳ gay go.
Đồng thời, Đức Giêsu cũng khuyên nhủ mọi người phải khôn ngoan trong việc lựa chọn qua dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Việc theo Chúa là một việc trọng đại phải đắn đo suy nghĩ thật kỹ trước khi dấn thân, chứ không thể bốc đồng rồi bỏ cuộc.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Muốn làm môn đệ của Chúa.
- GIÁO HUẤN TRÊN ĐƯỜNG ĐI GIÊRUSALEM.
Thánh Luca tường thuật cho chúng ta cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem và những lời giáo huấn của Ngài. Cuộc hành trình này lại trùng với cuộc hành trình của người Do thái đi dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Vì thế, có nhiều đám đông cùng đi với Ngài. Nhưng họ không phải là những người đi qua đường mà là những người có thiện cảm với Đức Giêsu và có thiện chí muốn theo Ngài.
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “Đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Đức Giêsu là ông thầy đi trước, các môn đệ đi phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này, Đức Giêsu “quay lại bảo họ”, nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ. Đức Giêsu muốn dạy những điều gì ? Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai phần chính và một phần phụ. Phần chính là những điều kiện cho người đi theo Chúa, và phần phụ nói lên tính cách của việc đi theo Chúa qua hai dụ ngôn người xây nhà và ông vua đi giao chiến.
- PHẦN CHÍNH CỦA GIÁO HUẤN.
Phần này gồm có hai điều kiện : từ bỏ mọi sự và vác thập giá.
- Từ bỏ mọi sự.
Điều kiện theo Chúa là phải từ bỏ mọi sự. Việc đi theo Chúa giống như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc. Chúa bảo ta phải bỏ tất cả mọi sự. Điều này xem ra quá gay gắt, nhưng chúng ta phải hiểu ý Ngài nghĩa là Ngài không bảo người môn đệ phải bỏ tất cả cha mẹ, vợ con, anh chị em… một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Tuy nhiên, bất cứ khi nào mình cảm thấy những thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ.
- Vác thập giá mình.
Ở đây Đức Giêsu muốn lưu ý rằng những ai muốn theo Ngài thì chỉ có thể theo bằng cách vác thập giá như Ngài sẽ vác. Thập giá ở đây là những hy sinh phải đón nhận. Theo Chúa là đón nhận sự hy sinh trong việc từ bỏ, trong nỗ lực, cố gắng và thiện chí. Nếu không vậy thì không thể thành môn đệ của Ngài được.
- PHẦN PHỤ CỦA GIÁO HUẤN.
Người muốn làm môn đệ phải biết khôn ngoan lựa chọn vì từ bỏ là điều kiện để theo Chúa và theo Chúa là một việc quan trọng có liên can đến sự sống còn của cuộc đời mỗi người. Vì vậy Đức Giêsu bảo ta phải thận trọng tính toán và kiên tâm bền chí mới có thể vượt thắng được mọi trở ngại trên đường theo Chúa.
Để diễn tả điều đó, Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn về một người muốn xây nhà và ông vua đi giao chiến. Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền không, kẻo đang xây dở dang mà hết tiền thì không có nhà ở, và ông vua không lượng sức mình thì sẽ thua phía địch. Hai dụ ngôn này nhấn mạnh rằng nếu có ý định theo Chúa thì cần phải lượng sức mình trước, xem mình có thể từ bỏ được như Chúa đòi hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ bỏ ý định theo Chúa, kẻo sau đó mà “giữa đường đứùt gánh” thì bỏ cả cuộc đời, đời này và đời sau.
- TRIỂN KHAI ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA.
Những người cùng đi với Đức Giêsu tới Giêrusalem là những người đi cho vui cũng có, để thỏa mãn ước vọng cũng có và những người vì ái mộ cũng có. Thánh Luca nói rõ :”Có nhiều đám đông cùng đi với Đức Giêsu”. Nhưng trong đám đông này có nhiều người có thiện cảm, có thiện chí muốn đi theo Ngài. Từ ngữ “Đi theo” trong Thánh Kinh có nghĩa là làm môn đệ. Vậy Đức Giêsu nói cho đám đông và cách riêng cho các môn đệ của Ngài những điều kiện phải có để trở thành môn đệ của Ngài. Chúng ta tiếp tục triển khai từng điều kiện.
Điều kiện tiêu cực : Từ bỏ. Đức Giêsu nói với đám đông :”Nếu ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta”(Lc 14,26). Có bản dịch là “ghét” cha mẹ. Như vậy có mâu thuẫn với giới răn thứ tư không (Lc 18,19t) ?
Theo Joseph Fitzmeyer, trong ngôn ngữ Hy lạp chữ “misein” có nghĩa là “ghét”, ngược với chữ “agapan” là “yêu”. Chữ “ghét” này mang một ý nghĩa ít yêu thương, chọn một cái khác ưu tiên hơn. Nó không diễn tả một tình cảm thù nghịch, mà chỉ nói lên một sự lựa chọn hơn kém. Phải “từ bỏ” tất cả mọi sự, trừ Thiên Chúa, tức là chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hơn bất cứ sự gì khác, gồm của cải vật chất hay những liên hệ thân yêu với cha mẹ, vợ con, anh chị em trong gia đình. Nếu còn bám víu vào bất cứ ai hoặc sự gì ưu tiên hơn Thiên Chúa, chúng ta chưa xứng đáng là môn đệ của Ngài (Nguyễn văn Thái).
Như vậy, ghét hay từ bỏ ở đây chỉ có nghĩa là đặt ở hàng thứ yếu, không ngang hàng. Nên câu trên chỉ có ý nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn cha mẹ, vợ con, anh chị em (St 29,30.31.33; Đnl 15,21t; Mt 10,37).
Những lời Đức Giêsu phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả một điều : tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy.
Thánh Grêgôriô Cả giải thích câu “khó nghe” này, ngài viết :” Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt khóat là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu : Chúa trên hết.
Không những Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải từ bỏ những cái bên ngoài mà Ngài muốn môn đệ phải từ bỏ chính bản thân mình. Từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏ tham, sân, si.
Tham là tính tham lam : tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau.
Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác.
Si là ngu muội, tối tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến sai lầm. Hơn nữa còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong xấu xa, thối nát.
Đối với chúng ta thì từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý muốn ý thích của mình khi điều đó không phù hợp với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.
Vấn đề thực hành sống đạo : Nếu “bản thân mình” là con người hiện thân của chủ thể và là sự sống tâm linh nơi chủ thể, thì “bỏ bản thân mình” đi theo lời Chúa Kitô khuyên dạy trong Tin mừng hôm nay phải chăng chính là việc bỏ đi những ý nghĩ về mình và là việc bỏ đi ý muốn tự do của mình, dù những ý nghĩ về mình hay của mình đó có chí lý đến đâu, và dù ý muốn của mình đó có tốt lành và hay ho đến mấy đi nữa, chẳng hạn như trường hợp Trinh Nữ Maria trong giây phút Truyền tin Lời nhập thể, hay như trường hợp của thánh Phêrô bị Thầy quở là “Đồ Satan, hãy xéo đi, vì ngươi chẳng nghĩ tưởng theo ý hướng của Thiên Chúa mà tòan là theo kiểu của lòai người”(Mt 16,23”?
Điều kiện tích cực : vác thập giá.
Các đám đông hâm mộ Đức Giêsu chắc hẳn xem việc Ngài đến Giêrusalem như là một cuộc tiến vào đầy khải hoàn vinh thắng, sau đó là xuất hiện vương quốc trần thế và vinh hiển của Đấng Messia. Họ tự xem mình là môn đệ Đức Giêsu và đáng được Ngài đưa đến vinh quang. Đức Giêsu không thể để ảo tưởng đó kéo dài. Ngài lưu ý những kẻ theo Ngài : họ chỉ có thể theo Ngài bằng cách vác thập giá, như chính Ngài sẽ vác sau này. Ai quyết định theo Đức Giêsu phải sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của việc đó, cũng như mọi thứ đi ngược lại bản tính con người.
Theo Chúa thì nhất thiết phải vác thập giá. Theo Chúa là một cuộc đăng sơn, một cuộc leo lên núi Calvariô. Theo Chúa giống như leo núi, thập giá giống như cái gậy của người leo núi. Nó rất cần và có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc. Thập giá ở đây là mọi hy sinh phải đón nhận và đón nhận với tinh thần tự nguyện :”Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,27).
Tuy thế, không phải cứ tự nguyện vác thập giá thì thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng, dễ chịu. Điều đó cũng đúng, nhưng không vì thế mà làm cho cây thập giá trở nên nhẹ nhàng đến nỗi không cần cố gắng nữa. Mỗi ngày một cố gắng thì sẽ thành công.
John Newton đề nghị với chúng ta cách vác thập giá : “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra , rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế : chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”!
Phải lượng sức mình : lựa chọn.
Muốn làm môn đệ Chúa, mỗi người phải suy tính cẩn thận, phải tính cái giá phải trả khi theo Ngài. Ngài minh giải điều đó bằng hai dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Cái tháp mà người định xây đó có lẽ là cái tháp của vườn nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó có thể trông coi cả vườn kẻo kẻ trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật đáng xấu hổ. Hay là ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính toán trước, đo lường số quân của mình với lực lượng của đối phương.
Đức Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống tín hữu hơn là bước vào rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước vào cuộc sống ấy đã phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi phục vụ Chúa. Tục ngữ Việt nam cũng nói lên ý tưởng ấy :
Xem giỏ bỏ thóc Hay
Đừng vung tay quá trán.
Sống là phải chọn lựa và sự chọn lựa nhiều lúc làm cho chúng ta phải băn khoăn lo lắng, day dứt, giống như ở đô thị Jeffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lự một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào những khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngòi theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng. Không ai có thể làm tôi hai chủ.
Sự lựa chọn đã là khó, nhưng sống theo sự lựa chọn đó càng khó hơn, đúng như người ta nói :”Đâm lao thì phải theo lao”(Tục ngữ), đã theo Chúa thì phải quyết tâm theo đến cùng vì :”Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta”. Đã theo Chúa thì sẵn sàng chấp nhập mọi bất trắc rủi ro :
Muối mặn ba năm muối vẫn còn mặn,
Gừng cay chín tháng gừng hãy còn cay.
Đạo vợ chồng đừng có đổi thay,
Làm nên danh vọng, hay rủi ăn mày vẫn theo nhau.
(Ca dao)
Đi theo hay làm môn đệ ?
Trong đoạn Tin mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo” và “làm môn đệ”. Thánh Luca đã xử dụng những cụm từ này rất khéo :”Lúc ấy có rất đông người “đi theo” Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ :Ai không dứt bỏ…thì không thể “làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta thì không thể làm môn đệ Ta”. Rất đông người đi theo Đức Giêsu nhưng không phải tất cả đều là môn đệ Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là môn đệ. Người đi theo chưa hẳn là người môn đệ.
Có người nói với một giáo sư danh tiếng ở Đại học Paris về một chàng thanh niên rằng
– Anh ta nói với tôi rằng, anh ta là học trò của giáo sư, có phải không ?
Vị giáo sư thẳng thắn trả lời :
– Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi nhưng anh ta không phải là học trò của tôi.
Bài học của câu chuyện trên đây muốn nói một học sinh chưa chắc là “môn sinh”. Là một học sinh thì rất dễ dàng. Nó không đòi hỏi những trách nhiệm luân lý quan trọng. Học sinh có thể thay đổi giáo sư tùy theo nhu cầu bằng cấp. Một ủng hộ viên cũng có thể nay ủng hộ người này mai chạy theo ủng hộ người khác tùy theo nhu cầu cá nhân của họ. Họ là kẻ cơ hội chủ nghĩa. Châm ngôn của họ là :”Làm cái gì có lợi cho tôi”. Trái lại, một môn sinh đích thực phải có sự cam kết đoan hứa trung thành, một sự dấn thân dâng hiến hoàn toàn cho lý tưởng và thầy mình. Một môn sinh phải có một tinh thần vâng phục sâu xa và một lòng ước ao học hỏi nơi sư phụ của mình.
Một lần khác, khi nhà vua Trung quốc đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin Chi, nhà vua ngạc nhiên khi biết được rằng có hơn 10.000 nhà sư đang sống ở đó. Muốn biết rõ con số chính xác các nhà sư, nhà vua hỏi
– Ngài có bao nhiêu đệ tử ?
Nhà sư Lin Chi đáp :
– Bốn hoặc năm.
Lạ thật ! Với hàng chục ngàn người theo học mà chỉ có 4,5 người là môn đệ ! Nếu hôm nay có người hỏi Chúa : Ngài có chính xác bao nhiêu môn đệ ? Không biết Chúa sẽ trả lời làm sao vì nhiều người chỉ có danh mà không có thực, chỉ có tiếng mà không có miếng ! Phải tỏ ra mình là một Kitô hữu chính danh chứ không phải hư danh, phải sống đúng với địa vị của mình là Kitô hữu , đúng là :
“Có ăn có chọi mới gọi là trâu” (Tục ngữ).
III. LÀM MÔN ĐỆ CHÚA HÔM NAY.
Những đòi hỏi của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay là quá gắt gao, người ta có thể chấp nhận được không ? Nếu Đức Giêsu làm nghề quảng cáo, chắc là Ngài sẽ thất bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình, lại không đưa ra một tương lai sán lạn nào, không tìm thấy bất cứ một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần trụi như Chúa đã không có gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước lên thập giá. Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt thòi đến vậy ? Theo mà điều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì ? Nhất là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình một cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là một điều không tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lõng, xa lạ ?
Thế nhưng không đúng ! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn với thực tế mà lịch sử Giáo hội đã ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi về sau. Bởi đã 2000 năm, những lời Đức Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời Sống cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình. Những anh chị em ấy đã quả cảm bước theo Đức Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập giá làm niềm vui của đời mình. Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của Đức Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lõng, mà còn sống, sống mạnh và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ. Họ là ai ? Hơn hai tỷ người theo Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn (Nguyễn hữu An).
Vậy ý của Đức Giêsu là ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải đặt tình yêu Chúa trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác, tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu : Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay chính cả bản thân.
Như thế, người tín hữu khi đã chọn Chúa, làm môn đệ của Ngài, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặït lại cho mình.
Truyện : Giới Tử Thôi.
Trong “Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đờøi Xuân Thu, là một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi đi lánh nạn. Trên đường chạy trốn từ nước Địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua nước Vệ chận lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại nên sinh kiệt sức sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn mới lại sức đi đến được nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không màng lãnh công. Cả khi vua Tấn nhớ ơn người bầy tôi trung thành, muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất quyết không nhận.
(Võ Ngọc Thành, Nhân vật Đông Châu, 1968, tr 324)
Giáo hội thúc giục chúng ta hãy dấn bước theo Chúa trong cuộc đời dương thế. Hiến chế Lumen gentium ghi rõ :”Đang khi còn là lữ hành trên mặt đất, bước theo vết chân Người trong đau thương và bách hại, chúng ta cùng thông hiệp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp với đầu, hiệp thông với sự thương khó của Người để được cùng Người vinh hiển (Rm 8,7) (Lumen gentium đọan 7).
Sau cùng, chúng ta hãy bước theo Đức Giêsu với sự chia sẻ của Đức cố Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận qua kinh nghiệm 14 bước theo Đức Giêsu :
. Bước lang thang ra chuồng bò ở Be lem.
. Bước hồi hộp trốn sang Ai cập.
. Bước bồn chồn trở về Nazareth.
. Bước phấn khởi lên đền thánh với cha mẹ.
. Bước vất vả suốt 30 năm lao động.
. Bước yêu thương ba năm rao giảng Tin mừng.
. Bước thao thức kiếm tìm chiên lạc.
. Bước xót xa vào Giêrusalem đầm đìa nước mắt
. Bước cô đơn ra trước tòa không một người thân.
. Bước ê chề vác Thánh giá lên đồi tử nạn.
. Bước thất bại chết chôn mồ kẻ khác, không tiền không bạc, không manh áo, không bạn hữu.
. Bước khải hòan sống lại, hãy vững lòng Thầy đã thắng thế gian.
. Bước khổng lồ đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng.
. Bước liều mạng lăn xả vào thử thách, chấp nhận mọi hậu quả, vì Chúa đã dạy con liều mạng”
(Trích Sứ điệp Lao Tù, Vietcatholic, CD 3)
———————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bài đọc 1 Chúa nhật XXIII thường niên C dạy chúng ta rằng” “Những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan”. Vì theo Thánh Kinh, sự Khôn ngoan của Thiên Chúa đồng nghĩa với Lời Chúa. Từ đó, nghe lời sự Khôn ngoan là căn tính đầu tiên của người môn đệ Đức Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể.
Đức Giêsu Kitô là Lời Thiên Chúa, là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (1 Co 1, 24, 30 ) cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh, từ bỏ nữa” “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.” Nghe lời tuyên bố của Đức Giêsu ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao ? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Đức Giêsu, với đòi hỏi thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải từ bỏ tận căn, không những của cải, người thân thiết nhất, mà cả những tiện nghi, kế hoạch riêng, sự quyến luyến, những giao tiếp hợp pháp và thậm trí cả chính mạng sống mình nữa nữa (x. ). Ngài yêu cầu phải “bỏ” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Có người đặt câu hỏi” Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự từ bỏ đối với họ? Không phải thế, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Ngài là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Đức Giêsu yêu cầu con người dành cho Ngài một vị trí đặc biệt và cao nhất.
Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải … mà là cái tôi. Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Đức Giêsu, nên Ngài thêm” “Ai không vác thập giá mình mà theo, thì không thể làm môn đệ Ta”. Đức Giêsu có thích khổ đau và thậy giá không? Không, Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là từ bỏ cái tôi, từ bỏ những ước muốn xấu, những lời chua cay, nóng nảy, giận hờn, từ bỏ tính kiêu căng, thói tham lam, để chúng ta thoát khỏi những đam mê vật chất, hầu sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cơ bản, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.
Không phải ngẫu nhiên Đức Giêsu nói đến “Thập Giá”. Vác thập giá bước theo Đức Kitô không phải là vác đi với những bước nhẹ nhàng. Vác lấy thập giá mà theo Chúa Giêsu có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Ngài đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Ngài đi mau để chúng ta được lúi kéo dắt dùi, Ngài nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.
Quyết định theo Đức Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Đức Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma” “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật.” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).
Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con muốn từ bỏ tất cả để đi theo Chúa, nhưng trên đường đi, chúng con sợ bị mất một phần của đời sống, sợ mất tự do, sợ đau khổ, sợ không có khả năng, không thực sự muốn bước đi theo Chúa và trở thành môn đệ Chúa. Lạy Chúa, chúng con dâng cho Chúa ‘ước muốn theo Chúa của chúng con’ và chúng con mở cửa lòng mình cho Chúa. Lạy Chúa, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có chúa là sức mạnh để chúng con tiến bước theo, hiệp nhất với Chúa cho đến trọn đời. Amen.
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
THEO CHÚA, PHẢI TỪ BỎ TÌNH CẢM TỰ NHIÊN– Jos.Vinc. Ngọc Biển
Trên hành trình lên Giêrusalem để thi hành sự vụ cứu độ con người qua cái chết của mình, Đức Giêsu thấy người ta theo mình rất đông. Có những người theo Ngài chỉ vì tính hiếu tri, tò mò; lại có những người theo vì mong được chứng kiến hay trực tiếp lãnh nhận được một vài phép lạ như Chúa đã làm; lại có những người theo vì hy vọng Đức Giêsu thiết lập một vương quốc oai hùng theo kiểu trần gian; tuy nhiên, cũng có những người theo Chúa vì muốn được ơn cứu độ. Ngài biết rõ họ. Vì thế, như một mẫu số chung, Đức Giêsu đưa ra một điều kiện tiên quyết cho hết mọi người, hầu giúp họ trắc nghiệm lại thái độ theo mình của đám đông: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được”(Lc 14, 26-27).
Vậy điều kiện đó của Đức Giêsu có hợp lý không?
Đi theo và làm môn đệ
Đi theo ai là làm môn đệ cho người ấy. Đi theo Chúa tức là tôn nhận Chúa làm chủ của mình. Đi theo Chúa cũng là lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy; sống cuộc sống như Ngài đã sống, và cùng chung số phận như chính Ngài đã chịu.
Đây là đặc tính của người môn đệ, đồng thời cũng là điều kiện cần để theo Chúa. Thấy được tính hệ trọng của sự việc, Đức Giêsu đã quay lại và bảo họ, hay đúng hơn là nhắc cho họ về thái độ cần có khi đi theo mình. Tinh thần đó chính là sự dứt khoát, tiên quyết để thoát ra khỏi mọi ràng buộc của cuộc sống hầu xứng đáng trở thành môn đệ.
Thật thế, hành trình đi theo Chúa của người môn đệ được ví như người leo núi, hay đi qua cửa hẹp. Nếu muốn leo lên núi được, cũng như qua được cửa hẹp, thì người lữ hành phải thanh thoát và nhẹ nhàng, phải vứt bỏ lại tất cả những thứ cồng kềnh làm cản bước chân và hành trình của mình. Cũng vậy, theo Chúa thì cũng phải có thái độ như thế, tức là phải từ bỏ mọi sự để chỉ nhìn thẳng vào Chúa và nhắm tới đích mà tiến bước: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được”.
Đây có phải là đòi hỏi thái quá không? Và có đi ngược lại với sự thảo hiếu với cha mẹ và nghĩa vụ đối với gia đình không?
Thưa không! Bởi vì Chúa không đòi hỏi người môn đệ phải bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em… một cách vô lý, nhưng ý Ngài muốn nói rằng, nếu vì điều đó làm cho chúng ta không thể theo Chúa được, hay làm cho chúng ta mất ơn cứu độ thì hãy từ bỏ, bởi lẽ mọi sự sẽ qua đi, nhưng có Chúa là có tất cả, có Chúa là có cả một gia tài, thấy được rồi thì phải tìm mọi cách mà giữ lấy (x. Mt 13,44-52).
Như vậy, con người không chỉ có cuộc sống hiện tại, mà còn có cuộc sống mai sau, mà cuộc sống đời đời mới là cứu cánh tối hậu của mình. Khi hiểu như thế, thì chữ “dứt bỏ” đồng nghĩa với chữ “nghét” ở đây phải hiểu theo nghĩa “yêu thương”, tức là cần có một sự lựa chọn ưu tiên, lựa chọn cái tốt hơn. Điều này được sáng tỏ nhờ Lời Chúa phán: “…ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi” (x. Mc 12:28-34). Khi hiểu như thế, ta thấy tình cảm dành cho cha mẹ, vợ con và anh chị em…là những người ta phải yêu thương, nhưng họ cũng là con của Chúa, cũng là thụ tạo như chúng ta. Vậy thì khi phải lựa chọn, ta phải chọn Đấng đã tác thành và trao ban họ cho ta. Có một thái độ như thế, ta mới xứng đáng trở thành môn đệ của Chúa được. Đây là một sự lựa chọn mang tính thứ bậc: Chúa là trên hết, mọi sự là thứ yếu, nên cần phải vượt lên trên tình cảm tự nhiên để làm môn đệ của Chúa.
Khi có thái độ như thế, người môn đệ biết yêu Chúa trên hết mọi sự, từ bỏ mình là từ bỏ ý riêng và thay vào đó là thánh ý Thiên Chúa, mà ý Thiên Chúa chính là yêu Ngài trên hết mọi sự và yêu thương người thân cận như chính mình. Như vậy, khi từ bỏ mọi sự để theo Chúa, ta lại được Chúa và mọi người nhờ vào tình yêu mà ta dành cho Chúa, thật đúng như lời Chúa nói: “Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này …”
Theo Chúa là vác thập giá hàng ngày mà theo
Tuy nhiên, theo Chúa là từ bỏ mọi sự không thôi thì chưa đủ, nhưng còn phải vác thập giá mà theo thì mới trọn vẹn ý nghĩa là người môn đệ của Đức Giêsu.
Thập giá trong đời sống hằng ngày của người môn đệ được ví như cây gậy của người leo núi, như chiếc đèn của kẻ đi đêm, như biển chỉ dẫn của khách lộ hành. Không có gậy, người leo núi sẽ mệt và đôi khi không có thể làm điểm tựa khi đã mỏi gối chùn chân. Không có đèn đi trong đêm, người ta dễ dàng sa xuống hố hoặc vấp ngã. Không có biển chỉ đường, người ta dễ lạc lối. Như thế, thập giá hằng ngày chính là những hy sinh thử thách giúp con người trưởng thành và sống có ý nghĩa hơn. Quả vậy, khi suy tư về vấn đề này, Đức cố Hồng Y Thuận, vị Tôi Tớ Chúa đã nói: “thánh mà không vượt qua thử thách là thánh giả”; “thánh lâm thời”.
Ơn cứu độ của chúng ta có được là nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa. Như vậy, vác thập giá mà theo Chúa tức là đón nhận tất cả những hy sinh, gian khổ vì Chúa và phần rỗi của mình cũng như anh chị em: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,27).
Điều kiện để theo Chúa thật khó khăn và cam go như thế, nên Đức Giêsu muốn kẻ đi theo mình phải lựa sức, phải cẩn trọng. Vì vậy, Ngài kể cho họ nghe hai dụ ngôn của người xây tháp và ông vua đi giao chiến. Nếu muốn xây tháp, mà không biết chọn chỗ nào cho phù hợp, mục đích của việc xây tháp là gì, và cần bao nhiêu thợ, cát, đá, sắt, gạch…hay khi giao chiến mà không biết mình có bao nhiêu quân, địch bao nhiêu, những thuận lợi, khó khăn của ta và địch, nói chung là không biết tính toán trước thì thật là một kẻ dại dột, và như thế, thất bại là lẽ đương nhiên. Cũng vậy, lựa chọn theo Chúa là một chuyện khó, nhưng sống sự lựa chọn đó, tức là làm chứng cho Chúa còn khó hơn gấp bội. Đức Giêsu biết được điều đó, nên một mặt Chúa đòi hỏi phải dứt khoát, từ bỏ mọi sự để theo thì mới xứng đáng, nhưng đàng khác, Ngài cũng cảnh báo chúng ta phải suy tính cho cẩn thận, kẻo rồi dở đi mắc núi, dở lại mắc sông: “Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta”.
Sống lời Chúa hôm nay
Lời Chúa ngày hôm nay dạy chúng ta rằng: phải yêu Chúa trên hết mọi sự, và như một sự phát sinh, hệ quả…, yêu Chúa thì phải yêu người và yêu chính ta. Nếu chỉ yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối. Nói cách khác, tình yêu với Thiên Chúa bao trùm mọi tình cảm khác của con người, và như ngọn hải đăng soi sáng cho mọi người nhìn thấy nhau thế nào, thì khi yêu Chúa, ta cũng dễ nhận ra nhau là anh chị em của ta. Nói cách khác, khi yêu Chúa, ta sẽ thăng hoa được mọi thứ tình cảm tự nhiên, và như thế, ta lại được lại mọi người như là cha, mẹ và anh chị em của ta.
Chính vì thế, mà khi cần, tức là những tình cảm tự nhiên làm cho ta bị chậm trễ hay cản bước ta đến với Chúa và đi theo Chúa thì cần phải loại bỏ hết tất cả để đi theo Chúa và thi hành điều Chúa truyền. Đây chính là định luật ưu tiên trong đời sống của người Ki tô hữu.
Lạy Chúa Giê su, Chúa là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Xin cho chúng con nhận ra chân lý này, để sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Xin ban ơn trợ giúp, để chúng con luôn đủ sức mạnh, hầu vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa cho nên. Amen.
——————————————————-
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
TRUNG THÀNH THEO CHÚA- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Báo “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” số 10-8/2013 có bài viết “Lời khuyên máu” của Bác sĩ Nguyễn Lan Hải, kể chuyện cuộc đời Thánh Nữ Gianna Baretta Molla.
Ngày 24-4-1994, ĐGH Gioan Phaolô II đã tôn phong Bà Gianna lên bậc Chân Phước trong dịp mở đầu Năm Quốc Tế về Gia Đình. Ngày 16-5-2004, ĐGH Gioan Phaolô II đã long trọng nâng Ngài lên bậc Hiển Thánh.
Bà là một nữ bác sĩ 39 tuổi, đã có chồng và có ba con, và đang mong đón đứa con thứ tư. Nhưng tin vui mau chóng đã trở thành nỗi lo: bà bị khối u phát sinh trong tử cung vào cuối tháng thứ hai của thai kỳ và phải mổ. Trong nghề y, Gianna hiểu rõ giới hạn của khoa học thời đó. Để cứu người mẹ, bệnh viện bắt buộc phải nạo thai và cắt cục bướm. Mổ cắt khối u để cho bào thai phát triển là điều vô cùng nguy hiểm cho tính mạng người mẹ, nhất là giai đoạn cuối khi sinh con, nhưng bà đã quyết định giữ con mình trong niềm tin tưởng phó thác.
Trước ngày sinh, Gianna tâm sự với cha linh hướng: “Con cầu nguyện liên miên trong những ngày này. Với niềm tin và hy vọng, con phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng. Con sẵn sàng hiến dâng đời sống để cứu con của con”. Trước khi lên bàn mổ, bác sĩ phẫu thuật hỏi lần cuối: “Tôi phải cứu ai bà hay con bà?” – Gianna trả lời : “Cứu con tôi và đừng lo gì cho tôi”. Vị giáo sư người Do Thái, mặc dầu không đồng ý với Gianna, đã làm theo ý bà, và ông đã thốt lên: “Thật đúng là người mẹ Công Giáo”.
Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1962, Gianna chuyển dạ. Bà nói với một Nữ Tu làm y tá trong nhà thương: “Chị yêu quý, hôm nay tôi biết chắc tôi sẽ chết, nhưng không sao, miễn con tôi được sống”. Đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, bác sĩ đã mổ và cứu cô bé an toàn khỏe mạnh, mang tên Emanuela “Chúa ở cùng chúng ta”. Sau ca mổ, Gianna rất đau đớn, nhưng bà vẫn can đảm phó thác, dâng mình cho Chúa như một của lễ hy sinh, với một tâm hồn khiêm tốn tin tưởng. Gianna muốn kết hợp sự đau đớn của mình với sự Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Một tuần lễ sau Phục Sinh, Gianna đã nhắm mắt vĩnh viễn về Trời với Chúa, miệng luôn lẩm bẩm: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu Chúa”.
Trong nghi lễ phong thánh, ÐGH Gioan Phaolô II ca ngợi Thánh Nữ: “Ngài được hồng ân Chúa ban cho một gia đình đầm ấm, một đức tin và tình yêu sung mãn. Ngài là một người mẹ hạnh phúc, nhưng khi thọ thai đứa con thứ tư, ngài đã trải qua cơn thử thách lớn lao. Trong cuộc dằn co giữa hai lựa chọn, hoặc là cứu lấy mạng sống mình, hoặc là bảo toàn sự sống của thai nhi trong bụng mình, ngài đã không ngần ngại tự hy sinh mình. Ngài quả đã cho chúng ta một chứng tá hào hùng, để lại cho chúng ta bài ca tán dương sự sống để chống lại trào lưu suy tư thoái hóa ngày nay đang lan rộng khắp hành tinh này.”. Thánh nữ đã noi gương Chúa Kitô “yêu thương những người thân của mình còn trong thế gian và yêu thương họ cho đến cùng”.
Trang Tin Mừng hôm nay có hai cụm từ rất ý nghĩa, đó là ‘đi theo’ và ‘làm môn đệ’: “Khi ấy có rất đông người ‘đi theo’ Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi. Ai không vác thập giá mình mà ‘đi theo’ tôi thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi được”.
Quả vậy, có rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là “môn đệ” của Ngài; chỉ những ai đi theo mà biết “từ bỏ” và “vác thập giá” thì mới thực sự “là môn đệ” của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nói những lời rất thẳng thắn và chân thành với “đám đông những người” đang đi theo Ngài : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Người ta đi theo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ, có khi là những lý do rất trần tục. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với họ, theo Ngài thì phải từ bỏ, bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống, và lại còn phải vác thập giá nữa. Từ bỏ mình và vác thập giá mình luôn là điều không dễ thực hiện chút nào. Thế nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy, thì mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài.
Cuộc đời Thánh Gianna Beretta là một hành trình đi theo Chúa, làm môn đệ của Chúa. Gianna sinh ở Magenta nước Ý vào ngày 4-10-1922. Cô là con thứ mười trong gia đình mười ba người con, có một người anh làm linh mục. Bố mẹ Gianna rất đạo đức, luôn dạy con cái biết cầu nguyện và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngay từ buổi thiếu niên, Gianna đã lãnh nhận một niềm tin hiến dâng và một nền giáo dục kitô giáo sâu đậm. Nền giáo dục này đã dạy cô coi cuộc sống là sự dâng hiến tuyệt diệu cho Thiên Chúa, tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài và xác tín vào sự cần thiết hiệu nghiệm của lời cầu nguyện. Trong những năm còn học trung và đại học, bên cạnh việc chăm chỉ học hành, Gianna đã diễn tả niềm tin của mình bằng nhiệt tâm dấn thân vào công tác tông đồ cho giới trẻ trong tổ chức ‘Action Catholique’ của Ý. Cô cũng tham gia vào tổ chức từ thiện của Hội Dòng Bác Ái Thánh Vinh Sơn Phaolô, đặc biệt chăm sóc trẻ em, người già cả và người nghèo
Gianna là một thiếu nữ tài giỏi bước ngành y khoa. Năm 1949 cô lấy bằng bác sĩ y khoa và giải phẫu tại Đại Học Pavia. Năm sau, cô mở một dưỡng đường ở Mesero, gần Magenta. Hai năm sau đó, cô có bằng về chuyên khoa nhi đồng của Đại Học Milan. Sau đó, bác sĩ Beretta chuyên chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh, cũng như người già và người nghèo.
Bác sĩ Gianna đảm trách công việc y khoa không vì lý do tài chánh, hay ngay cả lý do từ thiện. Đối với bà, hành nghề y khoa là một “sứ vụ.” Trong những năm theo học, bà đã tình nguyện phục vụ người già, người bệnh tật với tư cách là một thành viên của tổ chức Thánh Vinh Sơn Phaolô. Là một bác sĩ, bà gia tăng sự phục vụ độ lượng dưới một hình thức của “Công Giáo Tiến Hành”: giáo dân tình nguyện làm việc theo nhu cầu và tinh thần của Giáo Hội. Bà là một phụ nữ trẻ hăng say và đầy nhiệt huyết, một người thích leo núi mạo hiểm và trượt tuyết.
Cuộc hôn nhân vào năm 1955 đã đem lại cho Bác Sĩ Gianna một cơ hội để phát triển “sứ vụ” của bà. Ông bà Gianna và Pietro Molla là một đôi vợ chồng vui vẻ. Là một phụ nữ quân bình và có lương tri, bà đã thành công khi hài hòa sự nghiệp của một người mẹ, một người vợ và một bác sĩ.
Khi gặp nghịch cảnh phải phá thai để được sống, bà Gianna phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng, sẵn sàng hiến dâng đời sống để cứu con của mình. Sự từ bỏ như thế là cách diễn tả một tình yêu. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Nhà khoa học phải bỏ ra nhiều năm nghiên cứu mới có cơ may phát minh và sáng chế… Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng.
Laura con gái của thánh nữ đã nói về mẹ mình như sau: Mẹ tôi là một người đàn bà hạnh phúc. Mẹ tôi yêu cuộc sống cho đến chết và biết chấp nhận mọi sự Chúa ban, ngay cả đau khổ. Mẹ Gianna đã đón nhận thập giá bằng tình mẫu tử cao quý.
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người. Tình yêu như là điểm giao thoa giũa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến vời niềm vui. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.
Ba điều kiện: từ bỏ, vác thập giá, bước theo Chúa Giêsu thật không dễ dàng chút nào. Phải phấn đấu thường xuyên, phải chiến đấu từng ngày cho nên bao giờ cũng gây nên đau khổ thể xác và tinh thần. Bằng tình yêu vượt qua đau khổ để nên môn đệ Chúa Giêsu là niềm hạnh phúc và là một vinh dự.
Thánh Gianna là chứng nhân sống đạo thời nay, người có tâm hồn giàu cảm thương đối với những người bệnh tật đau khổ, hy sinh mạng sống vì người mình yêu, phản ánh tình thương trên Thánh Giá của Chúa Giêsu.
Ai là người có thể khẳng định mình đã hoàn toàn theo Chúa Giêsu? Ai muốn đi theo Chúa Giêsu phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, bạn bè và bản thân mình.Thập giá của Chúa Giêsu là dấu chỉ cụ thể về tình yêu và sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, và xin Chúa giúp chúng con được trung thành cho đến cùng là đi trọn con đường tình yêu như Chúa đã đi. Amen.
———————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BƯỚC THEO CHÚA- Trích Logos năm C
Chân phước Charles Cornay từ bỏ gia đình để đi theo Chúa. Một hôm, trên đường đi truyền giáo, lúc xe lửa dừng lại ở một ga gần làng của ngài, cha mẹ và tất cả anh chị em ngài đều ra đó để đón thăm. Vì quá thương con, cha mẹ ngài đã ngã lăn trên đường, ngăn cản không cho ngài đi tiếp. Cornay can đảm gạt nước mắt bước qua mình cha mẹ mà ra đi. Ngài đến Việt Nam truyền giáo và ngày 20/9/1837, ngài chịu tử đạo với án lăng trì tại Sơn Tây, Bắc Việt.
Chân phước Charles Cornay xứng đáng là môn đệ đích danh của Chúa Giêsu vì đã đi theo Chúa với bước chân can đảm : bước qua mình cha mẹ để đi theo Chúa. Ngài đã thực hiện lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay : “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Lời Chúa hôm nay nêu lên một thách đố lớn lao cho những người muốn đi theo Chúa. Để trở thành môn đệ Chúa, người ta phải đặt mình trước một sự chọn lựa dứt khoát : thế gian hay Thiên Chúa. Nếu chọn lựa bước theo Chúa, người môn đệ phải đặt bàn chân mình vào những dấu chân của Chúa trên con đường từ bỏ.
Chúa Giêsu và những bước chân từ bỏ.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc hành trình từ bỏ đến tận cùng. Từ địa vị của một Thiên Chúa cao cả, Ngài đã bước xuống thân phận thấp hèn của con người để đi vào kiếp sống khổ đau. Từ bỏ cuộc sống ẩn dật an nhàn tại Nazareth để bước vào cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng đầy gian khó. Cởi bỏ tấm áo thần linh của một vị Thiên Chúa cao sang, Ngài đã bước xuống dòng sông Giođan để chịu phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả như một người tội lỗi (Mt 3, 13-17). Từ bỏ hào quang của uy quyền, Ngài bước vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Mc 1, 12-13). Khi được dân chúng ca ngợi và tôn lên làm vua, Ngài đã âm thầm ra đi để tiếp tục cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng (Ga 6, 14-15). Trong Vườn Cây Dầu, Ngài đã thực hiện một cuộc từ bỏ gian nan nhất : từ bỏ ý riêng để thực thi Ý Cha (Lc 22, 42). Trên đường khổ giá, với những bước chân xiêu té, Ngài đã đi đến cùng con đường đau khổ để tiến lên đỉnh đồi Calvê. Cuối cùng, từ cõi chết đau thương, Ngài đã bước vào vinh quang phục sinh.
Bước chân từ bỏ của những người theo Chúa.
Bằng chính cuộc đời mình, Chúa Giêsu đã phác hoạ con đường từ bỏ dành cho những ai muốn bước theo Ngài.
“Từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em” có nghĩa là phải ưu tiên đặt Chúa lên trên mọi tình cảm gia đình và trần thế. Thiên Chúa là đích điểm cao nhất mà người môn đệ phải vươn tới. Đi theo Chúa là phải chấp nhận “bước qua” những cản trở trên đường đi theo Chúa.
“Từ bỏ tất cả của cải mình có” nghĩa là người môn đệ phải vượt lên trên sự ràng buộc của tiền bạc, phải cởi bỏ sợi dây của cải đang trói buộc đôi chân bước theo Chúa. Tiền bạc của cải chỉ là phương tiện giúp người theo Chúa thực hiện sứ mạng Ngài trao phó và thực thi tình bác ái yêu thương.
“Từ bỏ mạng sống” là sự từ bỏ cao cả nhất. Các vị thánh tử đạo đã đi trọn con đường từ bỏ cao quý này. Các ngài đã được lãnh nhận triều thiên vinh quang. Tuy nhiên, còn có biết bao người đang “từ bỏ mạng sống” theo cách riêng của mình trong cuộc sống hiện tại. Họ là những người môn đệ đang bước theo Chúa trên cuộc hành trình đức tin trong xã hội hôm nay. Họ không “chết vì đạo” nhưng đang “sống vì đạo” trong cuộc chiến đấu cam go để vượt thắng chính mình và vượt lên trên những thử thách và cám dỗ của trần thế.
“Vác thánh giá đời mình” là hình ảnh nói lên sự hy sinh liên lỉ của người môn đệ trên bước đường theo Chúa. Đó là “thánh giá cuộc sống” trải dài suốt đời người. Cây thánh giá là thước đo lòng trung thành của người môn đệ trên con đường theo Chúa.
Những bước chân theo Chúa hôm nay.
Hôm nay, từng bước, từng bước chúng ta đang đi theo Chúa. Có thể chúng ta đang đi theo Chúa với những bước chân hụt hẫng sau những lần thất bại, những bước chân run rẩy vì sợ hãi trước những nghịch cảnh, những bước chân chao đảo sau những lần vấp ngã, những bước chân rã rời qua tháng ngày lầm than cơ cực, những bước chân cô độc đi vào ngõ cụt của tương lai, những bước chân mệt mỏi sau những ngày đi hoang. Nhưng nếu chúng ta biết đặt bàn chân mình vào vết chân Chúa, chúng ta sẽ tin tưởng và an tâm vững bước, vì chúng ta đang đi trên con đường dẫn đến sự sống cùng với Chúa. Đó là con đường khôn ngoan đưa chúng ta đến nguồn ơn cứu rỗi (Bài đọc 1, trích sách Khôn Ngoan).
Vua thánh Venceslaô nước Tiệp Khắc (907 – 929) có thói quen đêm nào cũng thức dậy đến nhà thờ để viếng Thánh Thể. Vào một đêm đông giá rét, viên thị vệ theo hầu thánh nhân phàn nàn : “Trời lạnh quá đi trên tuyết chân hạ thần rét cóng!”. Vua thánh Venceslaô quay lại dịu dàng nói : “Cứ theo ta và đặt bàn chân ngươi trên vết chân ta”. Viên thị vệ tuân theo và bỗng nhiên cảm thấy ấm áp lạ thường.
Trên bước đường theo Chúa của người tín hữu, có những lúc chúng ta cảm thấy bước chân mình như bị lạnh cóng, tê dại trên cuộc hành trình gian khó, chúng ta hãy lần theo bước chân của Chúa để luôn cảm thấy vững tâm và bình an. Điều quan trọng hơn cả, chúng ta hãy can đảm bước ra khỏi cái tôi ích kỷ để đến với tha nhân và cùng với mọi người hăng hái bước đi loan báo Tin Mừng trong Năm Thánh Truyền Giáo này.
Vào ngày 19/3/1980, tại Giang Xá, Bắc Việt là nơi Đức Cố Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận bị quản thúc, ngài đã viết một lời kinh rất hay về những bước chân đẹp đẽ của Chúa Giêsu. Đó cũng là lời kinh cho chúng ta hôm nay :
Con theo từng bước Chúa trên đường hy vọng.
Bước lang thang ra chuồng bò ở Bêlem,
Bước hồi hộp trên đường trốn sang Ai Cập,
Bước bồn chồn trở về trú ngụ tại Nazareth,
Bước phấn khởi lên Đền Thánh với Mẹ Cha,
Bước vất vả suốt 30 năm trời lao động,
Bước yêu thương trong 3 năm rao giảng Tin Mừng,
Bước thao thức kiếm tìm chiên lạc,
Bước xót xa vào Giêrusalem đầm đìa nước mắt,
Bước cô đơn ra trước tòa án không một người thân,
Bước ê chề vác thánh giá lên đồi tử nạn,
Bước thất bại chết chôn mồ kẻ khác…
Lạy Chúa, quỳ trước Nhà Chầu,
Một mình con với Chúa,
Con hiểu rồi : con không thể chọn con đường khác…
———————————————————–
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CHỌN LỰA- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
Sau khi đã nêu ra một số những đòi hỏi của người môn đệ: đó là phải đi vào cửa hẹp (CN 21), và sống khiêm tốn (CN 22), hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta làm một cuộc chọn lựa dứt khoát để thực sự xứng đáng là môn đệ của Ngài.
Sống là chọn lựa
Thực ra, không phải chỉ khi làm môn đệ, chúng ta mới phải chọn lựa, nhưng trong suốt cuộc sống của mình, chúng ta luôn luôn phải chọn lựa. Có thể có những chọn lựa thật đơn giản như việc lựa chọn khi mua sắm, hay chọn lựa các môn giải trí. Tuy nhiên, cũng có những chọn lựa quan trọng hơn, như việc chọn lựa nơi ăn, chốn ở, chọn lựa công việc làm ăn, chọn lựa cho mình một người bạn đời… Nhưng cho dù đơn giản, hay phức tạp, thì tất cả các chọn lựa này đều đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta một sự từ bỏ nhất định nào đó.
Tương tự như thế, ngay lúc này đây, Chúa Giêsu cũng đang mời gọi chúng ta làm một cuộc chọn lựa dứt khoát. Chúng ta không thể “bắt cá hai tay”, “vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13b). Tuy nhiên, việc chọn lựa này không giống như các cuộc chọn lựa khác, bởi lẽ một khi chấp nhận làm môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta không còn được phép sống cho riêng mình, hay sống theo ý muốn của mình, hay nói theo cách nói của thánh Phaolô, một khi đã chọn bước đi theo Đức Kitô: từ đây chúng ta sống, nhưng không phải chúng ta sống mà là Đức Kitô sống trong chúng ta (x. Gl 2, 20).
Một chọn lựa làm thay đổi cuộc sống
Cũng giống như bất cứ chọn lựa quan trọng nào khác, chọn lựa làm môn đệ Chúa Giêsu sẽ làm thay đổi cả cuộc đời của chúng ta. Chọn lựa này đòi chúng ta dấn bước vào con đường hẹp, con đường của sự khiêm tốn, từ bỏ và hy sinh. Con đường theo Chúa không phải là con đường dễ dãi, nhưng là con đường dành cho những người thật can đảm. Nó đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta một sự cố gắng liên lỷ trong từng phút giây của cuộc sống. Chính vì thế, trong cuộc hành trình về Giêrusalem lần này, khi thấy có một đám đông đi theo mình, Chúa Giêsu đã cảnh báo họ: “Nếu ai đến với Ta, mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Khi mời gọi chúng ta “bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em”, Chúa Giêsu không muốn phủ nhận mối dây liên hệ thiêng liêng trong gia đình, bởi lẽ, khi nhập thể, Chúa Giêsu cũng đã chọn sinh ra trong một gia đình, và Ngài không hề quên bổn phận hiếu thảo của người con đối với cha mẹ. Ngay trên thập giá, khi phải đối diện với cái chết đau đớn cận kề, Chúa Giêsu vẫn nhớ đến người mẹ đã sinh ra mình và Ngài đã giao phó mẹ mình cho Gioan chăm sóc (x. Ga 19, 25-27). Do đó, khi nói đến việc từ bỏ “cha mẹ, vợ con, anh chị em”, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự dứt khoát của chúng ta khi muốn làm môn đệ của Ngài. (Câu chuyện con lừa trước bó cỏ và thùng nước)
Như thế, giữa việc “theo” và trở thành “môn đệ” còn có một khoảng cách. Ngày hôm nay cũng đang có rất nhiều người đi theo Chúa Giêsu, nhưng số người dám can đảm làm môn đệ của Ngài lại rất ít, bởi lẽ làm môn đệ thì phải giống Thầy, phải dám “vác thập giá mình mà theo Thầy”. Đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu không những đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ đi lối sống cũ cùng với những tội lỗi, bất công, nhưng còn đòi từng người chúng ta dám bỏ đi những quyền lợi xem ra là chính đáng của mình.
Chúng ta có thể nhận ra điều này qua bài đọc hai được trích từ lá thư của thánh Phaolô gởi cho người môn đệ Philêmon. Trong thư, thánh nhân gởi Ônêsimô lại cho Philêmon. Ônêsimô trước đây là người nô lệ của Philêmon, nhưng đã bỏ trốn và đã được thánh Phaolô rửa tội. Giờ đây, khi trao lại Ônêsimô cho Philêmon, thánh nhân muốn Philêmon từ bỏ quyền làm chủ chính đáng của mình để nhận Ôsênimô như là một người anh em trong Đức Kitô.
Sự từ bỏ này trước mắt người đời có thể là một sự khờ dại, nhất là khi nó đụng chạm đến những dục vọng và cả những quyền lợi xem ra chính đáng của chúng ta, nhưng đó lại là sự khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Một sự khôn ngoan có thể nói là vượt trên mọi trí hiểu giới hạn của con người. đó cũng chính là kinh nghiệm của vua Salomon. Ông là một vị vua nổi tiếng là khôn ngoan nhất trong Cựu Ước, và danh tiếng của ông cũng không dừng lại nơi đất nước Do Thái, nhưng đã được lan xa, đến nỗi Nữ Hoàng Saba từ phương Nam xa xôi cũng đã đến để học hỏi sự khôn ngoan của ông (x. 1 V 10, 1-10). Thế nhưng, ông cũng đã phải thú nhận “Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? hay ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những dự định của chúng tôi đều không chắc chắn… Ai hiểu thấu Thánh Ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống?”.
Vâng, chọn lựa làm môn đệ của Đức Kitô quả thật là dại khờ trước mặt thế gian. Do đó, để có thể can đảm quyết tâm làm môn đệ của Ngài, chúng ta cần nhờ đến chính sức mạnh và sự khôn ngoan của Chúa soi dẫn. Chính thánh Phaolô sau cả một đời với biết bao là vinh quang lẫn với nước mắt đã tuyên bố: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô” (Pl 3, 8).
Chúng ta hôm nay
Lắng nghe lời Chúa hôm nay là một cơ hội để mỗi người chúng ta tự hỏi lại mình: Đâu là cùng đích trong cuộc sống của mỗi người chúng ta: Phải chăng đó là: Tiền bạc, danh vọng, quyền thế, sự nghiệp… hay điều gì giống như vậy?
Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở những thành công ở đời này, thì nói như tác giả sách Khôn ngoan trong bài đọc một, quả thật chúng ta chưa thật sự khôn ngoan. Chúng ta đang để cho “nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề”.
Còn nếu chúng ta nói rằng mình đã chọn lựa làm môn đệ Chúa Giêsu, thì đây cũng là cơ hội để chúng ta tự xét lại mình, xem thử chúng ta đã sống xứng đáng với chọn lựa này của mình chưa? Trong đời sống thường ngày, chúng ta đã làm gì để chứng tỏ mình là người môn đệ của Chúa Giêsu? Nếu chúng ta còn ngại ngần khi phải tham dự Thánh Lễ, còn tính toán thời giờ khi tìm hiểu giáo lý và Lời của Chúa, còn ngại ngần khi chia sẻ, chưa dám từ bỏ một ý riêng, còn chiều theo các đam mê, dục vọng… thì thử hỏi, chúng ta có thực sự xứng đáng là môn đệ của Đức Kitô không?
Chớ gì nhờ sức mạnh của Thánh Thần Chúa, mỗi người chúng ta can đảm đi theo bước chân của các tông đồ và cha ông chúng ta khi xưa, biết chọn lựa Chúa Giêsu làm lẽ sống cuối cùng cho cuộc đời mình. Và nếu chúng ta chọn lựa làm môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta hãy sống thế nào, để cho dù miệng chúng ta không tuyên xưng, nhưng nhìn vào đời sống của chúng ta, mọi người vẫn có thể nhận ra chúng ta đích thực là môn đệ của Ngài. Amen.


































