CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN.. 3
SỐNG YÊU THƯƠNG- Chú giải của Noel Quesson. 6
ĐỨC GIÊSU ĐÃ ĐẢO LỘN TẤT CẢ Chú giải của Fiches Dominicales. 13
THIÊN CHÚA PHÂN PHỐI CÁC CHỖ NGỒI- Lm PX Vũ Phan Long, ofm 19
BÀI HỌC PHỤC VỤ TRONG KHIÊM TỐN- Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*) 25
KHIỀM TỐN- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 33
KHUYẾN KHÍCH SỐNG KHIÊM HẠ- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 37
HÃY Ở KHIÊM NHƯỜNG- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 49
CHÚA YÊU THÍCH NHỮNG KẺ KHIÊM NHƯỜNG-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 65
HÃY KHIÊM NHƯỜNG- Jos.Vinc. Ngọc Biển. 69
DỰ TIỆC VÀ ĐÃI TIỆC – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 73
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN
BÀI ĐỌC I: Hc 3, 17-18. 20. 28-29
“Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa”.
Bài trích sách Huấn Ca.
Hỡi con, con hãy thi hành công việc con cách hiền hoà, thì con sẽ được người đẹp lòng Chúa quý chuộng. Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa; vì chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền năng cao cả, và mọi kẻ khiêm nhường phải tôn vinh Chúa. Tai hoạ dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa, vì mầm mống tội lỗi đã ăn sâu vào lòng chúng mà chúng không biết. Người thông minh suy ngắm trong lòng lời dụ ngôn, chăm chỉ nghe là kỳ vọng của người khôn ngoan.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 67, 4-5ac. 6-7ab. 10-11
Đáp: Ôi Thiên Chúa, do lòng nhân hậu, Chúa đã chuẩn bị chỗ định cư cho kẻ cơ bần (x. c. 11b).
1) Những người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa họ mừng vui sung sướng. Hãy hát mừng Thiên Chúa, hãy đàn ca danh Người, hãy sửa sang đường lối cho Đấng ngự giá qua hoang địa.
2) Là Cha kẻ mồ côi, là Đấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt.
3) Ôi Thiên Chúa, Ngài làm mưa ân huệ xuống cho dân Ngài, và khi họ mệt mỏi, Ngài đã bổ dưỡng cho. Ôi Thiên Chúa, đoàn chiên Ngài định cư trong xứ sở, mà do lòng nhân hậu, Ngài chuẩn bị cho kẻ cơ bần.
BÀI ĐỌC II: Dt 12, 18-19. 22-24a
“Anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống”.
Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, không phải anh em tiến tới một ngọn núi có thể sờ được, hay là lửa cháy, gió lốc, mây mù, bão táp hoặc tiếng kèn, và tiếng gầm thét, khiến cho người nghe xin tha đừng nói với họ lời nào nữa. Trái lại, anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, tiến đến giữa muôn ngàn thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời, và đến cùng Thiên Chúa, Đấng phán xét mọi người, đến cùng các linh hồn những người công chính hoàn hảo, đến cùng Đấng trung gian của giao ước mới là Đức Giêsu.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
All. All. – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – All.
PHÚC ÂM: Lc 14, 1. 7-14
“Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, nhằm một ngày Sabbat Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời, chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
“Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho người này’. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: ‘Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên”. Rồi Người lại nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi ông dọn bữa ăn trưa hay tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có, kẻo đến lượt họ cũng mời ông, và như thế ông đã được trả lễ rồi. Nhưng khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù; ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại”.
Đó là lời Chúa.
———————————
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
SỐNG YÊU THƯƠNG- Chú giải của Noel Quesson
Một ngày sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa
Luca, môn đệ của Phaolô nguyên là một người Pharisêu nên ngài dễ dàng phá bỏ hình ảnh quá đơn giản của một Đức Giêsu được trình bày một cách có hệ thống như người chống lại nhóm Pharisêu. Một cách tiên thiên, Đức Giêsu không chống lại một ai: Người là Người tự do, có thể giao du với tất cả mọi người: Các người thu thuế Pharisêu (Lc 7,36; 11,37; 14,1). Ở đây, chúng ta thấy Người được mời đến nhà “một thủ lãnh nhóm Pharisêu”, một trong các vị thân hào này đóng vai trò lãnh đạo trong đảng của những người công chính. Nhóm này thường chống đối Đức Giêsu mạnh nhất.
Luca ghi nhận đó là một ngày Sabát. Ngày này, các bữa ăn có một sự quan trọng đăc biệt. Bữa ăn trưa liền sau thánh vụ ở Hội Đồng. Sau một kinh cộng đoàn dài, bữa ăn mang một tính cách sang trọng hơn, vui vẻ hơn bữa ăn của các ngày làm việc. Thật vậy, vì thời gian nghỉ ngơi trong ngày Sabát phải rất chuẩn xác nên mọi món ăn phải được chuẩn bị vào tối ngày thứ sáu, đây là ngày “chuẩn bị” (Máccô 15,42). Như thế, tách khỏi mọi lo lắng về vật chất, những ai tiếp đãi bạn bè hoặc gia đình họ có thể hoàn toàn sống cho tình bằng hữu, cho việc trao đổi đối thoại. Ngày Sabát, người ta sẵn sàng mời khách. Và những “câu chuyện ở bàn ăn” là một cơ hội để vui vẻ và để suy tư.
Những ngày Chúa nhật của chúng ta chẳng phải đã đánh mất một cái gì đó sao?
Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.
Vậy Đức Giêsu đã quan sát. Người đã thấy có những người khéo luồn lách để được ngồi vào chỗ tốt. Trong mọi xã hội, người ta thừa nhận cuộc chạy đua để dành các chỗ nhất đó. Ngày nay có hàng ngàn dấu hiệu phân biệt, và không chỉ ở bàn ăn, để tôn cao giá trị. Từ cách trang phục cho đến xe ôtô của một địa vị xã hội nào đó, rồi đến thói bọc làm sang trọng các đề tài phải đề cập khi trao đổi câu chuyện vì đó là thời thượng!
Trước tiên, rõ ràng Đức Giêsu không kể lại dụ ngôn để khuyến khích chúng ta tôn trọng các quy tắc thế tục của sự tương xứng về xã hội và cấp bậc.
Người muốn khuyến khích chúng ta phải hạ mình, khiêm tốn. Nhưng trước hết, như thường lệ, Người nói với chúng ta về “Thiên Chúa”: Điều kiện nào là chủ yếu để được nhận vào Nước Thiên Chúa?
Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn
Vâng, để được nhận vào Nước Chúa, điều kiện căn bản chính là phải đón nhận, phải tiếp đón Nước Trời, phải làm cho mình trở nên hoàn toàn bé nhỏ: Chính người “Chủ tiệc” sẽ có sáng kiến và nói “hãy đến, hãy tiến lên cao hơn”. Và thật nghịch lý, người nào coi mình là “người sau rốt” sẽ sẵn sàng hơn người kiêu ngạo, để nhờ ân sủng, đón nhận ơn mà mình nghĩ rằng mình không xứng đáng được hưởng. Chính những tội lỗi của chúng ta làm chúng ta cảm nhận sâu sắc sự kém cỏi triệt để của mình: Người “tội lỗi” trở về nhà và được “công chính hóa”, trong lúc kẻ tự phụ công chính tiếp tục đứng thẳng trước mặt Thiên Chúa kể lể những hành động tốt của mình; “Chúa thấy đó, con không cần đến Ngài, con không phạm tội, không trộm cắp, bất chính, ngoại tình… con làm điều lành, con ăn chay và bố thí…” (Lc 18,9-14).
Không phải tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất mà chính là tình cảm về sự “công chính của bản thân”: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Thánh Phao lô, lấy lại mạc khải này của Đức Giêsu, sẽ chứng minh rằng không một ai có thể đòi hỏi sự cứu độ đời đời như một quyền lợi căn cứ vào các công nghiệp của riêng mình qua việc hoàn thành Luật (Rm 3,21-31; Gl 2,16-21).
“Anh hãy ngồi vào chỗ cuối!” Đức Giêsu không nặng lặp lại điều đó; trước thánh Phaolô. Trước mặt Thiên Chúa phải biết mình “yếu đuối” “nhỏ bé” và “ở chỗ cuối”, để hoàn toàn trông cậy vào Người, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình (Lc 17,10; 18,10-14).
Phải nhỏ bé như một trẻ thơ để có chỗ trong Nước Trời (Lc 9,48). Bạn hãy đặt mình vào chỗ cuối? ông chủ sẽ cho mời bạn lên chỗ cao hơn.
Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
Tính kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa. Ai tưởng rằng mình xứng đáng không thế có chỗ trong Nước Thiên Chúa. Kinh nghiệm lịch sử của Israel rõ ràng là sự lật ngược các giá trị của trần gian này: Thiên Chúa đã chọn dân tộc nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất trong các dân tộc trên mặt đất… “Không phải vì anh em công chính hay vì lòng anh em Ngay thẳng mà anh em sắp được vào chiếm hữu đất ấy đã hứa cho anh em, bởi vì anh em là một dân cứng cổ… (Đệ nhị luật 9,5~ – 4,37-38; Edêkien 21,31; Thánh Vịnh 147,6). Hạ mình xuống ư. Thế giới hiện đại không chấp nhận thái độ ấy. Ngày nay, người ta diễn tả, thái độ ấy bằng không từ ngữ có nghĩa xấu? Nằm bẹp xuống… đào nhiệm… bò lết… nhượng bộ… đầu hàng… Trái lại người ta ca ngợi sự phát triển, mở mang, thăng tiến…. Tuy nhiên, sự hạ mình phải là một điều rất cao cả để Đức Giêsu khuyên chúng ta làm và trước hết chính Người đã sống sự hạ mình ấy như thái độ của chính Thiên Chúa ở giữa chúng ta! “Người đã chọn chỗ sau rốt đến nỗi không bao giờ và không một ai có thể cướp lấy của Người”. Đó chính là ý nghĩa của Nhập thể: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế: Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Nhưng để nhổ bỏ mọi xu hướng khỏi thái độ ấy, chúng ta phải biết rằng khi đặt mình vào chỗ sau rốt, chỗ của người bị đóng đinh, Đức Giêsu không giảm giá trị của minh, Người không thua kém chính mình. Trái lại, bằng sự hạ mình ấy, Người đã biểu lộ trọn vẹn sự cao cả tối thượng của Người. Người đã trở thành Tình Yêu Tuyệt Đối? Người đã trở thành “con người vì những người khác!” “con người vì Chúa Cha”. Chính trong ý nghĩa ấy, sự sống lại trong vinh quang không còn là điều trái ngược với thập giá. Sự quên mình hoàn toàn của Người đã trở thành vinh quang của Người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!
Chúng ta không chứng kiến những nguyên tắc về lễ độ nơi bàn ăn! Chúng ta được mời gọi đến được Nước Thiên Chúa, bằng cách noi gương Thiên Chúa, Đấng kín nhiệm, ẩn giấu, khiêm hạ; Đấng đã làm mình thành người sau rốt, người phục vụ cho mọi người! Không có sự đào nhiệm nào trong thái độ thánh thiêng ấy. Đó là sự cao cả của Người. Trái lại, chính nhu cầu khẳng định mình chống lại những người khác, thống trị họ bằng sức mạnh hoặc bằng sự mua chuộc, thúc cùi chỏ vào họ để được đứng ở hàng đầu tiên; chính bản năng sinh vật ấy muốn là kẻ mạnh nhất thể hiện sự yếu đuối nguyên thủy của chúng ta, tội nguyên tổ của chúng ta: Muốn được như các thần linh… như Thiên Chúa giả hiệu ấy; ở đó chúng ta quy chiếu bản năng chúng ta.
Trong bữa ăn cuối cùng để chia tay ở nhà Tiệc ly, những khách mời của Đức Giêsu vẫn chưa hiểu: “Các ông còn cãi, nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị dân… Anh em thì không như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ… Thầy đây Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ (Lc 22,24-27).
Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi
Xung quanh đề tài về “bàn ăn” đây là một dụ ngôn mới. Dụ ngôn này mời gọi chúng ta có thái độ vô tư, phải cho và phục vụ không chờ đền đáp lại. “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. (Lc 6,32-35).
Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ
Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Những lời này thật sự là cách mạng. Thật vậy ở đây, phải hiểu rằng Đức Giêsu kể ra những hạng người bấy giờ bị coi là những hạng người ô nhục. Một cấm kỵ lâu đời trong nghi lễ cấm những người dị dạng tham dự các buổi lễ ở Đền Thờ (2 Samuen 5,8; Lê vi 21,18). “Luật Qumram”, thời Đức Kitô quy định như sau: “Không một người mắc phải sự ô uế của con người được vào trong Hội đường của Thiên Chúa! Mọi người bị tì vết trong da thịt mà người ta có thể nhìn thấy, bị liệt ở bàn chân, bàn tay, bị thọt, mù hoặc điếc, hoặc câm. Những người này không được vào để tham dự ở giữa Hội đoàn của những con người danh tiếng!”. Vả lại, theo Đức Giêsu, chính những con người bị khinh miệt ấy, những người tàn tật ấy lại là đối tượng của các ơn huệ thiêng liêng và được mời đến Bàn Tiệc của Người (Lc 14,21). Bệnh nhân, người đau khổ, nghèo khó, bị nhục mạ, xấu hổ, đáng thương, thương tích, đựng sau rốt, bạn đang được Chúa yêu thương. Tấm lòng của Thiên Chúa chúng ta lớn hơn tấm lòng của chúng ta. Sự yếu đuối của Đức Kitô còn mạnh mẽ hơn sự mạnh mẽ của chúng ta! Khôn ngoan của Nước Thiên Chúa là sự điên rồ đối với con người. Ai khiêm nhường ấy là phúc thật, họ sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy…
Như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại
Người ta thấy rằng bởi việc nhắc đến ngày sống lại sau cùng, những lời nói về bàn ăn của Đức Giêsu đi xa hơn những lời khuyên tầm thường khi mời khách. Nhưng điều đó không có nghĩa là không được áp dụng vào các bình diện cụ thể hơn. Thật vậy, những lời của Đức Giêsu nhắm đến ba loại bữa ăn:
Trước tiên những bữa ăn của bàn ăn con người: phải chăng là điều Đức Giêsu nói với chúng ta?
Kế đó là bữa ăn Thánh Thể: có phải là không phân biệt ngôi thứ, mở ra cho tất cả mọi người?
Sau cùng, bữa ăn thời thế mạt: Thiên Chúa đã dự trù sự no nê cho những lũ tội lỗi, với điều kiện duy nhất là họ noi gương Thiên Chúa để sống yêu thương mà không chờ đền đáp lại.
———————————-
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
ĐỨC GIÊSU ĐÃ ĐẢO LỘN TẤT CẢ Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Từ chuyện ăn uống
“Trên đường lên Giêrusalem” (l3,22), nơi Người sẽ bị “hạ xuống chỗ thấp nhất”, trên thập giá, “giữa hai tên gian phi” (23,33), Đức Giêsu được mời dùng bữa, “vào một ngày Sabát”, “nơi nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu”. Một bữa ăn như thế cũng thường là dịp nổ ra những tranh luận tôn giáo.
Chuyện mời Chúa dùng bữa này chức không phải là không có dụng ý, bởi Luca ghi nhận: “họ cố ý dò xét Người” (14,1).
Vừa vào bàn, Đức Giêsu đã gặp ngay “một người mắc bệnh phù thũng”, và Người không ngần ngại chữa lành nạn nhân, dù hôm đó là “ngày Sabát”, vậy mà các nhà thông luật và những người Pharisêu có mặt “không thể đáp lại lời nào” (14,6).
- Mọi quy tắc về ngôi thứ bị đảo lộn:
Đến lúc vào bàn ăn, Người lại bỡ ngỡ trước cảnh những khách mời cứ lo tranh dành nhau “cỗ nhất mà ngồi”. Thực ra phải nói là gối nhất mà nằm, bởi vào thời đó, trong các bữa tiệc, người ta nằm mà ăn trên những bộ ghế dài. Nhưng chỗ nhất đó, theo lời giải thích của A. Stoger, là những chỗ gần chủ nhà nhất. Các gối nằm được xếp theo ba nhóm. Ví trí danh dự ở vào phía trước hay ở chính giữa. Vào thời Đức Giêsu, ngôi thứ trong bàn tiệc được ấn định tuỳ tầm cỡ danh giá của thực khách, tức là phụ thuộc vào chức vị và tài sản của người đó.
Sử dụng lời nói dạy khôn ở đời, nói mà không gây tổn thương hay xúc phạm đến ai, Đức Giêsu ngỏ lời trước hết với những khách được mời: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất”.
Chúng ta đừng vội lầm! Ở đây Đức Giêsu không có ý dạy một bài học về nghệ thuật ứng xử ở đời để nhằm thành đạt nhờ những thủ đoạn khéo léo. Đàng khác, để loại bỏ mọi hàm hồ, Luca xác định rõ Đức Giêsu diễn tả bằng “dụ ngôn” (c.7) và Người đề cập đến “những bữa tiệc cưới “ (c.8), một đề tài lớn trong truyền thống Kinh Thánh, gợi lên bữa tiệc cưới giữa Thiên Chúa và loài người. Thực thế, dựa vào một câu trong sách Châm Ngôn (“Chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng”) (Cn 25,6), Người cho thấy việc hình thành Nước Thiên Chúa gây nên một sự đảo lộn như thế nào trong thái độ sống của con người – ngược lại với thói thích ăn trên ngồi trước trong xã hội Do Thái: “Trái lại, khi anh được mời, thì hãy ngồi vào chỗi cuối…”
Trong suốt lịch sử dân Do Thái, sự thực cho thấy Thiên Chúa luôn đứng về phía những thành phần bé nhỏ và khiêm tốn: “Người thấp hèn sẽ được Chúa nâng lên, kẻ quyền thế sẽ bị Người hạ xuống”, ngôn sứ Êdêkien xưa đã loan báo như thế. Hôm nay, đến lượt Đức Giêsu cũng công bố: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Và con đường mà chính Người đường bước đi để tiến về Giêrusalem không gsì khác hơn là con đường của sự khiêm nhường và hạ mình.
- Quesson đưa ra nhận xét: “Chúng ta thấy, đây chẳng đơn giản chỉ là những lời dạy về phép lịch sự ở bàn ăn. Chúng ta đang được mời gọi đến với Nước Thiên Chúa bằng cách noi gương Chúa là Đấng âm thầm, ẩn mình; khiêm tốn. Người đã tự nguyện làm kẻ cuối hết, làm đầy tớ phục vụ mọi người! Sự cao cả của Chúa là ở chỗ đó”
- Thành phần được mời cũng bị xáo trộn.
Sau khi ngỏ lời với những khách được mời, giờ đây, câu chuyện của Đức Giêsu quay sang nói với những người đứng ra đãi tiệc. Cũng vẫn với kiểu nói dạy lẽ khôn ngoan: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối…”. Và nhân danh tính chất mới mẻ của Nước Trời, luôn luôn nhằm mời gọi phải có một cách sống ngược lại với lề lối thông thường của loài người chúng ta.
Theo lẽ thường, ai trong chúng ta cũng chỉ mời những người có liên hệ với mình cách nào đó: bà con họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, tư tưởng, hay một cái gì đó; và những người này đến lượt họ lại phải mời lại chúng ta để “đáp lễ”. Trái lại, theo lời kêu gọi của Đức Giêsu, chúng ta hãy mở rộng bàn tiệc cho tất cả những ai không có khả năng đáp lễ: người nghèo, kẻ bị loại trừ, thành phần bị con như đồ bỏ. Tại sao? Bởi vì đó chính là cách xử sự của chính Thiên Chúa. Người tỏ lòng thương yêu đặc biệt đối với những người phận nhỏ, thấp hèn, và sẵn sàng mời vào bàn tiệc của Người những kẻ “tàn tật, đui mù, què quặt” (Lc 14,15-24). Những người này từng thuộc diện bị Lề Luật khai trừ khỏi sinh hoạt tế tự ở Đền Thờ (2 Sm 5,8 và Lv 21,l8)
Khi thuật lại những lời này của Chúa, Luca có ý nhắc nhở cho mọi anh chị em Kitô hữu xưa cũng như nay – phải cử hành nghi lễ Bẻ Bánh trong Ngày của Chúa với tinh thần nào. Với cung cách của chính Đức tin, Đấng đã muốn sống giữa anh em như “một người phục vụ” (Lc 22,24-27). Bữa Tiệc của Chúa dứt khoát không chấp nhận những tranh dành ngôi thứ, nhưng ngược lại đòi hỏi thái độ phục vụ lẫn nhau vô vị lợi (x. 1Cr 11,17-22. 33-34).
BÀI ĐỌC THÊM
- Một lô-gic mới không ai ngờ.
“Những ai mong sẽ tìm thấy nơi giáo huấn của Đức Giêsu một nền đạo lý bay bổng, sẽ phải thất vọng thôi. Điều Người dạy xem ra rất thường. Nó còn có vẻ như phát xuất từ một sự tính toán hơi vị kỷ: giả bộ ngồi vào chỗ cuối để cho thiên hạ chú ý, mà trong bụng thì nhắm chỗ khác ngon hơn”.
Lời Đức Giêsu dạy, bao giờ cũng vậy. rất tinh tế. Nó mang nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau. Có thể hiểu như là một lời khuyên về cách xử thế, theo kinh nghiệm khôn ngoan về mối giao tiếp giữa người với người. Có thể hiểu như là lời mời gọi phải tránh thói thổi phồng chính mình, phải tập luôn luôn ăn ở khiêm tốn. Nhưng coi chừng! Ở đây đang nói về những bữa tiệc cho những đầu óc thấm nhuần Kinh Thánh và quen với tính chất ẩn dụ trong ngôn ngữ của Đức Giêsu. Đây cũng chính là bữa tiệc cưới của Thiên Chúa với loài người, “Bữa Tiệc Nước Trời”, biến cố Thiên Chúa can thiệp để đổi mới địa cầu như hằng được mong đợi.
Một cách kín đáo, Đức Giêsu xác nhận lại điều Người đã từng nói: đối với Thiên Chúa, kẻ cuối hết là người trước hết. Bài Magnificat đã hát lên rằng: “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Qua toàn bộ cách sống của mình, Người Thợ Mộc làng Nadarét kia đã chứng tỏ một sự quan tâm đặc biệt tới những người bệnh hoạn, tật nguyền, những người “nghèo” nhất trong số những người nghèo.
Theo cái logic đó, Đức Giêsu bồi thêm một câu kết luận bất ngờ và khiến ai nấy kinh ngạc. Người quay sang phía chủ nhà và trách ông ta chỉ biết mời có bạn bè, bà con và láng giềng giàu có. Người ta có thể tưởng tượng những khách được mời sẽ phản ứng thế nào! Không lẽ phải rút lui hết để nhường chỗ cho hạng “tàn tật, què quặt, đui mù?”. Tiệc tùng như thế còn ra cái gì nữa?
Vẫn cứ mãi “hôm nay”, lời của Đức Giêsu tiếp tục giải phóng, mở rộng, mời gọi con người đi tới. Lời đó được gởi đến mỗi người, được gởi đến mọi người. Ai sẽ là người biết mời những kẻ không thể có khả năng đáp lễ lại? Cho đến bao giờ các dân tộc giàu có cứ ăn uống dư thừa trong lúc những dân tộc khác đang chết đói? Biết lúc nào chúng ta mới bắt đầu cử hành ‘tiệc cưới’, ‘bữa tiệc của Thiên Chúa’, ‘bữa tiệc của mọi người’? và ‘sống ngay từ trần thế này cuộc phục sinh của các kẻ lành?’.
- Thiên Chúa tự tỏ ra trong sự ẩn mình
(“Missel Emmaus des dimanches”, trg l091).
“Không gì ngăn cách con người khỏi Thiên Chúa cho bằng sự kiêu căng tự phụ, khi con người chỉ biết tìm kiếm vinh dự cho chính mình. Thói kiêu căng chỉ giam hãm con người trong những giới hạn của riêng mình, đồng thời chỉ mưu vùi dập người khác xuống. Nó ngược hẳn với cung cách của Thiên Chúa: Người biểu dương vinh quang của Người, tức là chính tình yêu, bằng cách tự xoá mình đi. Chính trong sự ẩn mình của Thiên Chúa, chúng ta lại càng khám phá ra được vẻ cao cả đích thực của Người. Đó là điều Đức Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy khi Người hạ mình làm đầy tớ phục vụ loài người, khi Người vui lòng chịu đóng đinh vào thập giá. Đó cũng là điều Người mời gọi chúng ta nhận ra qua Bữa Tiệc Thánh Thể. Tuy nhiên, khiêm nhường thật không phải là chuyện dễ. Đôi khi chúng ta làm ta vẻ khiêm tốn chẳng qua để được thêm vinh quang danh dự mà thôi. Chỉ mình Thiên Chúa có thể giải gỡ chúng ta khỏi vòng vây của thói kiêu căng tự mãn”.
—————————————
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
THIÊN CHÚA PHÂN PHỐI CÁC CHỖ NGỒI- Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Sau khi đã than vãn trên Giêrusalem, Đức Giêsu trong TM Lc lại di chuyển; nhưng trong thực tế, mãi đến 14,25, ta mới thấy là Người lại đang ở trên đường. Còn bây giờ, ta thấy Người đi vào nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để chia sẻ với ông một bữa tiệc nhân một ngày sabát. Người đã tận dụng hoàn cảnh để ban những lời khuyên khôn ngoan về cách ứng xử trong các bữa tiệc do Người đang nhận xét về các thực khách.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần với một câu mở đầu:
* Mở: Hoàn cảnh (14,1);
1) Dụ ngôn về các chỗ ngồi (14,7-11);
2) Nguyên tắc cư xử đúng đắn (14,12-14).
3.- Vài điểm chú giải
– ăn cưới (8): Từ ngữ Hy Lạp gamos, đặc biệt ở số phức, có thể hiểu theo nghĩa tổng quát là “một bữa tiệc”.
– Xin mời ông bạn lên trên cho (10): Lời này khiến chúng ta nhớ đến Cn 25,6-7, nhưng ở đây được áp dụng vào bối cảnh một bữa tiệc. Xem thêm Hc 3,17-20.
– phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (11): Câu này là chìa khóa của dụ ngôn về các chỗ ngồi. Thái bị động diễn tả hành động của Thiên Chúa: “phàm ai tôn mình lên sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên”. Các động từ ở thì tương lai có ý nói rằng sự việc sẽ xảy ra vào Ngày phán xét chung.
– đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con (12): Không được hiểu câu này theo nghĩa chữ chặt. Bài học là không được bác ái đối với người thân cận theo những động lực trần tục, vì lợi lộc cá nhân. Câu nói của Đức Giêsu trong ngôn ngữ Sê-mít có thể dịch là: “Đừng chỉ mời bạn bè…”.
– vì ông sẽ được đáp lễ (14): Thái bị động diễn tả hành động của Thiên Chúa: “vì ông sẽ được Thiên Chúa đáp lễ”.
4.- Ý nghĩa của bản vă
Giai thoại được tác giả Lc kể hôm nay xảy ra tại nhà một người Pharisêu, ông này đã mời Đức Giêsu đến dùng bữa trưa sau buổi cử hành phụng vụ ngày sabát. Người khách quan trọng nhất ngồi ở giữa, người chủ ở bên cạnh, còn những người khác cứ theo tuổi mà ngồi vào. Đấy là quy luật thông thường, nhưng cũng cứ có người nào đó muốn ngồi vào chỗ cao hơn của ai đó, gần với trung tâm hơn.
* Dụ ngôn về các chỗ ngồi (7-11)
Quả thật, một trong những bận tâm chính của con người là đạt được vinh quang và danh tiếng, là xác định địa vị, đạt được các vị trí. Mỗi người cứ muốn ở cao hơn người khác, xa hơn người khác. Những người đồng bàn với Đức Giêsu hôm ấy đã tỏ lộ khuynh hướng này ra qua việc muốn có những chỗ nhất. Đức Giêsu hẳn là mỉm cười khi thấy cảnh tượng ấy, Người mới nói với họ một dụ ngôn.
Dường như Đức Giêsu ban một quy luật ứng xử khôn khéo, đó là: khi đi dự tiệc cứ chọn chỗ thấp, không phải do khiêm tốn, nhưng do tính toán, và cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ cho khách mời. Như thế, ta sẽ khỏi xấu hổ khi bị chủ nhà mời ngồi lùi xuống mà nhường chỗ cho người đáng trọng hơn, hoặc sẽ được nở mặt nở mày khi được chủ nhà mời ngồi lên trên. Hẳn là người ta nhớ đến đoạn sách Cn 25,6-7.
Thật ra, Đức Giêsu không có mục đích nhắc lại một quy luật ứng xử khôn khéo. Người đã nói theo kiểu dụ ngôn nhằm cho chúng ta hiểu rằng cứ lo tìm chỗ và tìm danh dự thì thất bại thôi; tốt nhất cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ ngồi. Điều này đúng với loài người, theo những quy luật họ đang theo. Nhưng Đức Giêsu nói thế để đưa chúng ta đến khẳng định: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên” (c. 11). Chúng ta không thể không nghĩ tới dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế, với câu kết tương tự (Lc 18,14). Khi các môn đệ cãi nhau về chỗ nhất, Đức Giêsu đã dạy họ về sự phục vụ (22,24-27).
Khao khát danh dự và uy thế, ra sức đánh bóng hào quang của mình đều không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta không được bận tâm về cái tôi của mình, vì đó là một thứ ích kỷ. Do đó, chọn chỗ cuối không phải để được người ta ca ngợi, nhưng để trở thành lớn trước nhan Thiên Chúa.
* Nguyên tắc cư xử đúng đắn (12-14)
Sau đó, Đức Giêsu lại lưu ý chủ nhà, mà cũng là các thực khách, về một thực tại khác. Người ta có thói quen chỉ thiết lập những quan hệ với những người ngang tầm với mình. Những người bị loại trừ thường là những người bần cùng khốn khổ. Xu hướng loại trừ này cũng là một thứ tìm kiếm cái tôi, bao bọc cái tôi. Đức Giêsu dạy phải mở rộng vòng tròn đến cả những người bị loại trừ. Ở đây chúng ta thấy Người phác ra hai khối bốn nhóm rõ ràng: “bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có” và “nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”. Khối thứ nhất là gồm những người có thể được mời đến ăn uống với ta. Còn quan hệ với nhóm sau chẳng đưa lại gì cả, cũng chẳng tăng thêm uy tín xã hội của mình. Những người tàn tật, què quặt, đui mù không được phép đi vào Đền Thờ Đức Chúa (x. Lv 21,18; 2 Sm 5,8). Thân phận của họ cho thấy họ đầy tội lỗi, trong khi cộng đồng dân Chúa gồm toàn những người hoàn thiện. Thế nhưng chính họ lại là những người phải được mời, chính họ là những người ta phải hiệp thông với, chính họ là những người phải được nhìn nhận là có giá trị và phẩm giá ngang hàng với chúng ta. Đức Giêsu không ngăn cản việc ăn tiệc với bà con thân hữu, nhưng Người phản đối chủ trương loại trừ và hành vi loại trừ những người thất thế. Khi nói “sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”, Đức Giêsu không hề muốn người ta bỏ kiểu tính toán trần thế, để liếc đến những lợi lộc trên trời; thật ra Người đề nghị chúng ta khi cư xử, thì nghĩ đến giai đoạn kết thúc, lúc mọi người sống lại, khi không còn các nhóm bị loại trừ nữa. Khi đó, những người nghèo và những người đau khổ vì thiếu thốn sẽ hoàn toàn bình đẳng với những người khác. Nếu bây giờ trên trần gian, chúng ta coi họ như những người kém giá trị và không muốn hiệp thông với họ, chúng ta đã tự loại mình khỏi sự hiệp thông được thể hiện khi người chết sống lại.
+ Kết luận
Cả hai phần của bài Tin Mừng đều có câu kết nói đến cách nhìn của Thiên Chúa (c. 11 và c. 14). Như thế, chúng ta được nhắc nhớ là mình đang sống dưới cái nhìn của Thiên Chúa. Ngài không phân biệt đối xử, nên Ngài cũng chờ đợi con cái Ngài không phân biệt đối xử trong quan hệ với nhau. Là con cái của một Cha chung, mỗi người phải sống với người khác, bất kể giàu ngèo, sang hèn, với trọn tình bác ái, được diễn tả cụ thể qua việc phục vụ lẫn nhau.
5.- Gợi ý suy niệm
1 Những gì xuất hiện trong bài tường thuật (người ta chọn chỗ nhất) đã có những thiên hình vạn trạng tại mỗi mức sống của cuộc sống chung giữa con người với nhau và trong mỗi tầng lớp xã hội. Mỗi người nhắm lên cao và muốn cỡi lên đầu lên cổ kẻ khác. Thật khó mà nhìn nhận rằng người thân cận cũng có những quyền và giá trị như chúng ta. Chúng ta lại muốn rằng họ phải thấp kém hơn chúng ta. Dường như chúng ta chỉ chắc chắn về giá trị và tầm quan trọng của mình khi chúng ta có thể từ trên cao nhìn xuống người khác và có thể lượng định họ như là kém giá trị hơn chúng ta. Có một căn hộ lớn, có một xe hơi đẹp, có một địa vị khả quan, một người bạn đời đảm đang, những đứa con thông minh,…, tất cả những điều này đều tốt. Nhưng dường như tất cả những thứ này chỉ có giá trị khi người ta có thể đối chiếu với người khác, khi người ta có trhể cảm thấy và còn chứng minh được là mình hơn người khác! Người ta đua tranh tìm uy thế ngay cả trong lễ an táng và nơi nghĩa trang!
- Khao khát danh vọng, chức tước, uy quyền là chuyện không đáng kể đối với Thiên Chúa. Chúng ta không được dành sức lực và thì giờ cho việc ấy. Tất cả những việc ấy đều là bận tâm lo cho cái tối của mình, là một dạng ích kỷ. Chúng ta phải để cho Thiên Chúa phân phối các chỗ ngồi. Giá trị và tầm quan trọng của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa, chứ không tùy thuộc tham vọng cua chúng ta. Đức Maria đã hiểu như thế khi hát: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Tuy nhiên, thật không dễ gì có được “não trạng” của Thiên Chúa!
- Dựa vào những giáo huấn của Đức Giêsu tại những chỗ khác (Lc 18,9-14; 22,24-27), ta thấy rằng việc phục vụ và quan tâm đến thiện ích của người khác phải chiếm chỗ của tham vọng và bận tâm đến tầm quan trọng của chính mình. Tất cả năng lực được vận dụng vào việc duy trì và gia tăng hào quang của mình phải nhường chỗ cho việc phục vụ người khác, trước nhan Thiên Chúa.
- Một nhóm nào đó được nhìn nhận là các thành viên có phẩm giá ngang nhau. Như thế, họ có thể hiệp thông và trao đổi với nhau. Điều này được diễn tả ra qua những lần mời nhau ăn tiệc. Cái vòng tròn các thân hữu được giới hạn, tức là có việc loại trừ. Tuy nhiên, Đức Giêsu dạy một điều khôn ngoan: Sau này, khi sống lại, ra trước mặt Thiên Chúa, mọi người sẽ ngang nhau. Do đó, nếu giờ đây, chúng ta loại trừ kẻ khác, thì chúng ta đang đặt mình vào nguy cơ không thể chung sống với họ trong ngày kẻ chết sống lại.
- Thật ra, chúng ta không yêu thương những người nghèo để “xứng đáng” có một chỗ tốt hơn trên thiên đàng! Dù thế nào, chúng ta cũng không xứng đáng nhận điều gì cả; thiên đàng được ban không cho chúng ta. Phải yêu thương người nghèo chỉ vì một lý do duy nhất: bởi vì Đức Giêsu đã cho thấy rằng thật là tuyệt với khi có thể yêu thương như Thiên Chúa, không hề vì một liên hệ nào, không chờ đợi đáp trả. Khi yêu thương như thế, chúng ta nhận được phần thưởng cao quý nhất, đó là trở nên giống Cha trên trời, chúng ta trải nghiệm niềm vui của Ngài (x. Lc 6,35).
———————————————————
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BÀI HỌC PHỤC VỤ TRONG KHIÊM TỐN- Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*)
Phụng Vụ Chúa Nhật này mời gọi chúng ta gẫm suy về “đức khiêm tốn”.
Hc 3: 17-21, 30-31
Bài Đọc I, trích từ tác phẩm của hiền nhân Ben Xi-ra, là lời khuyên thực hành đức khiêm tốn, đó là con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Dt 12: 18-19, 22-24
Thư gởi tín hữu Do thái nêu bật sự tương phản giữa Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới. Trong Giao Ước Cũ, Thiên Chúa tỏ mình ra trong quang cảnh kinh thiên động địa. Trong Giao Ước Mới, Thiên Chúa hành động trong nội tâm, tất cả đều xảy ra trong trật tự tinh thần; đây là con đường khiêm hạ này dẫn đến thành đô Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
Lc 14: 1, 7-14
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đưa ra bài học về đức khiêm tốn trong một bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh người Pha-ri-sêu khi ngỏ lời với các vị khách mời.
BÀI ĐỌC I (Hc 3: 17-21, 30-31)
Ông Ben Xi-ra, một bậc vị vọng thành Giê-ru-sa-lem và là một hiền nhân, sống vào cuối thế kỷ thứ ba và đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông ghi lại giáo huấn và kinh nghiệm của ông vào năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau đó, tác phẩm của ông được người cháu trai của ông dịch sang tiếng Hy-lạp.
1.Ý hướng của Tác Phẩm:
Sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê (336-325 trước Công Nguyên), vùng Cận Đông mở cửa đón nhận văn hóa Hy-lạp. Miền Pa-lét-tin không tránh khỏi trào lưu này (nhất là vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên). Những môi trường của giới quý tộc Giê-ru-sa-lem cũng như vài giáo sĩ cho thấy sẵn lòng đón nhận ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Ben Xi-ra không phải không nhạy bén với tư tưởng Hy-lạp, ông biết trường phái triết học Khắc Kỷ, nhưng ông tiên cảm một mối nguy hiểm đối với Do thái giáo. Ông để hết tâm trí vào việc phục hưng những giá trị truyền thống. Theo ông, sự khôn ngoan đích thực là sự khôn ngoan của dân Ít-ra-en, vì Thiên Chúa là mẫu mực khôn ngoan của dân Ngài và Lề Luật là cách thức diễn tả sự khôn ngoan của Ngài.
Sách của hiền nhân Ben Xi-ra là loại cẩm nang thực hành cho người Do thái trung thành. Sách chứa đựng những lời khuyên cho cuộc sống hằng ngày. Tất cả mọi đề tài đều được đề cập đến. Trong đoạn trích hôm nay, đề tài được bàn đến là đức khiêm tốn. Đây là một đức hạnh tiêu biểu Kinh Thánh, mà người ta không gặp thấy ở nơi nền luân lý ngoại giáo.
2.Ca ngợi đức khiêm tốn:
“Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách khiêm tốn”.Ông Ben Xi-ra ngỏ lời với môn đệ của mình, hiện tại hay trong tương lai, như một người cha với đứa con của mình. Đây là cách xưng hô quen thuộc của thầy đối môn đệ của mình được xem như đứa con tinh thần của mình.
Đây không là lòng quý mến dành cho đức khiêm tốn một cách trừu tượng, nhưng lời khuyên thực hành nhân đức này, việc thực hành phải thấm đẩm mọi hành vi của cuộc sống. Sách Châm Ngôn cũng được điểm xuyến bằng những lời khuyên tương tự, không kể đến các Thánh Vịnh, sách Gióp, vân vân. Xa hơn nữa, không phải là ông Mô-sê được ca ngợi như là “một con người rất đổi khiêm nhu, không ai như thế trong mọi người có trên mặt đất” (Ds 12: 3) sao? Mặt khác, ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã tiên báo hành động của Đức Chúa theo chiều hướng này: “Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không còn nghênh ngang trên núi thánh Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa các ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nơi nương ẩn nơi danh Đức Chúa” (Xp 3: 11-12).
- “Con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng”:
“Con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng”, có nghĩa “con sẽ được sủng ái trước nhan Thiên Chúa”. Cách nói Kinh Thánh kinh điển này sẽ được củng cố trong Tin Mừng hôm nay khi gia chủ nói với người ngồi rốt hết: “Xin mời ông bạn lên chỗ trên cho”.
4.Lên án thói kiêu ngạo:
Tiếp đó, tác giả cho thấy rằng kẻ kiêu ngạo dẫn đến thảm họa. Lời kết án chỉ được gói gọn trong một câu: “Thảm trạng của người kiêu căng thật vô phương cứu chữa, vì sự ác đã đâm rễ vào lòng họ”. Hình ảnh thật mãnh mẽ: thói kiêu ngạo đã nhiễm độc kẻ ấy tận căn rồi, không tài nào có thể cứu chữa được.
5.Đức khiêm tốn: biết lắng tai nghe:
“Ước nguyện của hiền nhân là biết lắng tai nghe”. Nghệ thuật của hiền nhân là biết lắng nghe, như lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon, vị vua nổi tiếng khôn ngoan bậc nhất: “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái” (1V 3: 9). Suy cho cùng, thái độ này là thái độ khiêm tốn, thái độ lành thánh, vì nó dẫn đến việc gẫm suy và học hỏi sự khôn ngoan.
BÀI ĐỌC II (Dt 12: 18-19, 22-24a)
Bản văn này là đoạn trích dẫn cuối cùng thư gởi tín hữu Do thái trong Phụng Vụ Chúa Nhật năm C này. Tác giả ngỏ lời với những Ki-tô hữu gốc Do thái, những người này luyến nhớ những buổi phụng tự hoành tráng và uy nghi của Giao Ước Cũ khi so sánh với các nghi thức Ki-tô giáo quá giản dị. Tác giả khuyên họ bằng những lời lẽ đầy hình tượng. Trong một bức tranh rất đối xứng, ông sẽ đối lập những nét đặc trưng của Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới.
1.Phẩm chất của người Ki-tô hữu thuộc trật tự tinh thần:
Tác giả phác họa bức tranh bộ đôi tương phản giữa dân Giao Ước Cũ tiến đến núi Xi-nai hữu hình và dân Giao Ước Mới tiến đến thành đô Thiên Chúa hằng sống là Giê-ru-sa-lem thiên quốc. Việc gia nhập vào Tân Ước qua việc hoán cải thuộc trật tự tinh thần, và phép Rửa biến đổi con người từ phàm nhân sang con cái Thiên Chúa cũng hoàn toàn thuộc nội tâm.
2.Khía cạnh trần thế của Giao Ước Cũ:
Giao Ước Cũ được ký kết trên núi Xi-nai giữa những dấu chỉ khả giác và trong quang cảnh kinh thiên động địa: lửa, sấm chớp, mây mù, bóng tối, giông tố trong tiếng kèn vang dậy và tiếng thét gào đến nổi con cái Ít-ra-en phải kinh hoàng sợ hãi đến mức hồn xiêu phách lạc.
3.Khía cạnh thiên quốc của Giao Ước Mới:
Núi Xi-nai đối lập với núi Xi-on, núi này cũng là nơi Thiên Chúa ngự, nhưng là thành đô thiên quốc với muôn vàn thiên sứ.
Dân của thành đô Giê-ru-sa-lem thiên quốc sống trong bầu khí hân hoan chứ không trong tâm trạng run rẩy sợ hãi: “Anh em đến dự hội vui giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”. Diễn ngữ “những kẻ đã được ghi tên trên trời” là hình ảnh Kinh Thánh Cựu Ước (Xh 32: 32; Is 4: 3; Đn 12: 1; Tv 69: 29), được sách Khải Huyền lấy lại dưới tên gọi “Sổ Trường Sinh” (Kh 3: 5; 13: 8, vân vân). Thuật ngữ “con đầu lòng” ở Ít-ra-en hàm chứa những người được hưởng những đặc quyền và được thánh hiến cho Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ Ki-tô giáo, con đầu lòng tuyệt vời là Đức Ki-tô. Chính ở nơi Ngài mà “những người công chính đã được nên hoàn thiện” được dự phần vào những đặc quyền của Ngài. Để chỉ cuộc hội tụ các thánh này, tác giả sử dụng từ Hy-lạp “Ekklesia”, nghĩa là những người được tuyển chọn tức Giáo Hội thiên quốc, Giê-ru-sa-lem trên trời.
Đó là bức tranh mà tác giả phác họa nhằm gởi đến các Ki-tô hữu gốc Do thái này mà đức tin của họ đang chao đảo, thậm chí có vài người có ý định quay trở lại quá khứ xưa kia. Đức Giê-su Ki-tô là đích điểm mà họ tiến đến. Khi trở thành người Ki-tô hữu, họ tiến bước về Chúa Ki-tô, Đấng Trung Gian của Giao Ước Mới và Ngài sẽ dẫn họ về Thiên Chúa, “Đấng xét xử mọi người”.
TIN MỪNG (Lc 14: 1, 7-14)
Thánh Lu-ca là vị thánh ký duy nhất kể ra ba lần những người Pha-ri-sêu mời Chúa Giê-su đến nhà mình dùng bữa (Lc 7: 35; 11: 27; 14: 1-14). Vì thế, chúng ta nhận ra rằng những người Pha-ri-sêu mở rộng cửa đón tiếp Chúa Giê-su để cố hiểu Ngài hơn. Chúng ta đã có dịp đọc một trong ba câu chuyện này rồi, đó là tại nhà một người Pha-ri-sêu ở đó đã diễn ra tình tiết về một người phụ nữ tội lỗi được thứ tha (Chúa Nhật XI).
Chúa Giê-su của Tin Mừng Lu-ca là Chúa Giê-su của mọi người, Ngài sẵn sàng đến với mọi người, dù chống đối hay dò xét Ngài, để hy vọng đưa họ về đường ngay nẻo chính. Vì thế, Chúa Giê-su thường không bỏ lỡ những cơ hội như vậy để gởi đến cho những người Pha-ri-sêu những bài học nhớ đời, vừa mang tính xã hội vừa đầy ý nghĩa tôn giáo.
1.Một ngày sa-bát:
Vào ngày sa-bát, phụng vụ trong hội đường diễn ra vào ban sáng. Bữa ăn trưa, thường long trọng, được định vị sau phụng vụ tại hội đường. Vào dịp này, một viên trưởng hội đường long trọng đón tiếp Ngài. Những khách được mời rất đông. Chúa Giê-su quan sát thái độ của họ. Chính những khách mời này mà Ngài ngỏ lời trước tiên về đức khiêm tốn: hãy khiêm tốn chọn chỗ ngồi cho mình trong bàn tiệc để sau này được Chúa sắp chỗ trong Nước Trời. Tiếp đó, Ngài quay về gia chủ để cho ông một lời khuyên Đức Ái về việc mời người dự tiệc trong hoàn cảnh xã hội cụ thể ở đó có những người bất hạnh.
2.Bài học về đức khiêm tốn:
Chúa Giê-su lên tiếng như một hiền nhân. Ngài nhắc lại đạo xử thế của các khách mời dự tiệc. Sách Châm Ngôn đã dạy đạo xử thế này theo cùng một cách tương tự: “Trước long nhan đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: ‘Xin mời ông lên trên!’ còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng” (Cn 25: 6-7).
Chúa Giê-su trực tiếp nhắm đến thái độ của khách mời dự tiệc, nhưng gián tiếp nhắm đến thái độ của những người Pha-ri-sêu mà Ngài quở trách “ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Lc 20: 46). Từ đó, Chúa Giê-su rút ra một câu kết luận: “Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Trong Tin Mừng Lu-ca, Chúa Giê-su cũng sẽ lập lại lời cảnh báo này khi kết thúc dụ ngôn về người Pha-ri-sêu và người thu thuế lên Đền Thờ cầu nguyện (Lc 18: 14).
Đây là câu kết luận của bài học về đức khiêm tốn trên bình diện xã hội nhưng cũng là chìa khóa để hiểu bài học trên bình diện thiêng liêng. Trong câu kết luận này, chủ từ của động từ thụ động chính là Thiên Chúa và thì tương lai được dùng ở đây để chỉ về ngày sau hết, ngày chung thẩm. Như thế bài học về đức khiêm tốn không chỉ dạy về phép đối nhân xử thế trong cuộc sống thường ngày nhưng còn mang tính tôn giáo nữa: những người Pha-ri-sêu tự hào tự phụ mình là dân Chúa chọn thì hãy coi chừng, có thể sẽ ngồi vào chỗ rốt hết (Lc 13: 28-30).
Thật là có ý nghĩa biết bao khi những lời đầu tiên của Đức Giê-su là: “Khi anh được mời đi ăn cưới…”. Hình ảnh tiệc cưới trong Tin Mừng là hình ảnh bữa tiệc cánh chung, tự nó biểu tượng hạnh phúc của những người công chính trong Nước Thiên Chúa, đặc biệt Mt 22: 1-10 ở đó những khách được mời lại không được tham dự bàn tiệc trong khi những kẻ bé mọn lại được dự phần vào tiệc cưới.
3.Bài học phục vụ trong khiêm tốn:
Chúa Giê-su không chỉ nghĩ đến những người Pha-ri-sêu; Ngài đã ngạc nhiên và sẽ còn ngạc nhiên khi gặp thấy những thái độ như thế tại các môn đệ của Ngài. Thánh Lu-ca tường thuật chính xác vào buổi chiều Tiệc Ly các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giê-su bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu phải nên người phục vụ” (Lc 22: 24). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su cũng đưa ra cho các môn đệ Ngài bài học như thế, nhưng trong một bối cảnh khác: “Trong anh em, người nào lớn hơn cả phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23: 11-12).
4.Bài học về Đức Ái:
Bài học Chúa Giê-su gởi đến cho gia chủ cũng mạnh mẽ không kém. Bài học này không mang giọng điệu của phép xử thế. Trái với thông lệ của người Do thái vốn khinh chê những người bất hạnh này, Chúa Giê-su mời gọi gia chủ mời vào bàn tiệc những kẻ bị loại ra ngoài xã hội: những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Lý do mà Ngài đưa ra đó là không tìm kiếm những phần thưởng trần thế cho những hành vi bác ái, nhưng chờ đợi những phần thưởng của Nước Trời: “Họ không có gì trả lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày các kẻ lành sống lại”. Hành động một cách vô vị lợi, cho một cách hoàn toàn nhưng không.
Tiếp đó, Chúa Giê-su tiếp tục giáo huấn của Ngài bằng một dụ ngôn khác: dụ ngôn “khách được mời xin kiếu, thay vào đó là “những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” (14: 21). Cũng một bài học tương tự.
(*) Tựa đề do BBT.WGPBR đặt
———————————————-
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
KHIỀM TỐN- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
1) Nhân một bữa tiệc
Chúa Giêsu được một thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng bữa. Thời Chúa Giêsu, người Do thái chia thành nhiều nhóm. Có nhóm của Hêrôđê. Có nhóm cách mạng chống đế quốc La-mã. Có nhóm Essenien khắc kỷ. Có nhóm Saduce tư tế. Nhóm Pharisêu gồm các tiến sĩ và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm này tự cho là mình thông hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và là thày dạy của dân, nên họ tách biệt khỏi quần chúng. Như thế thủ lãnh của nhóm Pharisêu phải là người có thế lực rất lớn.
Được mời dự bữa tiệc hôm nay, Chúa Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn tỏ mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pharisêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ vả ông giúp cho một việc gì.
Vì ai cũng muốn ngồi gần ông chủ ở chỗ nhất nên cỗ nhất thiếu chỗ. Có những bậc vị vọng đành phải xuống cỗ dưới. Có lẽ Chúa Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót.
Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Chúa Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
2) Chúa Giêsu đã dạy một chân lý trong đời sống xã hội.
Nhân hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy ta bài học khiêm tốn.
Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác.
Kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Nên không ai ưa người kiêu ngạo. Và nhất là những người kiêu ngạo càng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến. Sách Trang tử thuật chuyện: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
Vì thế Chúa Giêsu đã khuyên ta nên biết khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật xấu hổ.
3) Nhưng nhắm đến thực tại Nước Trời
Lời Chúa Giêsu dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời.
Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao. Vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa.
Hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa, nhưng Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự huỷ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn yếu như ta, trừ tội lỗi.
Hãy nhìn vào hình ảnh bữa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất? Thưa là Chúa Giêsu. Thế mà Người đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác, thì Chúa Trời cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên. Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khiêm tốn phục vụ như Chúa đã làm gương. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có những khiêm nhường giả tạo. Theo ý bạn, khiêm nhường thực sự phải như thế nào?
2) Bạn dễ quan tâm phục vụ người có địa vị chức quyền, hay bạn thường quan tâm đến những người khốn khổ, bị bỏ rơi?
3) Bạn đã bắt đầu tập đi vào con đường khiêm nhường chưa?
4) Chúa Giêsu nêu gương khiêm nhường thế nào?
—————————————————————-
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
KHUYẾN KHÍCH SỐNG KHIÊM HẠ- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Khuyến khích sống khiêm hạ. “Xin ông hãy nhường chỗ” (Lc 14, 9)
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ba khuynh hướng xấu lớn nhất của con người là “danh, lợi và thú”. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta về khuynh hướng hám danh, nói cách khác là tính kiêu căng.
Chúng ta hãy chăm chú nghe Lời Chúa dạy bảo và hãy ngoan ngoãn sống theo giáo huấn của Chúa.
- Gợi ý sám hối
- Chúng ta đều mang tính kiêu căng, mỗi người thể hiện một cách.
- Vì ham danh vọng, chúng ta đã làm nhiều điều đáng trách
- Chúng ta đối xử đặc biệt tốt đối với những người có địa vị, và khinh miệt những kẻ thấp hèn.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Hc 3, 17-18. 20. 28-29)
Đoạn sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn:
- Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu
- Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn
- Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
- Đáp ca (Tv 67)
Thánh vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn: Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
- Tin Mừng (Lc 14, 1. 7-14)
Khung cảnh của câu chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa Giêsu dạy hai bài học:
a/ Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
- Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
- Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
- Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.
b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: bài học phục vụ vô vị lợi. Chúa Giêsu lấy thí dụ bằng việc mời khách dự tiệc:
- “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5, 8; Lv 21, 18).
- “Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ”: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
- Bài đọc II (Dt 12, 18-19. 22-24a) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư Do Thái tiếp tục khích lệ các kitô hữu gốc do thái: khi họ bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
- Gợi ý giảng
* 1. Hai bài học ngược đời
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để dạy hai bài học: bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
a/ Khi được mời dự tiệc:
- Chúa Giêsu thấy người Do Thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó danh dự hơn (tiếng “chủ tịch” nghĩa là làm chủ chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy “chỗ ngồi” là danh dự.
- Những người Do Thái tự chọn chỗ danh dự nghĩa là tự tô vẽ danh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị hố và xấu hổ.
- – Chú ý câu cuối “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”: Động từ “Bị hạ xuống” ở thể thụ động, một kiếu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa: không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ danh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Danh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Abel/Cain Giacóp/Êsau Giuse/Các anh Đavít/các anh Đức Maria v. v)
b/ Khi đứng ra đãi tiệc:
- Người Do Thái làm theo óc tính toán. Cái lợi là được người ta đền đáp
- Chúa Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp, và như thế chắc chắn trọng hậu hơn.
* 2. Con là không, Chúa là tất cả
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
– Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
– Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
*
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11). Chúa Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là “chỗ nhất” trên trời cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Chúa Giêsu tự hạ mình xuống như thế: không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khí yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta “đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật có phúc”, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người” (Ga 3, 16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trờ nên giống Thiên Chúa.
*
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen (TP)
* 3. Những bậc thang xã hội
Tổ chức xã hội nào cũng có những bậc thang cao thấp: trong cơ quan, trong trường học, trong hội đoàn v. v. Chủ tịch hay Giám đốc là cao nhất, kế đến là Phó, rồi Thư ký, quản lý v. v.
Ngay trong Giáo Hội cũng thế: có một số người luôn được ngồi ghế danh dự, luôn có quyền phát biểu trước… trong khi nhiều tín hữu khác chấp nhận thân phận thấp cổ bé miệng của mình.
Lời Chúa Giêsu hôm nay phải khiến chúng ta đặt lại vấn đề: “Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và những kẻ hàng đầu sẽ hạ xuống chót”. Làm thế nào để thực hành lời Chúa mà không khiến cộng đoàn bị xáo trộn và cũng không phải thay thế một kiểu chủ nghĩa hình thức này bằng một chủ nghĩa hình thức khác?
Sau đây là một số hoàn cảnh chúng ta cần suy nghĩ:
- Cách chọn người đại diện cho những thành phần tín hữu.
- Những hình thức ưu tiên trong cộng đoàn.
- Cách đối xử với người nghèo, người ít học và cả người “tội lỗi” v. v.
* 4. Đức tin bị vỡ mộng
Đoạn thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu Do Thái bị vỡ mộng về đức tin: họ đã rời bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ kitô giáo huy hoàng hơn Do thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại; họ tưởng nếp sống kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại… Những tín hữu gốc Do Thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nuối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.
Nhiều tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào: những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt v. v.
Thế rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa bé.
- Chuyện minh họa
a/ Chỗ ngồi và người ngồi
Một người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời Ông Thị Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị Trưởng thắc mắc: “Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà!” Người chủ nhà nhanh trí đáp: “Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có Ông Daniel đang ngồi”. Vị Thị Trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câu chuyện này là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
b/ Cho thế nào mới có giá trị
Nicholas là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đường.
Thánh Phêrô chỉ cho ông thấy 2 đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:
– Những cục vàng kia để làm gì thế?
Thánh Phêrô giải thích:
– Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó Thánh Phêrô nói tiếp:
– Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.
– Sao vậy?
– Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của mình như thế.
Thánh Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và Thánh Phêrô giải thích:
– Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toàn sẽ được lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng ra một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:
– Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ vàng ấy lại tan thành bụi.
Thánh Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống:
– Đây là những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.
Và mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:
– Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành bụi.
Thánh Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: “Thôi thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả”. Thánh Phêrô ôn tồn đáp:
– Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
– Tin vui gì?
– Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
– Nhưng mà hai bàn tay của con rỗng không, con không có gì cả.
– Nghĩa là anh nghèo chứ gì! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, lý tưởng người Kitô hữu cần đạt được trong cuộc sống trần gian là mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu hơn. Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
- Chúa Giêsu nói: / Anh em hãy học với tôi / vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn noi gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu, Vị Mục tử nhân hậu.
- Con người vốn có rất nhiều tham vọng: / muốn được giàu sang / đam mê quyền lực / thích được địa vị cao trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / nhận thấy được tính mau qua của mọi thực tại trần gian.
- Chúa ghét kẻ kiêu căng và thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu hiểu được chân lý này / để cố gắng khiêm tốn và hiền lành trong cung cách xử sự của mình.
- Đức bác ái buộc người tín hữu phải tôn trọng nhân phẩm / và chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái như Chúa đã dạy.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi chúng con hãy nên trọn lành như Cha trên trời, mà một trong những phương thế hữu hiệu giúp người Kitô hữu đạt được mục tiêu này chính là sống theo Lời Chúa dạy trong Tin mừng. Xin cho chúng con ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Kinh Lạy Cha nhắc chúng ta nhớ rằng mọi người chúng ta là anh em với nhau do cùng một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy chúng ta hãy đối xử với nhau một cách quảng đại, thật tình chứ đừng tính toán thiệt hơn.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là thói kiêu ngạo, hám danh, vụ lợi… Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
VII. Giải tán
Xin Chúa giúp anh chị em trong tuần này biết sống khiêm tốn và quảng đại, vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, và nếu chúng ta giúp đỡ những người không có khả năng đáp trả thì chính Thiên Chúa sẽ thay mặt họ đáp trả bội hậu cho chúng ta.
————————————————————-
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY Ở KHIÊM NHƯỜNG- Lm Giuse Đinh lập Liễm
- DẪN NHẬP
Đức Giêsu là con người nhẹ nhàng, dễ thương, hòa đồng với hết mọi người, không phân biệt giai cấp, giầu nghèo, tốt xấu. Xem chừng ra Ngài muốn xa lánh bọn luật sĩ và biệt phái vì, theo Tin mừng của thánh Matthêu và Marcô, họ là những kẻ thù của Đức Giêsu. Nhưng thánh Luca cho biết Đức Giêsu vẫn giao du với người biệt phái vì trong số họ vẫn có nhiều người tốt, có cảm tình với Ngài, và hôm nay cho biết Ngài còn đến dùng tiệc tại nhà một ông biệt phái . Còn về phía những người biệt phái, họ vẫn nghi kỵ và theo dõi Ngài, và có thể bắt bẻ Ngài về bất cứ một phương diệân nào.
Hôm nay Đức Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh biệt phái. Trong bữa tiệc thường có những câu chuyện vui trao đổi giữa các thực khách để làm cho bữa tiệc càng thêm ngon miệng. Nhân dịp này, Đức Giêsu không nói chuyện vui, nhưng lại đưa ra những lời giáo huấn mạnh mẽ làm cho những khách mời cảm thấy khó chịu , vì những lời ấy đánh trúng tim đen của họ. Ngài khuyên họ hãy ở khiêm nhường, đừng tranh nhau chỗ nhất, chỗ danh dự trong đám tiệc. Đừng tự đánh giá mình, hãy để cho người ta đánh giá và định đoạt. Ngoài ra, Ngài còn khuyên họ hãy có tinh thần bác ái vô vị lợi khi mời khách đến dự tiệc, đừng tính toán hơn thiệt… Và giáo huấn của Ngài được kết tụ trong câu :”Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).
Theo kinh nghiệm hằng ngày, trong con người chúng ta có sẵn mầm mống của sự kiêu ngạo và kiêu ngạo là một trong bảy mối tội đầu từ đó phát sinh ra các nết xấu khác. Sở dĩ chúng ta kiêu ngạo là vì chúng ta chưa biết mình, chưa nhận ra chân dung con người thật của mình. Nếu nhìn thẳng vào mình, chúng ta sẽ thấy mình quá yếu đuối, bất toàn, đầy những nết xấu. Một khi đã nhìn ra con người thật của mình thì chúng ta chỉ chú tâm vào việc sửa mình, canh tân con người mình cho nên hòan hảo. Với cái nhìn thẳng thắn và thành thật đó, tự nhiên chúng ta sẽ có thái độ khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hc 3,19-21.30-31.
Đọan sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm nhường. Bài học mà người thầy muốn huấn dụ học trò là : hãy ở khiêm nhường. Các vị công hầu vương bá thì theo đuổi mộng làm chủ thế giới và loài người, những người tín hữu của Chúa thì biết rằng mọi sự mình có là do Chúa thương ban. Vì thế, họ khiêm tốn tận dụng những ơn Chúa ban để phục vụ và tôn vinh Thiên Chúa.
Theo bài huấn dụ hôm nay thì :
– Ai làm việc khiêm tốn thì được người ta yêu mến.
– Chính Thiên Chúa cũng yêu thương những kẻ khiêm tốn.
– Ai kiêu căng thì rước lấy sự tai hại vô phương cứu chữa.
+ Bài đọc 2 : Dt 12,18-19.22-24a.
Thánh Phaolô so sánh bầu khí giữa Cựu ước và Tân ước. Trong đạo cũ, người Do thái có ông Mai- sen làm trung gian, họ đến cùng Thiên Chúa trong bầu khí e dè sợ sệt với những hiện tượng bên ngòai làm cho người ta khiếp sợ.
Nay trong Tân ước, các Kitô hữu có Đức Kitô làm trung gian, họ được sống trong bầu khí cởi mở thân tình, họ tiến tới cùng Thiên Chúa, được tham gia vào cộng đoàn con cái Thiên Chúa, họ được tự do tụ họp về trong “Thành đô Thiên Chúa hằng sống để dự hội vui”(Dt 12,22), họ cung kính thờ Chúa và sống hiệp thông cùng các thiên thần và các thánh trong niềm an vui tin cậy
+ Bài Tin mừng : Lc 14,1.7-14.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong bữa tiệc tại nhà một ông thủ lãnh biệt phái tại Pêrê.
Chính trong khung cảnh một bữa ăn tại nhà một ông biệt phái để cho Đức Giêsu tham gia vài “câu chuyện trong bàn ăn”, những lời khá bất ngờ trong dịp này. Theo tập tục, trong bàn tiệc, các khách mời lần lượt góp chuyện, nhưng thường là những vấn đề nhẹ nhàng dễ chịu. Còn Đức Giêsu, Ngài không ngại làm người nghe khó chịu khi chọn đề tài là sự khiêm tốn (Lc 12,7-11).
Qua bàn tiệc Chúa dạy ta :
– Thái độ nên có là khiêm tốn nhũn nhặn, đừng nhảy tót lên chỗ cao, mà bị mời xuống thì quê mặt.
– Đối với khách mời, nên vì lòng quảng đại hiếu khách mà mời, không nên vì lợi lộc.
Hai lời dạy áp dụng vào Nước Trời cũng hợp : Nước Trời chỉ dành cho kẻ khiêm nhường và có tinh thần khó nghèo (Lc 14,21).
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy biết nhìn xuống.
- ĐỨC GIÊSU ĐI DỰ TIỆC.
- Đức Giêsu được mời đi dự tiệc.
“Một ngày sabát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa”(Lc 14,1).
Đức Giêsu không xa lánh những người biệt phái, Ngài cũng giao du với họ, đôi khi còn ăn uống với họ. Hôm đó, vào một ngày sabát, Đức Giêsu được mời vào nhà ông thủ lãnh biệt phái để dùng bữa. Người biệt phái này được gọi là thủ lãnh vì ông có nhiệm vụ điều khiển nhóm biệt phái, thường trong nhóm biệt phái có nhiều thủ lãnh khác nhau.
Biến cố này xẩy ra vào khoảng tháng giêng hay tháng hai năm 30. Họ thường dùng bữa với nhau một cách vui vẻ và thoải mái. Họ là những người biết luật và giữ luật kỹ lưỡng. Họ đã nghe nói về Đức Giêsu qua các dư luận khác nhau. Hôm nay họ mới lợi dụng cơ hội hiếm có này để quan sát Ngài lần đầu tiên.
Việc Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà một người biệt phái chứng tỏ là một con người dễ thương, hòa đồng, có khả năng đi đến với hết mọi người. Việc dùng bữa tại nhà ông biệt phái cho thấy thái độ của Đức Giêsu đối với người biệt phái không nhất thiết là tiêu cực như quan niệm trong Tin mừng Matthêu và Marcô, coi hạng biệt phái là thù địch của Ngài. Và như vậy, cho thấy Đức Giêsu muốn nêu lên khía cạnh Ngài sẵn sàng ban ơn cứu độ cho cả những người biệt phái nữa.
Vào bàn tiệc, Đức Giêsu quan sát một vòng, và thấy ngay một thói xấu thường xẩy ra nơi những người biệt phái là chọn chỗ nhất, chỗ danh dự (Mt 23,5-7). Họ cho đây là một thói quen nên không thấy ngượng ngùng gì.
- Giáo huấn của Đức Giêsu.
Trong bữa tiệc, người ta thường nói chuyện vui vẻ, có những câu chuyện vui, có cả những chuyện tiếu lâm nữa, cốt làm cho bữa tiệc càng thân tình, làm cho khách ăn càng ngon miệng. Riêng Đức Giêsu trong dịp này, Ngài không nói chuyện vui mà Ngài đưa ra một giáo huấn làm cho người nghe phải khó chịu. Giáo huấn ấy đề cập tới hai điểm : việc dự tiệc và đãi tiệc, nghĩa là nói đến sự khiêm nhường và bác ái vô vị lợi.
- a) Việc dự tiệc.
Khi thấy người ta chen lấn nhau chọn chỗ nhất, chỗ danh dự, Đức Giêsu đưa ra cho họ những lời giáo huấn. Lời giáo huấn của Ngài là bài học xử thế khéo léo ở trong xã hội khi giao tế với nhau. Ngài nói với họ dựa theo một đoạn trong sách Châm ngôn :”Trước mặt vua, con đừng kiêu hãnh, đừng dành giật chỗ người vị vọng. Vì thà để người ta mời con :”Xin mời ông lên” còn hơn là bị hạ xuống trước mặt quan tướng”(Cn 25,6-7).
Đàng khác, việc sắp xếp chỗ là của chủ nhà, vì chủ nhà mới biết địa vị ngôi thứ của khách mời. Còn người tự chọn chỗ danh dự cho mình là người tự tô vẽ cho mình có khi không đúng sự thật, có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhận nơi mình và đặït mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị vỡ mặt.
Từ trong quan niệm về cách xử sự giao tế ở trần gian, Đức Giêsu bước sang lãnh vực tôn giáo. Theo đó, danh dự thật không phải là người trần gian gán cho mà danh dự đó phải do Thiên Chúa ban cho. Mà Thiên Chúa thường nâng cao kẻ thấp hèn. Vì thế Ngài nói :”Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
- b) Việc đãi tiệc.
Đức Giêsu lại tiếp tục đưa ra lời khuyên khác về tinh thần bác ái vô vị lợi. Theo thói người đời, trong tiệc cưới thì người ta mời người thân, bạn bè, ân nhân…chứ ai mời người nghèo khó đến dự tiệc ? Thế mà Đức Giêsu lại khuyên người ta làm những việc có vẻ ngược đời :”Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”(Lc 14,13).
Khi mời dự tiệc, người Do thái luôn làm theo óc tính toán, phải có lợi. Cái lợi là sẽ được người ta đền đáp, đúng là “ăn sang ăn giả”. Ngược lại, Đức Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp và sẽ được đền đáp trọng hậu. Vì những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là những người loan báo Nước Trời. Do đó, đến với người nghèo khó là dấu hiệu ta thủ đắc Nước Trời cách chắc chắn.
- NÓI VỀ KIÊU NGẠO VÀ KHIÊM NHƯỜNG.
Trong câu nói của Đức Giêsu :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, chúng ta thấy câu nói này có hai vế với hai tính cách trái ngược nhau, đó là kiêu ngạo và khiêm nhường.
- Ai nâng mình lên.
Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có gía trị và được mọi người công nhận, và tôn trọng giá trị của mình. Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài (x. St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hòan hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hòan hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hòan hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.
Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã nhập vào bản thể của con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hòan hảo, có giá trị thật (điều này khó, đòi hỏi con người cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị thực hay không (JKN).
Như chúng ta đã biết kiêu ngạo dẫn đến thảm họa cho nhân lọai qua lời cám dỗ của ma quỉ :”Ông bà sẽ nên như những vị thần, biết điều thiện ác”(St 3,5) trong câu chuyện ông A dong và bà Evà ăn trái cấm, và được gọi là tội tổ tông truyền.
Theo sách giáo lý công giáo, số 1866 thì kiêu ngạo được xếp vào “các mối tội đầu” phát sinh ra các tội và các nết xấu khác. Đó là : Kiêu ngạo, hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh”.
Chúng ta thừa hiểu rằng ai cũng mang trong mình mầm mống của sự kiêu ngạo. Nó thường núp bóng dưới nhiều hình thái khác nhau :
– Tự ái là khi bị sỉ nhục liền cảm thấy mất mặt, sinh ra tức giận và tìm cách hạ bệ đối phương ngay.
– Khoe khoang tức là lợi dụng mọi cách mọi dịp để làm cho mình được nổi bật hơn kẻ khác.
– Ganh đua là khi thấy người khác hơn mình thì khó chịu, rồi tìm dịp xoi mói hay tìm cách đưa mình lên.
Tất nhiên, tất cả những biểu hiện đó là xấu, đôi lúc là tội nữa và trái ngược lại với sự khiêm nhường.
Truyện : Chiếc tầu Titanic
Kỷ niệm đáng ghi nhớ và đáng học hỏi nhất cho con người thời nay là câu chuyện chiếc tầu Titanic. Người ta nghĩ rằng bàn tay con người có thể làm nên một con tầu không thể chìm là một sự vô cùng kiêu ngạo. Mọi con tầu do con người chế tạo đều có thể chìm. Bằng việc tuyên bố chúng ta có thể làm ra một con tầu không có thể chìm được với kỹ thuật tân tiến hiện đại đã thách thức quyền năng của Thiên Chúa. Đúng như lời thánh Phaolô nói về tinh thần của thời đại này là kiêu căng (Rm 12,3; 1Cr 4,7). Tinh thần kiêu căng đó đã thúc đẩy người ta viết vào mạn tầu mấy chữ :”No Pope, no God” : không có giáo hoàng, không có Thiên Chúa ! Và trong chuyến hải hành đầu tiên từ Anh sang Mỹ, sự gì đã xẩy ra như chúng ta đã biết. Một tai họa đã giáng xuống như câu chuyện xây tháp Bebel trong Cựu ước(St 11,4).
- Ai hạ mình xuống.
Đối lại với tính kiêu ngạo, Đức Giêsu đã khuyên ta hãy ở khiêm nhường. Chính Ngài đã phán :”Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29).
Vậy khiêm nhường là gì ? Và thế nào mới được gọi là khiêm nhường ? Phải chăng khiêm nhường là tự hạ mình xuống , phủ nhận giá trị thực của mình hay giảm thiểu nó đi ?Không phải thế, Đức Khiêm nhường mang nhiều chiều kích sâu xa hơn và tốt đẹp hơn nhiều. Khiêm nhường không phải là ít nghĩ về mình, mà là không nghĩ gì về mình, bởi vì :”Con Người không đến để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45).
Nhà giảng thuyết trứ danh của nước Pháp, cha Lacordaire đã nói :”Khiêm nhường không phải là thấy mình xấâu xa hơn, tầm thường hơn, nhưng là biết rõ những gì ta còn thiếu”. Khiêm nhường lấy sự thật làm nền tảng. Tự gắn cho mình cái sai ta không có, phóng đại những lỗi lầm ta không phạm, từ chối không nhìn nhận những khả năng của mình, tự cho mình thua kém mọi người, đó không phải là cách sống khiêm nhường; nhưng đó là dấu hiệu của một quan điểm sai lầm, hay một khuynh hướng bệnh hoạn. Muốn thực hiện khiêm nhường chỉ cần nhìn nhận những khuyết điểm, thấy mình tội lỗi, giới hạn, biết rằng trong tất cả mọi lãnh vực có nhiều người khác vượt xa tôi :
Ở nhà nhất mẹ nhì con,
Ra đường lắm kẻ con dòn hơn mẹ con ta.
Một lần nữa, ta phải khẳng định rằng, khiêm nhường không là gì mà chính là chấp nhận sự thật về mình. Trong Anh ngữ, chữ khiêm nhường là “humility”. Chữ Humility do chữ La tinh “Humus” có nghĩa là đất, tro bụi mà từ đó con người đã được tạo dựng theo như sách Sáng thế đã mô tả (St 2,7). Do đó, khiêm nhường có nghĩa là hạ mình xuống tới đất. Nó nhắc nhở chúng ta lời kêu gọi của Giáo hội trong ngày thứ Tư lễ Tro về sự thật của thân phận con người :”Hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về cùng tro bụi”.
Truyện : Đọc truyện Tây du ký.
Ai trong chúng ta cũng đã có lần được xem phim Tây du ký của Trung quốc. Một cuốn phim thật hay và hấp dẫn người xem từ đầu tới cuối và còn muốn xem nhiều lần. Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta thấy các nhân vật trong phim cũng hợp với lời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay : “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Những hạng tôn mình lên làm Tề Thiên Đại Thánh : bằng Trời, bằng thánh vĩ đại, làm Đại vương, Ma vương, Nữ vương, Hòang hậu, Hòang tử, Công chúa đều bị lột mặt nạ là những đồ khỉ, nhện, thỏ, rắn rết, heo, bò, dê ngựa, hổ báo, sư tử, quỷ vương, buộc phải hiện hình trở về kiếp sống quái vật.
Những thứ nâng mình lên như thế thì vô kể.
Những thứ hạ mình xuống thì ít lắm. Chỉ thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất lực trước mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn Phật, cầu kẻ này, nhờ kẻ kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ lối, cứu giúp, giải vây. Chính nhờ hạ mình xuống mà ai cũng thương mến, kính phục và liên kết với ông. Chính nhờ sự hạ mình xuống mà ông tránh được hiểm họa tranh chấp, đánh lộn, oán thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông thành Thánh, thành Phật. Ông đã hạ mình xuống thì được mọi người tôn lên.
Ngoài thứ khiêm nhường thật ra, lại còn thứ khiêm nhường giả tạo nữa. Điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bề ngòai. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, khi mình có tài hoặc khả năng đặc biệt được nhiều người chiếu cố, nhờ cậy thì mình giả vờ hạ bệ mình bằng cách thoái thác, từ chối, nhưng kỳ thực đó là thủ thuật buộc người ta phải lụy phục, nài nỉ thêm. Lại có người vì để được một lợi lộc gì hay để đạt được một tham vọng nào đó thì luôn tỏ ra nhã nhặn, hiền lành, dễ bảo trước mặt người có quyền để lấy lòng, mua chuộc. Hoặc vì yếu thế mà phải tỏ ra lụy phục, nhưng sau lưng thì phê bình chỉ trích, nói xấu người ta.
Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vênh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh nhàn, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.
Phải thành thật với mình, nhận ra cái ưu đểm và khuyến điểm của mình và luôn nhận ra mình còn yếu đuối cần có sự trợ giúp của Chúa vì :”Không có Thầây, các con không thể làm gì được” ! “Các con hãy ngồi vào chỗ cuối” ! Đức Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại lời đó. Trước mặt Thiên Chúa, phải biết mình yếu đuối, nhỏ bé, ở chỗ cuối, để rồi hoàn toàn trông cậy vào Chúa, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình. Phải nhỏ bé như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Lc 9,48).
Truyện : Nhận thức đúng thân phận mình.
Tương truyền rằng trước cánh cửa nhà mồ bị khóa chặt, hồn nữ hòang Sissi gõ cửa. Từ nơi thăm thẳm vang lên giọng nói oai nghiêm của vị Cha Già giữ cửa :
– Ai đó ?
Hồn nữ hòang kiêu sa đáp :
– Tôi là nữ hòang Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari.
Tiếng vị Cha Già lạnh lùng :
– Ta không biết.
Tưởng người giữ của chưa hiểu biết về mình, hồn nữ hoàng lại gõ của. Lần này tiếng hỏi của vị Cha Già gắt hơn :
– Ai đó ?
Hồn nữ hoàng lại cao giọng đáp :
– Ta là nữ hòang Elizabeth Sissi của Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari, hoàng hậu xứ Bôhême, hoàng hậu của Giêrusalem, nữ lãnh chúa của xứ Transylvanie, đại quận chúa của Toscane và Cracovie…
Lại một lần nữa Cha Già trả lời :
– Ta không biết.
Nghe xong tiếng trả lời của Cha Gia :”Ta không biết”, vừa thất vọng đau đớn vừa tủi nhục xấu hổ, hồn nữ hoàng vội quì xuống, lột bỏ hết mọi chức tước cao ngạo của trần thế và khiêm tốn thưa lại một cách giản dị :
– Con là Elizabeth Sissi, một kẻ có tội đáng thương và con tha thiết cầu xin Chúa nhân từ xót thương. Tức thì tiếng chìa khóa tra vào ổ, vị Cha Già lên tiếng ân cần nói :
– Con hãy vào đi.
Dù câu chuyện chỉ là giả tưởng, nhưng dụng ý của nó muốn nói rằng : giá trị đích thực của một con người ở đời này và đời sau không hệ tại nơi những gì bên ngoài mình có được hay mình chiếm được, mà là do biết rõ mình thế nào. Nghĩa là khi còn sống phải biết sống làm sao để mọi người yêu mến kính phục và khi đã qua đời lại được Chúa xót thương và được thần thánh hỗ trợ thì mỗi người chúng ta gắng sức học hỏi và sống theo bí quyến căn bản này : “Khiêm nhường”. Vì đây chính là chìa khóa để mở được cánh cửa vào thiên đàng (Quê Ngọc).
- Hạ mình xuống để phục vụ.
Đức Giêsu phán :”Con Người đến không phải được phục vụ nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45). Phục vụ là hành động của một người tôi tớ, mà người tôi tớ thì phải phục vụ cho ông chủ. Đức Giêsu đã hạ mình xuống để phục vụ chúng ta để tôn chúng ta lên làm Chúa, còn Ngài lại trở thành tôi tớ. Ngài làm gương cho chúng ta về tinh thần bác ái vô vị lợi.
Sách có chữ rằng :”Phú quí đa nhân hội, bần cùng thân thích ly” : Giầu có thì thiên hạ bâu, nghèo khó thì bà con rời rạc.
Theo cách xử sự thông thường người ta thích những người giầu có, giao du với họ trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Nếu có phục vụ người ta thì cũng chỉ phục vụ “theo nguyên tắc :”Do ut des” : cho đi để lấy lại. . Chỉ những ai có tinh thần siêu nhiên và siêu thóat thì mới có thể có được một sự phục vụ vô vị lợi.
Phục vụ là :”Cho đi”, nhưng cái cho đi cũng có nhiều lý do :
– Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho lòai người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
– Người ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi cho thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
– Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền. Các rabbi Do thái có câu nói rằêng : cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
– Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành thật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.
III. BÀI HỌC CHO NGÀY HÔM NAY.
Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài đã không làm trước, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Bài học về khiêm nhường và bác ái hôm nay được minh họa bằng chính cuộc sống của Ngài mà thánh Phaolô đã ca tụng trong thư gửi cho tín hữu Philipphê :”Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”(Pl 2,6-9).
Đọan thư Philipphê ngầm so sánh Đức Giêsu với A dong và nói lên cái nghịch lý giữa “lên” và “xuống”. Adong đã muốn lên “bằng Thiên Chúa” và kết quả là đẩy loài người xuống vực sâu. Còn Đức Giêsu tuy vẫn là Thiên Chúa mà không nhất quyết phải đòi cho luôn luôn được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã khước từ tất cả , mặc lấy thân nô lệ thấp hèn. Kết quả là Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban chính hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu… Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Chúng ta cũng thường theo con đường của Adong tưởng rằng khẳng định được mình khi nâng mình lên trước mặt những người khác. Những cái “mình” mà ta khẳng định ấy chỉ là những dáng vẻ bề ngòai chứ không phải là bản thân đích thực của ta.
Triết gia Socrate đã khởi đầu triết lý của mình bằng câu :”Anh hãy tự biết mình”. Biết mình là cái khó vô cùng. Người ta có thể biết được nhiều sự trên trời dưới đất, biết được những cái xa xôi, biết được cả những cái cực kỳ tinh vi, nhưng có cái gần nhất màø không biết. Đó là bản thân mình. Còn triết gia Blaise Pascal thì nói :”Tôi chỉ biết có một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nếu không biết được gì khác thì làm sao biết được mình vì biết mình là một điều khó. Vì vậy, mọi sự cần bắt đầu với việc tu thân, canh tân chính đời sống của mình. Để làm được điều căn bản này cần phải biết nhìn xuống và nhìn vào bản thân mình, biết khiêm tốn nhìn vào cuộc sống của mình theo ánh sáng Lời Chúa để được soi sáng mà nhìn thấy những gì tiêu cực, xấu xa cần được thanh luyện sửa chữa.
Truyện vui : Phải biết nhìn xuống.
Có một hòang tử nọ tên là Mukasaki, có một thái độ tự cao tự đại đến độ cả khi đi, ông cũng không bao giờ nhìn xuống đường. Ông bước đi trong tư thế làm oai, ngực đứng thẳng, mắt ngước lên, mọi người trong vùng đặt cho hoàng một tên riêng là :”Người không bao giờ nhìn xuống” và hoàng từ Mukasaki xem ra cũng rất thích biệt hiệu này, ông tuyên bố :”Những bậc vĩ nhân không bao giờ nhìn xuống, họ chỉ biết nhìn lên trời cao mà thôi”.
Một ngày nọ, hoàng tử được mời đến dự đại tiệc tại cung đình. Để khoe cho mọi người nhìn thấy bộ áo cẩn ngọc qúi giá có một không hai của mình, hoàng tử quyết định không ngồi xe ngựa nhưng hiên ngang đi bộ từ nhà đến cung đình, dĩ nhiên là với thái độ kiêu hãnh không bao giờ nhìn xuống. Dân chúng tuốn ra hai bên đường trầm trồ khen áo đẹp và quí, điều này lại làm cho hoàng tử thêm kiêu hãnh. Hoàng tử đến cung đình sau hết mọi người và hiên ngang bước vào. Mọi người cười rộ lên, hoàng tử kiêu hãnh nói :
– Tại sao mọi người cười tôi như vậy ?
Một trong những người khách mới trả lời :
– Xin hoàng tử nhìn xuống đôi chân mình sẽ biết lý do tại sao ?
Hoàng tử nhìn xuống, mặt bỗng đỏ bừng lên vì hổ thẹn. Cả hai đế giầy của hoàng tử đều dính đầy phân ngựa, vì không bao giờ nhìn xuống, hoàng tử giẫm lên không biết bao nhiêu đống phân ngựa từ nhà đến cung đình để dự tiệc.
Hoàng tử trong câu chuyện vui trên không bao giờ nhìn xuống và đã giẫm lên những đống phân ngựa. Nếu chúng ta không biết nhìn lại mình, kiểm điểm cuộc sống mình để biết canh tân khỏi những khuyết điểm và tật xấu, thì chắc chắn chúng ta sẽ chồng chất không biết bao nhiêu tật xấu. Tự phụ kiêu ngạo làm ta nên mù quáng trước những tật xấu của chính mình. Thêm vào đó, chúng ta lại dễ chiều theo khuynh hướng moi móc chuyện xấu của anh chị em, và như thế càng ngày chúng ta càng lún sâu vào trong tật xấu mà không hay biết gì cả( R.Veritas).
————————————–
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CHÚA YÊU THÍCH NHỮNG KẺ KHIÊM NHƯỜNG-Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Nhằm một ngày sabbat” (Lc 14, 1), chi tiết quan trọng này hé mở ra chân trời của Vương Quốc, nơi ấy Đức Giêsu chuẩn bị bữa tiệc dành cho chúng ta là những người được mời. Đây không phải là bữa tiệc bình thường, vì được diễn ra “trên núi Sion, thành trì của Thiên Chúa hằng sống là Giêrusalem trên trời”, có sự hiện diện của “muôn ngàn thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời” (Dt 12, 22). Là nơi chúng ta có quyền lợi ở đấy. Đó là điều Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.
Chỗ nhất trong bữa tiệc là một vấn đề thương gây tranh luận trong các trường học Do thái thời Chúa Giêsu. Thực ra, chủ nhà không có qui định chỗ ngồi cho thực khách, nên mỗi người phải chọn lấy cho mình một chỗ sao phù hợp với địa vị của mình so với thực khách khác. Có thể có nhiều khách sang trọng hơn ta đến vào giây phút cuối, lúc ấy, cần phải thận trọng nhường chỗ cho thượng khách đó. Họ có thể được mời vào chỗ vinh dự hơn, khi mà Chủ nhà ra dấu hiệu trong bữa ăn, vẫn còn nhiều chỗ trống, cũng có thế sớm muộn người ấy phải nhường chỗ cho người có chức quyền đến vào giờ áp chót.
Lời khuyên của Đức Giêsu không có gì là cách mạng, vì sách Châm ngôn đã từng dạy : “Trước long nhan, đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống” (Cn 25, 6-7). Thoáng nhìn, người ta có thể nghĩ, đơn giản chỉ là cách ứng xử thận trọng trong cuộc sống, nhưng quả thật, không dễ chịu chút nào khi thấy mình bị hạ xuống trước mặt mọi người. Hoặc là lịch sự so với các thực khách khách, vì họ xứng đáng vào chỗ nhất trong đám tiệc. Hoặc là chịu đựng có tính toán, hơi chút kiêu căng : tôi chọn chỗ rốt hết, với nụ cười trên môi thể hiện sự khiêm nhường, nhưng ẩn tàng hy vọng được mời bước qua trước mặt mọi người để lên ngồi chỗ nhất…
Đây không phải điều mà Đức Giêsu mong đợi chúng ta. Khi nói về Nước Trời; có lúc Người cũng thêm vào “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống ; ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, người hạ bệ không ai khác ngoài Thiên Chúa, Ngài hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo là “người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18, 9), khi “sự thiện không có ở trong người ấy” (x. Rm 7, 18). Họ “tự cao tự đại, nên chẳng thấy tội mình mà chê ghét” (Tv 36, 3). Như người pharisiêu trong dụ ngôn, ông tự phụ khoe khoang trước mặt Thiên Chúa và người đời : “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì con không như những người khác” (Lc 18, 11). Ông ngửa mặt lên trời và xét đoán nghiêm khắc về tha nhân.
Trái lại, người khiêm nhường, trước Mạc khải tình thương của Thiên Chúa, họ ý thức về thân phận bụi đất của mình, nên “khiêm nhường”. Như người thu thuế (Lc 18, 13), hay như vịnh gia, than vãn : “Xin rủ lòng thương con, lạy Chúa: con kêu con gọi Chúa suốt ngày. Lạy Chúa, xin làm cho con được vui thoả, vì con nâng tâm hồn lên tới Chúa. Lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng, giàu tình thương với mọi kẻ kêu xin” (Tv 85, 3.5). Ý thức về thân phận tội lỗi của mình trước nhan Chúa, tin tưởng nài van và xưng thú tội lỗi cùng Ngài, là những điều căn bản của sự khiêm nhường.
“Những kẻ khiêm nhường” thực sự mới có thể nói lời “tạ ơn” đối với Thiên Chúa, vì vinh quang từ đâu đến để chúng ta có thể “tạ ơn” Đấng Tối Cao, nếu không phải đến từ Thiên Chúa? Chúng ta đón nhận vinh quang ấy thế nào nếu không phải là nhận lãnh Tin Mừng với lòng thống hối ăn năn ? Vì thế, ý tưởng của người khôn ngoan là lắng tai nghe, họ nghe tiếng Chúa gọi, và “hướng về Đức Giêsu, trung gian của Giao ước mới” (Dt 12), để đón nhận ơn cứu độ tự nơi Người.
Triết gia Nietzsche trách Kitô giáo là tôn giáo của những người yếu thế ; thấp cổ bé họng; khi tán dương kẻ khiêm nhường ở dưới đất trong khi mong đợi tiến về trời cao. Một quan niệm về khiêm nhường như vậy thực sự mà nói quá thụ động với đòi hỏi của Tin Mừng. Tuy Đức Giêsu chịu đựng những điều lăng nhục trong cuộc Thương khó, nhưng Ngườii đã chọn lựa con đường này có suy nghĩ : “Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự» (Ph 2, 6-8). Sự khiêm nhường tự hạ của Chúa Con biểu lộ đức ái cao cả, Người ấp ủ trong lòng ơn cứu rỗi các linh hồn và tôn vinh Thiên Chúa Cha trong họ. Khiêm nhường thật để duy trì hạnh phúc phục vụ anh em, “lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Ph 2, 3). Đối với người yêu mến, thì phục vụ vô vị lợi là phần thưởng của họ : “Khi anh dọn tiệc mời khách, thì hãy mời những người nghèo ; và anh sẽ hạnh phúc, vì họ không có gì để trả lại anh”. Anh có thể có bác ái trong sự khiêm nhường, vì người khiêm nhường không qui chiếu về mình nhưng làm phúc vô vị lợi đối với tha nhân trong tình yêu. Thế nên, Tình Yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa là khiêm nhường hoàn hảo nhất.
Lạy Chúa, xin đẩy xa tính kiêu ngạo xa con, dẫn con đi trên đường chân lý là khiêm nhường, để con coi người khác trọng hơn mình, và tìm thấy niềm vui khi phục vụ người khác. Xin đừng để sự tự cao, tự đại làm con thỏa mãn ; nhưng ban cho con ơn nhận ra Chúa luôn khiêm nhường, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, là Thiên Chúa toàng năng, trao ban chúng con tình yêu và sự sống. Amen.
——————————————
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY KHIÊM NHƯỜNG- Jos.Vinc. Ngọc Biển
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối giáo huấn của Đức Giêsu tuần trước. Nếu tuần trước, Đức Giêsu dạy hãy qua “cửa hẹp” mà vào, tức là phải vứt bỏ lại những thứ không cần thiết, phải chiến đấu, sám hối, và uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, thì tuần này, Đức Giêsu dạy cho những người cùng dự tiệc với Ngài một bài học về đức khiêm nhường: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).
Theo truyền thống của người Dothái, khi đến dự tiệc, mỗi vị khách thường được mời kể một câu chuyện để phục vụ những người cùng bàn với mục đích giúp cho khách ăn ngon miệng. Vì thế, họ thường kể cho nhau nghe những chuyện vui, bông đùa…, đến lượt Đức Giêsu, Ngài không kể chuyện tiếu lâm hay một vài mẩu chuyện vui như những người đồng bàn đã làm, nhưng Ngài quan sát và thấy người ta đi dự tiệc lại cứ thích ngồi chỗ nhất, chỗ danh dự, nên Đức Giêsu đã tập trú vào đề tài khiêm tốn khi được mời đi dự tiệc (x. Lc 12,7-11). Đây là một đề tài khiến cho những người dự tiệc hôm ấy nhức óc vì họ thường “đánh lận con đen” giả bộ khiêm nhường hoặc đòi được trọng vọng nơi đám đông.
Khởi đi từ sự quan sát, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho người này’. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết”. Câu nói này của Đức Giêsu đã soáy sâu vào tận trái tim của những người dự tiệc hôm ấy, và Ngài đã lật tẩy mặt nạ giả bộ giả hình của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói.
Tiếp theo, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn cho tất cả mọi người khi được mời đi dự tiệc: “Khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: ‘Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc”. Đây là quy luật tất yếu trong cuộc sống: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
“Nâng lên” và “hạ xuống” là hai động từ trái ngược nhau. “Nâng lên” chính là muốn khẳng định mình; tự coi mình là nhất. Đây là hành vi của những kẻ kiêu ngạo, mà kiêu ngạo là đầu mối sinh ra những tội khác như: “Hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh” (x. GLHTCG. số 1866).
Những người kiêu ngạo thường không biết mình, không biết những giới hạn của mình, họ thường coi mình là “cái rốn vũ trụ”, coi mình là “number one”, là “đệ nhất đế vương…”.
Còn “hạ xuống” là thái độ của người khiêm nhường. Khiêm nhường là khiêm tốn nhìn nhận mình còn thiếu, còn bất toàn để vươn lên, còn yếu đuối để sám hối. Khiêm nhường còn là đón nhận sự thật và lấy sự thật làm căn gốc. Chấp nhận “tôi” là “tôi” với đầy đủ những mặt mạnh và mặt yếu của mình.
Người khiêm nhường thật là người luôn sống trong tinh thần tự hủy, coi mình không là gì cả. Khi bị xúc phạm, họ vẫn cảm thấy thanh thản, khi được khen, họ luôn tạ ơn Chúa và không có thái độ vênh vang tự đắc. Họ coi mọi sự mình có là do Chúa ban cho nên không hề có thái độ khinh khi những người thấp kém hơn mình.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho mỗi chúng ta một bài học căn bản trong cuộc sống chính là sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, ta không thể gặp được Chúa. Môsê muốn gặp Chúa, ông phải cởi dép ra, phải trở về với sự trần trụi của mình khi đến trước nhan Chúa; Giakêu muốn được Chúa vào nhà thì ông phải tụt xuống khỏi cây sung; Phêrô và Phaolô muốn trở thành bạn hữu của Chúa và trở thành những kẻ “chung phần” với Thầy thì các ông phải khiêm tốn và vứt bỏ những thanh gươm kiêu ngạo, tự phụ và hiếu thắng của mình.
Thật vậy, trong đời sống gia đình, nếu vợ chồng, con cái không có thái độ khiêm nhường, chúng ta không thể đón nhận được sự khác biệt của nhau, không biết lắng nghe nhau, không thông cảm và tôn trọng nhau. Như thế, mỗi người sẽ là một hòn đảo, và một con chim én không thể làm nên một mùa xuân.
Trong cuộc họp, ai cũng thi nhau nói và ai cũng bảo vệ lập trường của mình, cho dù biết đó là điều sai, thì cuộc họp ấy thất bại và gây thêm chia rẽ.
Trên giảng đường, và trong trường đời, nếu ta bảo thủ và cho rằng chúng ta biết hết mọi sự và không cần lắng nghe, học hỏi…ấy là lúc ta đang tụt hậu mà không biết, ta đang trong tình trạng “ếch ngồi đáy giếng” mà chẳng hay!
Thật vậy, nhìn ra xã hội hôm nay, chúng ta thấy nhiều người luôn có khuynh hướng “chơi trội”. Nếu người khác có nhà một tầng, ta phải hai tầng; người khác có xe, ta phải có xe tốt hơn; chức tước và học vị cũng là những điều con người thời nay thường khẳng định…thái độ đó cho thấy ta không chịu thua kém người khác. Nhưng có ít ai thấy rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ trở về “sắc sắc, không không” trước mặt Chúa?
Tóm lại, khiêm nhường chính là cái gốc, là nền móng của chúng ta. Có được điều đó, ta sẽ xây dựng được sự chân thành; tình huynh đệ; sự hiệp nhất; lòng bao dung và sự tôn trọng. Hơn nữa, có được đức khiêm nhường là ta đang trở nên giống Chúa, đang được ở trong mối tương quan nghĩa thiết với Ngài.
Mong thay hình ảnh kiêu ngạo của Adong, Eva; những người xây tháp Baben và những khách được mời dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay là bài học cho chúng ta nếu chúng ta đang là những người tự phụ, kiêu căng và đang đi tìm những danh vọng ảo tưởng ở đời này…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết học cùng Chúa vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.
——————————————————
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
DỰ TIỆC VÀ ĐÃI TIỆC – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu được thủ lãnh nhóm Pharisiêu mời dùng tiệc. Nhân bối cảnh bữa tiệc Chúa Giêsu dạy hai bài học: khi được mời dự tiệc và khi đứng ra đãi tiệc.
- Khi được mời dự tiệc.
Được mời dùng bữa, Đức Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi chỗ nhất. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn mà vì chỗ đó danh dự hơn. Chỗ ngồi là danh dự. Những người Pharisêu là những người rất mộ đạo, và tự coi mình là những người gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ tranh giành những chỗ ngồi danh dự. Điều đó cho thấy, thực ra họ rất tự mãn, phù phiếm và ích kỷ. Họ không ở đó để làm vinh dự cho chủ nhà nhưng để làm vinh dự cho chính họ.
Chỗ ngồi và người ngồi cái nào quan trọng hơn ? Có câu chuyện kể về một người chủ nhà mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách đến dự có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối và nói rằng ông muốn ngồi chung với những người bình dân nghèo hèn. Sau Daniel còn có nhiều khách lần lượt đến. Ai cũng giành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Chỉ có cái bàn tận cuối cùng, bàn của Daniel đang ngồi là còn trống chỗ. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất kỳ bàn nào khác nên chủ nhà buộc lòng mời ông thị trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với bàn của Daniel. Vị thị trưởng thắc mắc: nhưng đây là bàn cuối cùng mà ! Chủ nhà nhanh trí đáp: thưa không, đây là bàn danh dự vì là bàn có ông Daniel đang ngồi. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ. Ý nghĩa câu chuyện là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự, ngược lại, chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
Phần lớn, những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisiêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi ghế bên tả, bên hữu Đức Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội vì ông sợ mất ghế.
Bài Phúc Âm cho thấy, ai cũng muốn ngồi chỗ nhất nên chỗ nhất thiếu chỗ, có những bậc vị vọng đành phải ngồi xuống chỗ dưới. Có lẽ Đức Giêsu không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm nên đã tự động ngồi vào ghế chót.Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những vị khách không mấy quan trọng xuống khỏi chỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giêsu lên chỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói. Nhân hoàn cảnh đó, Đức Giêsu dạy bài học cách sống khiêm tốn: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Không có đời sống tâm linh chân thật nếu không có sự khiêm nhường.
Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật là xấu hổ.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên, coi thường mình hay sợ người khác, rụt rè không dám nhận trách nhiệm. Khiêm tốn là biết mình đã nhận được tất cả từ Chúa và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân. Bài đọc 1 ca ngợi đức khiêm tốn. Sự hiền hoà và khiêm tốn là nhân đức căn bản và quý giá của con người. Nhờ khiêm tốn, con người khám phá được sự cao trọng của Thiên Chúa và mở ngõ cho con người đi vào sự khôn ngoan. Lời dạy này là kết tinh của kinh nghiệm biết bao bậc hiền triết khôn ngoan từ thuở xưa. Chính Chúa Giêsu cũng lấy đức khiêm tốn làm một trong các mối phúc của bài giảng trên núi và mời gọi mọi người hãy học cùng Người là Đấng hiền lành và khiêm tốn trong lòng. Ai sống hiền lành và khiêm tốn thì được nghĩa trước mặt Chúa và được mọi người yêu mến.
Ngày nay, khiêm nhường thường bị người đời coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược. Trái lại Thiên Chúa nâng cao những ai khiên nhường. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôi nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.
- Khi đứng ra đãi tiệc
Người ta dễ đánh giá người khác dựa trên chiếc ghế của họ. Thật ra, một người quét đường có lương tâm lại có giá trị gấp nhiều lần một giám đốc tham ô lãng phí. Người ta thường thích giao lưu với những người có thế giá, có học thức, có của cải để dễ nhờ vả khi cần. Nhưng Đức Giêsu khuyên rằng: khi mời tiệc nên mời những người nghèo khó, tật nguyền. Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Ngài dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp. Như thế Đức Giêsu mong muốn người tín hữu vượt qua óc tính toán vụ lợi để yêu thương phục vụ những người bất hạnh.
Đức Giêsu muốn minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Đức Giêsu muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời, Thiên Chúa đã dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc. “Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-54). Quyền thế trần gian đối với Thiên Chúa chỉ là yếu hèn. Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho người yếu đuối.
Chúa Giêsu dạy bài học khiêm nhường và bác ái, bài học về cách dự tiệc và cách đãi tiệc. Đó là bài học về những cách sống trong cuộc đời. Lời Chúa dạy xem ra đảo lộn mọi trật tự xã hội trần thế. Nhưng sống Tin mừng luôn là lội ngược dòng và Thiên Chúa luôn đứng về phía những người khiêm nhường, những người thấp hèn trong địa vị xã hội, những người bị áp bức bất công. Sống khiêm nhường và yêu thương người nghèo là con đường đi đến Nước Trời. Người tín hữu đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để kín múc tận nguồn sự khiêm hạ trong tình yêu.
—————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CON ĐƯỜNG KHIÊM NHƯỜNG- Trích Logos Năm C
Họa sỹ cũng là nhà điêu khắc thiên tài Leonardo da Vinci đã vẽ bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly trong vòng 7 năm. Đó là bức tranh vẽ Chúa Giêsu và 12 Tông đồ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị bắt và bị giết chết.
Leonardo tìm người mẫu rất công phu. Giữa hàng ngàn thanh niên, ông mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện và thanh khiết tuyệt vời làm mẫu vẽ Chúa Giêsu.
Sáu năm tiếp theo ông lần lượt vẽ xong 11 Tông đồ, chỉ còn có Giuđa người môn đồ phản Thầy là chưa vẽ. Họa sỹ bỏ nhiều công sức để tìm một người đàn ông có khuôn mặt cực kỳ gian ác để vẽ Giuđa. Cuối cùng ông đã tìm được tên tử tội ở Rôma có khuôn mặt thích hợp để vẽ kẻ phản bội. Người tử tù này đã từng giết người và cướp của. Được phép của Hoàng đế, tên tử tội được đưa tới Milan nơi bức tranh đang vẽ dở dang.
Khi nét vẽ cuối cùng được hoàn thành, Leonardo bảo người lính gác mang người tử tù đi, nhưng bỗng nhiên hắn vùng vẫy và quỳ xuống bên người họa sỹ khóc nức nở : “Ôi, ngài Da Vinci, ngài không nhận ra tôi sao ? tôi chính là người mà 7 năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Chúa Giêsu !”
Quả thật, chỉ có 7 năm thôi mà cuộc sống tội lỗi đã làm biến đổi một người có khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giêsu trở thành người mang gương mặt xấu xa của Giuđa ! Đó là sự đảo ngược kỳ lạ xảy ra ở bức tranh “Bữa Tiệc Ly”. Nhưng trong chính bữa tiệc ly có một sự đảo ngược còn kỳ lạ hơn nữa : Chúa Giêsu, “người chủ tiệc” đã trở thành “người phục vu” khi quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Phải chăng đó chính là định luật của Nước Trời : “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên”. Đó cũng là bài học khiêm tốn Chúa Giêsu dạy mọi người trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay.
Chúa Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh các người biệt phái. Trước bao con mắt đang dò xét, Chúa Giêsu nhận thấy khách mời thích chọn những chỗ ngồi quan trọng trong bàn tiệc, Ngài dạy họ bài học khiêm nhường : Hãy chọn chỗ rốt hết để được mời lên chỗ cao hơn. Chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị trong xã hội. Người ta chọn vị trí quan trọng trong bàn tiệc không phải để được ăn ngon, nhưng để được vinh dự hơn. Vì thế, người ta luôn thích ngồi ở những vị trí quan trọng ở những nơi đông người để thỏa mãn lòng tự tôn của mình. Nhưng Chúa đã nói : “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Con đường tự hạ của Chúa Giêsu
Mặc dù là một Thiên Chúa cao cả, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình xuống đến tận cùng, mang lấy kiếp phàm nhân, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chính cuộc đời của Chúa Giêsu là bài ca của người Tôi Tớ khiêm hạ : “Ngài vốn là một Thiên Chúa, nhưng không nghĩ đến việc giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống người phàm, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Nhưng Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Phil 2, 1-9).
Chúa Giêsu đã hạ mình xuống như một người nô lệ thấp hèn để dạy cho các môn đệ một bài học của sự tự hạ. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của mình. Từ “chỗ nhất” trên trời cao, Ngài đã chọn “chỗ cuối” dưới chân con người để phục vụ con người. Đó là bài học Chúa dạy chúng ta hôm nay : “Các con hãy biết rửa chân cho nhau” (Ga 13, 1-15).
Đi theo con đường tự hạ của Chúa Giêsu.
Chúng ta được mời gọi để đi theo Chúa, đi vào con đường khiêm nhường thẳm sâu, con đường hy sinh đến tận cùng, con đường phục vụ quên mình.
Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn cho mình vị trí cuối cùng trong bữa tiệc cuộc đời để chúng ta sẽ được Thiên Chúa mời lên chỗ cao trọng trong bữa tiệc Nước Trời mai sau.
Bằng những lời khuyên nhủ khôn ngoan, bài trích sách Huấn Ca hôm nay cũng chỉ cho chúng ta thấy con đường khiêm tốn là con đường đẹp đẽ được mọi người quý chuộng và được Thiên Chúa mến yêu. Còn sự kiêu ngạo là con đường dẫn đến tai họa và diệt vong.
Con đường khiêm hạ còn là con đường phục vụ vô vị lợi. Chúa dạy khi mời khách dự tiệc hãy mời những người nghèo khó vì họ không có gì để trả lễ. Chúa muốn dạy chúng ta tinh thần phục vụ vô vị lợi, phục vụ mà không mong được đền đáp, phục vụ trong âm thầm và khiêm tốn.
Những “chiếc ghế” trong cuộc sống
Ai cũng mong tìm cho mình một “chiếc ghế” vững vàng trong cuộc đời. “Chiếc ghế” tượng trưng cho địa vị hay chức vụ trong cuộc sống xã hội. “Chiếc ghế” còn là biểu tượng của quyền lực và sự giàu có trong cuộc sống con người. Người ta sẵn sàng hãm hại nhau để tranh giành “chiếc ghế” trong xã hội. Người ta cũng sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn và mưu đồ đen tối để củng cố “chiếc ghế” của mình thêm vững chắc. Người ta cũng sẵn sàng bán rẻ lương tâm để giữ vững “chiếc ghế” của chức quyền và tham vọng.
Nhưng Chúa Giêsu đã dạy cho mọi người bài học của tinh thần khiêm nhường khi Ngài rời bỏ “chiếc ghế” của người thầy trong bữa tiệc ly để đi làm công việc của một người nô lệ. Ngài đã từ “ngai tòa” của một Thiên Chúa cao sang đến với nhân loại qua con đường nhập thể khiêm hạ để cứu chuộc con người. Hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi chúng ta đi tiếp con đường khiêm nhường ấy để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Qua con đường “tự huỷ”, Ngài đã được Thiên Chúa Cha siêu tôn trong vinh quang. Cũng vậy, qua con đường phục vụ khiêm nhường, chúng ta cũng được nâng lên trong vinh quang muôn thuở.
Trên con đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên 2 con dê quá bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực sâu và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách : một con đã quỳ mọp xuống sát đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng lại có thể tiếp tục con đường của mình.
Trên những “lối mòn” của cuộc sống, nếu chúng ta biết cúi xuống để phục vụ anh em trong tinh thần khiêm tốn chính là chúng ta đang đi trên con đường đẹp nhất, con đường dẫn đến hạnh phúc muôn đời.


































