CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN.. 2
AI NẤY SẼ VUI MỪNG- Chú giải của Noel Quesson. 7
XIN CHUNG VUI VỚI TÔI– Chú giải của Fiches Dominicales. 13
BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA- Lm PX Vũ Phan Long, ofm 18
NIỀM VUI LỚN LAO TRÊN TRỜI– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*) 30
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 45
LÒNG NHÂN TỪ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 49
THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 60
THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ ĐỢI CHỜ- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 76
YÊU THƯƠNG, THA THỨ LÀ BẢN CHẤT CỦA THIÊN CHÚA- Jos.Vinc. Ngọc Biển 80
HÃY CHIA VUI VỚI TÔI- Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 87
TÌNH CHÚA XÓT THƯƠNG- Trích Logos năm C. 95
LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm Phê rô Trần Thanh Sơn. 99
————————————–
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN
BÀI ĐỌC I: Xh 32, 7-11. 13-14
“Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người”.
Bài trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: “Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: “Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập”. Chúa phán cùng Môsê: “Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại”. Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: “Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: “Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời. Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi”. Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 50, 3-4. 12-13. 17 và 19
Đáp: Tôi sẽ chỗi dậy và đi về cùng cha tôi (Lc 15, 18).
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.
2) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
3) Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung.
BÀI ĐỌC II: 1 Tm 1, 12-17
“Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian để cứu độ những người tội lỗi”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Cha cảm tạ Đấng đã ban sức mạnh cho cha là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin. Nhưng ân sủng của Chúa chúng ta đã tràn lan dồi dào cùng với đức tin và đức mến trong Đức Giêsu Kitô.
Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là: Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất. Vì thế, cha được hưởng nhờ ơn thương xót, là Đức Giêsu Kitô tỏ ra tất cả lòng khoan dung trong cha trước hết, để nêu gương cho những ai sẽ tin vào Người hầu được sống đời đời.
Danh dự và vinh quang (xin dâng về) Thiên Chúa độc nhất, hằng sống, vô hình, là Vua muôn đời. Amen!
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
All. All. – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – All.
PHÚC ÂM: Lc 15, 1-32
“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!” Cũng vậy, Tôi bảo các ông: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải. “Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: ‘Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất’. Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”. Người lại phán rằng: “Người kia có hai con trai. Đứa em đến thưa cha rằng: ‘Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con’. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó muốn hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha’. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa’. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: ‘Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình. “Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: ‘Đó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ’. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: ‘Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó’. “Nhưng người cha bảo: ‘Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’”.
Đó là lời Chúa.
——————————————–
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
AI NẤY SẼ VUI MỪNG- Chú giải của Noel Quesson
Tin Mừng hôm nay, nếu đọc đầy đủ, gồm “ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu, mà Luca đã tập họp trong chương 15: *1. Con chiên bị mất và tìm lại được *2. Đồng bạc bị đánh mất và tìm lại được *3. Đứa con đi mất và trở về. Ba dụ ngôn này được xây dựng trên cùng một sơ đồ và đạt đỉnh cao trong dụ ngôn thứ ba mà nhan đề truyền thống là “dụ ngôn đứa con hoang đàng”. Tuy nhiên, vì dụ ngôn thứ ba này đã được suy gẫm vào Chúa nhật IV Mùa Chay của cùng năm Phụng vụ này, nên hôm nay chúng ta chỉ cần chú giải hai dụ ngôn đầu.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.
“Ông này đón tiếp phường tội lỗi, đó là một định nghĩa về Chúa Giêsu, đồng thời cũng là một mạc khải của Thiên Chúa!”. “Ai thấy tôi là thấy cha tôi” (Ga 14,9).
Những người Pharisêu và các kinh sư là những người rất được trọng vọng. Họ thật sự bị sỉ nhục vì Đức Giêsu thường tiếp phường tội lỗi. Phần chúng ta, chúng ta có thể hoàn toàn bỏ qua khía cạnh “Tin Mừng” của ngày hôm nay, nếu chúng ta không nhận ra rằng bài Tin Mừng này cũng vì chúng ta. Phải chăng chúng ta là những người nói rằng: “Tôi không làm gì xấu, tôi là một người tử tế, tôi không có tội”.
Tuy nhiên, trong phần thư của Thánh Phaolô mà chúng ta đọc hôm nay, thánh nhân lặp lại với chúng ta: “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Timôtê I,15). Phụng vụ ngày Chúa nhật đầy rẫy thực tại “cứu độ” “tội lỗi được tha thứ”. Chúng ta có đem lại một nội dung cụ thể cho các từ đó? Chúng ta có thuộc phái Pharisêu chỉ nhìn thấy tội lỗi. Trong những người khác? Trước khi đi xa hơn trong sự suy niệm của tôi, tôi cần phải bình tâm và sáng suốt nhận thực rằng tôi là kẻ tội lỗi” khi nhớ đến những thiếu sót mà tôi phạm phải trong đời tôi.
Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang để tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”
Đức Giêsu hỏi. Người kêu gọi kinh nghiệm của các cử tọa, các ông nghĩ gì? Các ông sẽ làm gì? Thật ra, không một mục đồng nào chịu mất dù chỉ một con chiên, nhưng lo lắng để tìm lại nó.
Các triết gia đã biến Thiên Chúa thành một ý niệm vững chắc: Một hữu thể bất động, không hề thay đổi… Còn ở đây chúng ta đứng trước một Thiên Chúa “chuyển động”, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái mà Người đã mất? Và Đức Giệsu đặt trước mắt – chúng ta các cậu mục đồng vùng đồi núi Galilê đang chạy hết tốc độ, chân trần trên sỏi đá để tìm lại một con chiên đi lạc khỏi đàn. Chúng ta đoán được sự ngoan cường của các cậu trai ấy, “tìm kiếm cho tới khi nào tìm thấy!”
Thiên Chúa là như thế…
Không bao giờ có người nào bị Thiên Chúa bỏ rơi.
Không bao giờ có người nào “bị mất” hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương người ấy không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về. Người ra đi tìm họ.
Chúng ta còn phải chiêm niệm lâu dài Thiên Chúa đó, Đấng mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Khi người ta yêu thương, thì số học không còn như cũ. Lúc đó, có thể đặt dấu bằng (=) ở giữa số 1 và số 99. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi phụ nữ có một giá trị độc nhất, vô giá. Tôi nhìn thấy con chiên độc nhất ấy đã bò trốn hoặc đã bị mất. Đó là con chiên chiếm hết ý nghĩ của cậu mục đồng. Và xem ra chỉ có nó mới là đáng kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai đã bỏ rơi Người, một Thiên Chúa yêu mến những ai không yêu mến Người, một Thiên Chúa đau khổ chỉ vì một trong số các con chiên của Người làm Người lo lắng.
Đôi khi, tôi chẳng phải là con chiên đó sao? Và, xung quanh tôi, như ông nọ, bà kia, cô X…, ông Y… không người nào bị bỏ rơi. Thiên Chúa đang tìm kiếm họ.
“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai…”
Đây là một hình ảnh kỳ diệu, một trong những tranh thánh đã thể hiện Đức Giêsu như thế ngay từ những thế kỷ đầu: Một người chăn chiên sung sướng, tươi cười, vác trên vai một con chiên. Trong nội tâm mình, chúng ta còn phải chiêm niệm hình ảnh ấy của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã có một sự quan sát rất tinh tế với chi tiết đơn giản đó: “vác con chiên trên đôi vai”, khi một con chiên đi lang thang nhiều giờ hoặc nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó thời. Và một con chiên nặng đấy? Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi nhiều sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời… Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc? Nhưng, Đức Giêsu nói, hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.
Chính Thiên Chúa được giới thiệu với chúng ta như thế! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Kinh thánh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “Người chăn chiên” (Isaia 40,11; 49,10 v.v…). Và mỗi Kitô hữu thỉnh thoảng phải đọc lại Thánh Vịnh 26 tuyệt vời: “Chúa là đấng chăn dắt tôi, tôi không thiếu thốn chi”.
“Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”.
Niềm vui của người chăn chiên rất mạnh mẽ nên người ấy không thể, giữ lại cho một mình mình. “Xin chung vui với Ta” Thiên Chúa nói. Vậy giờ đây Thiên Chúa là hữu thể đang vui mừng và chia sẻ nềm vui. Chúng ta hoàn toàn khác với các người Pharisêu và kinh sư hay càu nhàu, bẳn gắt!
Vậy tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Thiên Chúa vui mừng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Thiên Chúa vui mừng để cứu độ, vì Người không biết kết án ai. Trên trời có niềm vui! Vậy khi nào? Mỗi lần một kẻ tội lỗi hoán cải. Chỉ một thôi ư! Mỗi lần mà sự ác lùi lại một chút trên mặt đất.
Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà moi móc tìm cho kỳ được?
Luca, vốn rất quan tâm đến các phụ nữ là người duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn đầy “nữ tính” này, để nói lại với chúng ta cùng một sự việc dưới một hình ảnh bổ sung. Sự lặp lại này không đơn thuần là một minh họa mới: Đức Giêsu nhấn mạnh, như để nói với chúng ta rằng điều Người vừa mới mạc khải không phải là một sự nói quá hoặc một sự nhầm lẫn ngẫu nhiên. Tình yêu phi thường của Thiên Chúa được tái xác nhận ở đây.
Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất”.
Vậy giờ đây một niềm vui rất đơn sơ được chia sẻ giữa những Người phận nhỏ. Đây cũng là một sự quan sát cụ thể của Đức Giêsu. Người phụ nữ được đưa lên sân khấu này là một Người nghèo: Bà không sở hữu “một trăm con chiên”, bà chỉ có mười “đồng quan “! Đồng quan này chỉ số tiền lương trung bình một ngày công nông nghiệp (Mt 20;2). Vì thế không phải là gia tài to lớn gì mà bà đã tìm lại được Nhưng bà cũng muốn chia sẻ niềm vui. Thiên Chúa là như thế đó. Chúng ta còn chưa hiểu đủ bầu khí vui mừng xuất phát từ tấm lòng của Thiên Chúa nằm rải rác khắp nơi trong toàn bộ Tin Mừng như một “Tin Mừng”, và niềm vui ấy muốn tràn ngập nhân loại được “cứu thoát”.
“Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.
Hình ảnh này rất đẹp. Không nên cụ thể hóa nó. Có một cuộc lễ trên thiên giới. Niềm vui của Thiên Chúa lan truyền và trở thành niềm vui của các thiên thần.
Tất cả lễ hội hân hoan này chỉ vì sự hối cải của một người tội lỗi?
Tư tưởng Kitô giáo, phản ánh tư tưởng của Đức Giêsu đầy sự tinh tế. Phải nhấn mạnh rằng, không hề có một sự làm hại thanh danh với “tội lỗi” trong thái độ đó. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt và không chút mơ hồ. Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối (Máccô 1,15). Và nếu các dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe là một lời rao giảng về tình yêu Thiên Chúa thì chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội lỗi. Nhưng điều được nói ở đây một cách mạnh mẽ là luôn luôn Thiên Chúa có sáng kiến “đi tìm” điều đã bị mất. ‘Tình yêu cốt ở điều này; không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,10 -19).
Chúng ta có để Thiên Chúa yêu thương chúng ta không? Chúng ta có mang lại niềm vui cho Thiên Chúa không? Và có bước vào trong niềm vui của Thiên Chúa không? Cần phải đọc lại phần kế tiếp là dụ ngôn về đứa con hoang đàng, trong Chúa nhật IV Mùa Chay.
———————————————
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
XIN CHUNG VUI VỚI TÔI– Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Bữa ăn chung với kẻ tội lỗi
Ở đây chúng ta chỉ nhắc qua bối cảnh là một cuộc tranh luận, và tập trung chú ý vào lời mời gọi hãy chung vui vì tìm lại được những gì đã mất, được ghi lại trong cả ba dụ ngôn.
Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ phải đổ máu để cứu muôn người. Nhiều “người thu thuế và tội lỗi, đến để nghe Người giảng. Những người Biệt phái và kinh sư thì khó chịu “xầm xì với nhau” chống lại Người bởi vì không chỉ “đón tiếp phường tội lỗi”, Đức Giêsu còn “ăn uống đồng bàn với chúng”, một hành động tỏ ra cùng phe với bọn chúng!
Để trả lời, Đức Giêsu nói với họ ba dụ ngôn rất hay về lòng thương xót, làm thành chương 15 của Tin Mừng Luca. Để biện minh cho cách đối xử của mình, Đức Giêsu nêu lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi. Qua những lời Người nói và các việc Người làm, từng là cớ vấp phạm cho đối phương, Người cho thấy lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đang được thể hiện và hoạt động. Và “tình yêu ấy của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai chúng được yêu và cũng chúng đáng yêu, gián tiếp lên án sự cứng cỏi và khắc nghiệt mà những con người “đàng hoàng” hơn kia đã đối xử với họ” (Cousin, L’Evangile de Luc, Centurion, trg 211).
2. Lời mời gọi chung vui
Cả ba dụ ngôn đều nêu bật sáng kiến của Thiên Chúa, Đấng đi bước trước trong việc tìm kiếm tội nhân (hai dụ ngôn đầu) và đã “chạy ra” đón đứa con hoang trở về dụ ngôn thứ ba. Tuy nhiên đỉnh cao của mỗi dụ ngôn đều nằm ở lời mời gọi hãy chung vui vì đã tìm lại được: Niềm vui của người “chăn chiên” vác “con chiên lạc đã được tìm thấy” trên vai. Mời gọi bạn bè và hàng xóm đến chia sẻ: “xin chung vui với tôi!”.
Niềm vui của “người phụ nữ” tìm lại được “đồng bạc đã đánh mất”, mời gọi bạn bè và chị em xóm giềng đến chia sẻ: “xin chung vui với tôi!”.
Niềm vui của “người cha” khi đứa con trở về, “đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”, mời gọi người con cả cố chấp của mình cùng chia sẻ: “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ!”.
Roland Meynet nhận định, “Những người Pharisêu và các kinh sư, coi thái độ xử sự của Đức Giêsu như một hành dộng phản lại họ. Bởi vì đón tiếp những kẻ tội lỗi cũng có nghĩa là bỏ rơi những người công chính, là để mặc những con chiên ngoan ngoài hoang địa. Như vậy, chính những người này đã tự tách riêng mình ra, đứng ngoài bữa tiệc vui của Đức Giêsu và những kẻ tội lỗi ăn năn trở lại niềm vui của người khác làm gai mắt họ, trong khi chính họ cũng được mời đến tham dự cuộc vui đoàn tụ của tất cả mọi người. Họ không hiểu rằng niềm vui đoàn tụ không chỉ riêng của con chiên lạc với chủ nó mà thôi, nhưng còn là niềm vui đoàn tụ chung của tất cả các con chiên với nhau, của con chiên lạc với 99 con kia, trong cùng một chuồng chiên, dưới cùng một chiếc gậy chăn của một chủ chiên duy nhất. Niềm vui còn phải được nới rộng ra đến mọi người hàng xóm và bạn bè, nếu không nó sẽ không trọn vẹn. Sẽ không thể có niềm vui đoàn tụ đích thực nếu có ai đó còn đứng ngoài. Tất cả đều được mời, và vòng tròn tham dự còn rộng mở đến tận trời cao, đến các thiên thần của Thiên Chúa. Như vậy làm sao tự cho phép mình đứng ngoài và tự tách rời khỏi cuộc hoà giải của tất cả? Từ chối chung vui với Đức Giêsu, không chia sẻ niềm vui của ơn tha thứ được trao ban và đón nhận, chính là khước từ niềm vui Nước Trời, là xầm xì chống lại Thiên Chúa” (L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhélorique, tập 2, Cerf, trg 161-162).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Niềm vui cho tất cả.
(G. Bessière, trong “Diêu siproche. Année C”, Desclée de
Brouwer, trg 146-147)
“Một xã hội đang bị câu thúc. Nhiều phe cánh kình chống nhau. Cả một mớ những lời lẽ và ánh mắt thô tục. Ở giữa đó, hiện lên một khuôn mặt, đó là Đức Giêsu. Con người ấy đã dám đánh đổ mọi phe phái đạo đức và tôn giáo của đất nước mình. Thử tưởng tượng xem: “ông ta đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Tất cả bọn chúng tuôn đến để nghe ông ta. Trong lúc phía bên kia là những phần tử ưu tú trong dân về mặt trí thức, nhân đức và lòng đạo: nhóm Pharisêu và các kinh sư, những đấng bậc khả kính, những con người đủ tư cách sửa dạy người khác…
Sự thinh lặng được phá vỡ. Và đây con người lạ lùng kia, với biệt tài vô song, lên tiếng kể chuyện. Có ai ngờ được rằng suốt hai ngàn năm, và còn mãi về sau, người ta vẫn còn ngồi lại thuật cho nhau nghe những câu chuyện đó, và chúng sẽ mãi mãi là những gì quí báu nhất còn ghi lại trong ký ức của nhân loại.
Con chiên bị mất, không hề có chi tiết nào nói nó kêu be be, để gọi chủ. Nó chẳng có công gì xứng đáng để được chủ vác lên vai. Mọi sự đều phát xuất từ người chăn chiên mà ‘niềm vui trong tim’ cứ muốn tràn sang đến tất cả. Và cả cõi thiên đình chẳng quan tâm bao nhiêu tới trật tự tốt đẹp nơi bầy chiên ngoan, lại tỏ ra vui mừng rộn ràng khi có một con người biết chỗi dậy và bắt đầu cuộc sống mới? Còn việc trở về của thằng con phung phá, ăn chơi và hư đốn? Tới bước đường cùng hắn mới chịu “hồi tâm suy nghĩ”: dù có cố tìm một lời lẽ gì đó để nói khi về đến nhà, thì chẳng qua chỉ vì đói nên hắn mới chịu mò về đó thôi. Cũng thế, tất cả đều khởi động từ cõi lòng người cha, “trông thấy con từ xa, ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để”. Thằng con có ráng ấp úng bài diễn văn tạ tội đã dọn sẵn trong đầu cũng vô ích thôi, bởi lúc này ai nấy đang tưng bừng chuẩn bị dọn tiệc ăn mừng. Có cả tiếng ca tiếng đàn nữa! Chắc chắn rồi. Đối diện trước cả hai cánh tốt xấu trên của nhân loại, Đức Giêsu tuyên bố mọi sáng kiến của Người dành cho những kẻ bị loại trừ, bị khinh miệt và tất cả những người tật nguyền về mặt tinh thần, đều là những sáng kiến của chính Đấng được tung hô ba lần Thánh. Người là Mục Tử của Israel, là Cha của dân tộc, là người đã chạy đi tìm con chiên lạc và ra đón đứa con hoang trở về.
Thiên Chúa, mà người nhân đức thánh thiện tưởng mình độc quyền sở hữu, kẻ tội lỗi thì nghĩ mình đã quá xa rời, chính Người đã lật đổ mọi thứ học thuyết và mọi lề lối sống đạo có sẵn. Chúng ta có thực sự tin rằng nơi vị Thiên Chúa ấy có tình yêu mãnh liệt, khiến Người luôn mơ đến một thế giới trong đó mọi người đều là anh em, và làm dậy lên trong Người một niềm vui mong được chia sẻ với tất cả?”.
2. Khuôn mặt thật của Thiên Chúa. (“Missel Emmaus des Dimanches”, trg 1105).
“Thiên Chúa! Đấng chúng ta muốn là quan toà kết tội người khác, nhất là những kẻ thù nghịch, trong lúc chúng ta lại xin Người tỏ lòng nhân từ với chính mình: phải chăng đó là chuyện “hoàn toàn tự nhiên?”.
Do suy nghĩ như vậy, nên giữa chúng ta vẫn xảy ra thói xét đoán lẫn nhau, lên án lẫn nhau.
Thiên Chúa chúng ta mơ tưởng đó thực ra chỉ là một ngẫu tượng do chúng ta nhào nặn ra và nhằm phục vụ lợi ích của bản thân. Đó không phải là Thiên Chúa thật. Phải, Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi xua tan đi lớp mây mù do trí khôn loài người bày ra che phủ khuôn mặt thật của Người. Tuy nhiên chỉ những ai nhận ra tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, và những ai để cho ân sủng ấy chiếm hết đời mình, đồng thời phản chiếu ra bên ngoài qua cách ăn ở với mọi người xung quanh. Chỉ những người như vậy mới cảm nghiệm được khuôn mặt thật của Thiên Chúa. Ích kỷ chỉ biết đến mình là điều ai nấy đều không thể chấp nhận cho dù đó là những con người “ngoan đạo” nhất!
———————————–
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA- Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của TM Lc (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, có đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu.
Sau khi đã giáo huấn đám đông về những điều kiện để làm môn đệ Ngươi (14,25-35), bây giờ Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn mà ngỏ lời với các người Pharisêu và các kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc Ngươi khi Ngươi tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với những người ấy.
Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên bị lạc mất [cc. 4-7], đồng bạc bị đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc. 11-32]) đã được gọi là “trái tim của Tin Mừng III” (Romaroson), vì được kết cấu rất nghệ thuật để nêu bật được đề tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và lòng thương xót đối với những kẻ tội lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.
Hai dụ ngôn đầu nói về việc tìm được cái đã mất, dụ ngôn thứ ba cũng triển khai cùng một đề tài, nhưng như một tổng hợp với những hình ảnh được vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được gọi là “Dụ ngôn đứa con hoang đàng”, nhưng gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để tương ứng với hai đầu đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là “Dụ ngôn người con hư mất”, nhưng nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ ngôn trước, nhân vật chính là người mục tử và người phụ nữ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần
1) Một dẫn nhập (15,1-3);
2) Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (15,4-32):
a) Dụ ngôn Con chiên bị lạc mất và được tìm thấy (cc. 4-7);
b) Dụ ngôn Đồng bạc bị đánh mất và được tìm thấy (cc. 8-10);
c) Dụ ngôn Người con hư mất và được tìm thấy (cc. 11-32).
3.- Vài điểm chú giải
– Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi (1): Đây là những người ở bên lề xã hội Do Thái, những kẻ vô đạo, sống vô luân. Họ đến nghe Đức Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả (3,12-13). Tác giả Luca đã nói quá khi dùng từ ngữ “tất cả”, nhưng mục đích là cho thấy chiều hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của Đức Giêsu: Người đến để tìm và cứu những gì đã mất, nghĩa là tất cả.
– lẩm bẩm (2): Cũng như ở 5,30 và sau này ở 19,7, thì vị hồn (imperfect) cho hiểu đây là thái độ thường xuyên của người Pharisêu và các kinh sư.
– ông này (2): Đại từ chỉ định houtos có nghĩa xấu: “tên này”.
– Người nào trong các ông có một trăm con chiên (4): Đây là một mục tử vô danh, được dùng như biểu tượng của Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót (xem Cựu Ước: Tv 23,1-3; Ed 34,11-16).
– hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn (7): Nếu chín mươi chín người này là các kinh sư và người Pharisêu, thì câu kết này có giọng mỉa mai. Nhưng rất có thể đây chỉ là cách tác giả Lc phóng đại niềm vui của Thiên Chúa khi có một người tội lỗi hối cải.
– mười đồng bạc (10): Đồng drachmê là đồng bạc cổ. Chúng ta khó biết giá trị chính xác của đồng bạc này. Có một thời người ta có thể dùng một đồng drachmê mà mua được một con chiên, hoặc được nhận như lương làm việc một ngày. Vào thời hoàng đế Nêrôn, đồng denarius được dùng đểthay thế đồng drachmê và coi như tương đương.
– Một người kia có hai con trai (11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu có xứ Paléttina.
– phần tài sản con được hưởng (12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt về của cải của ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành sau khi ông qua đời (Ds 36,7-9; 27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong khi ông còn sống (HL. dôrêma; x. Hc 33,19-23). Trưởng nam được hưởng “hai phần sản nghiệp”, nghĩa là gấp đôi phần được ban cho mỗi người con khác (Đnl 21,17). Ở đây, vì chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con thứ nhận một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa lợi vẫn thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia sản của mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như thế, người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.
– sống phóng đãng (13): Trạng từ asôtôs có nghĩa là “một cách không lành mạnh”. Chúng ta không biết là “không lành mạnh” cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh cả mô tả là “nuốt hết của cải với bọn điếm”, nhưng phải chăng anh đã phóng đại?
– chăn heo (15): Theo Lv 11,7 (x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là loài nhai lại, nên bị coi là “ô uế” đối với người Do Thái. Chi tiết này cho thấy sự sa sút của chàng trai.
– nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì anh ta lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi vì điều này không quan trọng.
– chạy ra (20): Chi tiết này diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã bỏ đi.
– và hôn lấy hôn để (20): Không phải chỉ là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).
– Thưa cha … con (21): Người con lặp lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19), nhưng trước khi anh ta kịp nói ra lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.
– áo đẹp nhất (22): dịch sát là “chiếc áo thứ nhất”, tức là áo hạng nhất. Như thế, người cha không xử với người con như anh ta yêu cầu (“như người làm công”), nhưng như một người khách được tôn kính.
– xỏ nhẫn… xỏ dép (22): Nhẫn là dấu chỉ quyền bính (St 41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ một con người tự do.
– đã mất mà nay lại tìm thấy (24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước.
– con hầu hạ cha (29): Người con cả dùng động từ douleuein, “phục vụ”, “hầu hạ”, hàm ý là anh ta không chỉ tự liệt mình vào hạng người làm công (misthios), nhưng là hạng nô lệ (doulos): “hầu hạ cha trung thành như một tên nô lệ”.
– chẳng khi nào trái lệnh (29): Anh ta ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung thành này, tức nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi tệ hơn là tât xấu!
– một con dê con (29): Chi tiết này cho thấy người con cả không tin tưởng vào cha, anh tính toán, kể công.
– thằng con của cha đó (30): Người con cả diễn tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về người con thứ như là “em con”. Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng với nghĩa xấu.
– lúc nào con cũng ở với cha (31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người con cả sai; ông cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông coi mọi chuyện đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết thâm sâu giữa cha con: “Lúc nào con cũng ở với cha” (= con chưa bao giờ chết; con chưa bao giờ mất).
– tất cả những gì của cha đều là của con (31): nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau khi người con thứ đã lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về người con cả, sau khi cha chết.
– em con (32): Câu trả lời của người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một dẫn nhập (1-3)
Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi người; những người thu thuế và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp được ở nơi nào khác lời đưa lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không. Cách xử sự này khiến người Pharisêu và các kinh sư phải lẩm bẩm trách móc. Họ trách Đức Giêsu hai điểm: đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ. Các kinh sư thường nói: “”Chớ có một ai đi giao du với những kẻ xấu xa, cho dù là thử thuyết phục họ đi theo luật của Thiên Chúa”. Những người thu thuế và tội lỗi không được thuộc về cộng đoàn, vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó, Israel cũng phải làm như thế. Vậy mà Đức Giêsu lại đón tiếp họ! Đã thế, Người lại còn ăn uống với họ, tức là làm một việc đáng trách hơn nữa, vì ăn uống với ai là kết giao, chia sẻ tình bạn, tình liên đới với người ấy.
Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ ngôn một đặc tính là biện hộ, là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với người tội lỗi. Qua cách xử sự này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là điều kiện tiên quyết người ta phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại Thiên Chúa đã thực hiện “sự hoán cải” trước, để người ta có thể lại đi vào quan hệ an bình với Ngài.
* Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (4-32)
Từ dụ ngôn đầu đến dụ ngôn thứ ba của chương 15, tác giả cho thấy có một sự tiệm tiến: một con chiên trong số một trăm, một đồng bạc trong số mười đồng, rồi một đứa con trong số hai người. Bản văn càng đi tới càng cho thấy rằng điều đã mất nay lại tìm thấy càng lúc càng trở nên quí báu hơn.
Người mục tử, người phụ nữ và người cha đều vô danh, bởi vì cả ba được đề ra như một biểu tượng của Thiên Chúa yêu thương.
Một con chiên có giá trị của nó. Không phải vì còn chín mươi chín con kia, mà con chiên bị lạc không đáng kể. Người mục tử sẽ kiên nhẫn đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó. Chín đồng bạc còn lại vẫn không miễn cho người phụ nữ khỏi tha thiết đi tìm đồng đã mất. Một người con thì còn đáng giá hơn muôn vàn con chiên hoặc đồng bạc. Các kinh sư dạy rằng Thiên Chúa vui mừng khi người công chính sống lại, và kẻ gian ác phải tiêu vong. Đứcd Giêsu lại nói rằng Thiên Chúa vui mừng khi kẻ gian ác được sống lại, “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (c. 7). Ở đây không phải là một lời kêu gọi hãy phạm tội, nhưng là một lời mời gọi hãy nhìn nhận rằng tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi trước mắt Thiên Chúa. Không có một ai là “công chính” cả. Vị thần linh ban thưởng tùy theo các công trạng chỉ hiện hữu trong tâm trí người Pharisêu (xưa và nay). Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu là một vì Thiên Chúa ban tặng nhưng-không ơn cứu độ cho tất cả chúng ta mặc dù chúng ta không đáng nhận.
Giờ đây chúng ta suy niệm về truyện người con thứ và người con cả. Thật ra, cả hai người con được nói tới chỉ là để cho người cha có cơ hội diễn tả các tâm tình của ông ra.
a) Người con thứ:
Sau khi đã nhận đủ phần gia tài, người con thứ đi đến một xứ xa xôi, hẳn là một miền đất dân ngoại. Tại đó, anh đã xài hết tiền của. Rơi vào tình trạng khốn đốn, anh phải chăn heo: đây là sự sa cơ thất thế cùng cực! Anh ta suy nghĩ. Nhưng không phải là hối hận về lối sống, không phải là tiếc nuối vì đã làm cho cha đau buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu ngốc chịu đói chịu khát ở đây trong khi các tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là để có thể trở về và được nhạn vào nhà như người làm công, anh chuẩn bị một bài “diễn từ cảm đông” để mong cha nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với các tâm tình của anh.
Quả thật hình ảnh này không tôn vinh kẻ tội lỗi chút nào. Đây đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ đợi.
b) Người con cả:
Lúc người con thứ trở về, người con cả đang làm việc ngoài đồng. Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có chuyện lạ. Sau khi hỏi một người đầy tớ, anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp nhận được, anh nổi giận. Ta thông cảm với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người cha đã ra gặp. Thế là anh cho tuôn ra hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng: anh nói với giọng chua cay, nhưng kể ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là người cha đã xử sự bất công! Những người Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng họ có lý khi tỏ ra khó chịu với Đức Giêsu.
Trước tiên người con cả nói về chính mình: “Bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Chắc chắn đấy cũng là lý tưởng của người Pharisêu và các kinh sư: “phục vụ” Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để không bao giờ vi phạm một điều răn nào.
Sau đó, người con cả nói về em với giọng hết sức khinh bỉ. Anh không gọi là “em con”, nhưng nói là “thằng con của cha đó”. Điều này cũng giống như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến “tên thu thuế kia” với giọng miệt thị.
Như thế, Đức Giêsu đã ngỏ lời với những người vẫn nghĩ rằng mình là những tôi tớ tốt lành, luôn quan tâm để không bao giờ thiếu sót một điều răn nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có nhiều quyền; họ tỏ ra khó chịu, không phải đối với người tội lỗi, nhưng đối với chính Thiên Chúa vì Ngài đã đối xử với kẻ tội lỗi như vậy: Nếu như thế, sống đạo đức còn ích lợi gì? Nếu như thế, sống trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa?
c) Người cha:
Người cha trông mong người con thứ từng ngày, nên ngay khi anh còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông vội vã chạy ra đón con, ông cuống quýt thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng màng đến bài diễn từ bần tiện của anh ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định cho giết ngay để ăn mừng. Rõ ràng trong lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông chưa bao giờ thôi thương yêu con. Nó đi xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể, Điều quan trọng là nó đã trở về!
Đã không muốn nghe lời hối lỗi của con thứ, nay người cha lại để cho người con cả tha hồ nói lên những tâm tình chua chát. Sau đó, ông đã trả lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời ông nói, người con cả chẳng còn lý do gì mà nói rằng cha xử bất công với mình nữa. Nhưng ông tế nhị điều chỉnh: “vì em con đây…”. Nếu cha đã sung sướng đến thế khi gặp lại con, lẽ nào người anh lại không vui sướng khi gặp lại em?
Chúng ta không bao giờ biết được phản ứng sau đó của người con cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào nhà và chào em? Đi vào ăn tiệc chung vui?). Chúng ta cũng không biết người con thứ được sống theo chế độ nào, anh ta sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương 15 giống như một bài ca chan hòa niềm vui được tấu lên để mừng niềm hạnh phúc của người đã tìm lại được điều mà họ đã mất.
+ Kết luận
Nếu đọc cả ba dụ ngôn, chúng ta sẽ thấy hai dụ ngôn đầu kết “có hậu”, còn dụ ngôn thứ ba có kết mở: Người con cả có vào nhà theo lời cha mời chăng? Như thế, hai kết luận tốt đẹp đầu nhằm đưa tới chúng ta một câu hỏi: Chúng ta có hết lòng chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa mà đón người tội lỗi hối cải vào Nước Thiên Chúa không? Trong thực tế, chúng ta vẫn được Thiên Chúa vui lòng đón tiếp, chúng ta cũng hãy sẵn lòng đón lấy người anh em trở về.
5.- Gợi ý suy niệm
– Mỗi con người đều có giá trị vô song trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã tạo nên từng con người với tất cả những phong phú làm nên nhân vị con người ấy. Ngài hỗ trợ cho con người ấy phát triển đến mức tối đa, để cuộc đời người ấy thành một tuyệt tác cho Ngài và cho loài người. Khi chúng ta phục vụ anh chị em, chúng ta phục vụ từng con người có giá trị độc đáo duy nhất, hay là chúng ta chỉ coi như là những con số, những “con chiên” không tên tuổi, theo nhau lầm lũi trước mặt chúng ta?
2. Thiên Chúa thương tất cả mọi người và muốn cho mọi người đều được cứu độ. Nhưng “tất cả” không có nghĩa là một khối người tương đối đông, mà là “từng người”. “Tất cả” là “từng người” trong thế giới, không bỏ sót một ai. Thiên Chúa chiếu cố đến từng con người y như chỉ có một mình người ấy trên đời.
3. Chúng ta có thể thấy mình như người con thứ: không phải là tên ăn cắp, chỉ lấy đúng phần mình; chúng ta cũng còn biết nói “thưa cha!”, nhưng không hề vui thích được ở với cha, mà chỉ muốn ra đi “ăn chơi” cho thỏa thích. Và mỗi khi gặp khó khăn, thì chỉ dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện đầy vụ lợi, tính toán. Người con thứ không biết nghĩ rằng xin làm một “người làm công”, thì sỉ nhục cha quá nặng nề, bởi vì cha vẫn chỉ mong đón mình về để làm “con”. Nay được cha đón vào nhà rồi, anh có biết đáp lại tình cha không? Phần này, chính chúng ta sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
4.Chúng ta cũng có thể thấy mình như người con cả, không bao giờ trái lệnh cha, nhưng cũng chẳng thích ở với cha; trái lại chỉ tính toán, mong có ngay “thoát ly” để đi vui chơi với bạn bè. Đã thế, chúng ta lại tỏ ra khinh bỉ, miệt thị những kẻ bị coi là “tội lỗi”. Nay đã được cha ra gặp để tâm sự rồi, anh có vào nhà để chung vui không? Phần này, chính chúng ta cũng sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
5.Vì không hiểu tình yêu của cha, cả hai người con, đặc biệt anh cả, không hiểu tiếng gọi kèm theo sự hiểu biết đó: anh chỉ thực sự là con của cha, khi yêu thương anh em mình. Ta không thể phục vụ Thiên Chúa như Ngài muốn nếu không yêu mến Ngài và thông chia tình yêu của Ngài cho anh chị em mình, cho dù họ thế nào. Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
————————————————–
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NIỀM VUI LỚN LAO TRÊN TRỜI– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay thắp sáng lòng Chúa xót thương dành cho những người tội lỗi.
Xh 32: 7-11, 13-14
Nhờ lời cầu bầu của ông Mô-sê, Thiên Chúa đã tha thứ tội thờ ngẫu tượng của dân Ít-ra-en.
1Tm 1: 12-17
Trong thư thứ nhất gởi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô dẫn chứng ơn gọi Tông Đồ của mình, ơn gọi của một kẻ trước đây đã ra tay bách hại Giáo Hội, như bằng chứng lòng xót thương của Thiên Chúa trải rộng cho hết mọi tội nhân.
Lc 15: 1-32
Trong Tin Mừng hôm nay, qua ba dụ ngôn, nhất là dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu”, Chúa Giê-su mặc khải lòng xót thương của Thiên Chúa được thể hiện ở nơi việc Ngài tiếp đón cách gần gũi và thân tình những người tội lỗi.
BÀI ĐỌC I (Xh 32: 7-11, 13-14)
Trong khi ông Mô-sê còn lưu lại trên núi, dân chúng bắt ép ông A-ha-ron đúc cho họ một vị thần linh mà họ có thể thấy và sờ – loại thần linh mà các dân tộc khác phụng thờ. Sự tương phản giữa ông Mô-sê và ông A-ha-ron trong bài trình thuật này là có chủ ý: ông Mô-sê đang hầu chuyện thân mật với Đức Chúa để đón nhận những gì Thiên Chúa muốn chỉ bảo cho dân để rồi nói lại cho họ; trong khi ông vắng mặt, ông A-ha-ron tự ý quyết định mà không cần tham khảo ý muốn của Thiên Chúa.
Bản văn nhấn mạnh sự kiện con bê được đúc bằng bạc vàng do bàn tay con người; điều này muốn nói rằng nó giống như mọi ngẫu tượng khác, chỉ là một sản phẩm của các nghệ nhân, có miệng mà không nói, có mắt mà không thấy (x. Tv 105: 19-20; 115: 5tt). Bản văn cũng nói đến “lễ hội” (32: 5) có thể hàm ý đến những nghi lễ cúng tế thần linh bắt chước những gì thấy ở nơi các dân tộc khác.
1.Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và ông Mô-sê:
Thiên Chúa báo tin dữ cho ông Mô-sê và ngỏ ý muốn tiêu diệt dân phản nghịch, dân mà Ngài không còn gọi là “dân của Ta” một cách thân tình nữa, nhưng là “dân của ngươi” (32: 7) một cách xa lạ. Tội này quá nghiêm trọng, đáng bị trừng phạt bằng họa diệt vong. Nhưng vì công lao khổ nhọc của ông Mô-sê nên Thiên Chúa sẽ làm nên một dân tộc lớn khác xuất phát từ ông để thừa hưởng lời hứa (32: 10).
2.Lời chuyển cầu của ông Mô-sê:
Ông Mô-sê tuy rất buồn giận dân nhưng lòng thương của ông dành cho dân khiến ông không muốn dân bị hủy diệt. Ông chuyển cầu cho dân. Ông gợi lên hai lý do để xin Chúa tha thứ cho dân. Lý do thứ nhất, tiêu diệt dân có thể khiến cho người ta hiểu lầm lòng tốt của Thiên Chúa: người Ai-cập có thể lấy cớ đó mà rêu rao rằng “chính vì ác tâm mà Thiên Chúa đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất” (32: 12). Lý do thứ hai, tiêu diệt dân thì đi ngược lại với những lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ: “Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa, chúng sẽ thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời” (32: 33; x. St 22: 16-18).
Có lẽ hai lý do này không đủ làm nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cho bằng chính hành vi chuyển cầu của ông cho dân. Ông là một phàm nhân mà còn không muốn dân phải chết dù tội của dân đáng phải chịu như thế, thì Thiên Chúa lại không mở rộng lòng mà tha thứ cho dân sao? Vai trò chuyển cầu của ông Mô-sê cho toàn dân được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bộ Ngũ Thư: tại Ai-cập (Xh 5: 22-23; 8: 4; 9: 28; 10: 17), nhất là nơi hoang địa (Xh 32: 11-14, 30-32; Ds 11: 2; 14: 13-19; 16: 22; 21: 7; Đnl 9: 25-29), còn được nhắc lại ở Gr 15: 1; Tv 99: 6; 106: 23; Hc 45: 3, và tiên báo vai trò chuyển cầu của Đức Giê-su sau này.
3.Ông Mô-sê và dân chúng:
Nhưng tha thứ không có nghĩa là khỏa lấp tội trạng của dân. Sự kiện ông Mô-sê đập vỡ các tấm bia ghi khắc Luật của Thiên Chúa cho biết chính tội của dân đã phá hủy Giao Ước. Tội bất trung với Thiên Chúa dẫn đến hậu quả là không còn Luật, nói theo ngôn ngữ thời nay, con người mất đi ý thức về tội.
BÀI ĐỌC II (1Tm 1: 12-17)
Trong đoạn thư gởi Ti-mô-thê này, thánh Phao-lô nêu bật lòng Chúa thương xót từ chính kinh nghiệm của mình qua việc Thiên Chúa “đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người”, dù rằng: “trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược”. Thánh nhân nhắc lại ơn gọi của mình trên đường Đa-mát, ơn gọi của một người mà sách Công Vụ mô tả: “hằm hằm đe dọa giết các môn đệ Chúa” (Cv 9: 1) và như lời kể của chính thánh nhân được ghi lại trong sách Công Vụ: “Tôi đã bắt bớ Đạo này, không ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà” (Cv 22: 4). Chính vì ý thức tội của mình như vậy mà thánh Phao-lô đã đặt mình là “người tội lỗi hàng đầu trong những người tội lỗi”. Nhờ đó, thánh nhân nhận ra hơn ai hết tấm lòng xót thương của Đức Giê-su dành cho thánh nhân khi Ngài “đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người”. Chính vì nhớ lại tội lỗi của mình cũng như muôn vàn ân phúc Chúa dành cho mình mà thánh nhân cảm thấy bừng cháy lên tâm tình cảm tạ tri ân với trọn một tấm lòng yêu mến và tin tưởng.
Thánh Phao-lô cũng ý thức rằng trường hợp của thánh nhân không là trường hợp cá biệt, bởi vì “Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời”. Niềm xác tín này cũng được thánh nhân chia sẻ với các tín hữu Rô-ma: “Đến như Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8: 32).
Đây cũng là tình yêu Thiên Chúa mà thánh Gioan đã gẫm suy trong thư thứ nhất của thánh nhân, trong đó thánh nhân quả quyết rằng ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là những người thù địch với Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Đó là bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết là ngần nào (1Ga 4: 10).
TIN MỪNG (Lc 15: 1-32)
Việc Đức Giê-su thể hiện tấm lòng đầy xót thương của Thiên Chúa qua việc tiếp đón những người tội lỗi gây phẩn nộ từ phía những kinh sư và Biệt Phái, những người tự cho mình là thánh thiện đạo đức nên tỏ ra khinh bĩ và khai trừ những người tội lỗi.
Vì thế, Chúa Giê-su kể cho họ ba dụ ngôn để cho thấy rằng không ai bị loại ra ngoài sự tha thứ của Thiên Chúa, vì thế những tội nhân có thể trở thành những người con yêu dấu của Thiên Chúa nếu họ ăn năn hối cải. Thiên Chúa ước mong những tội nhân hối cải đến mức mỗi một dụ ngôn này đều kết thúc với một điệp khúc ngân vang niềm vui lớn lao trên trời khi thấy một tội nhân hối hận ăn năn. Trong ba dụ ngôn, hai dụ ngôn “con chiên lạc” và “đồng bạc bị đánh mất”, thánh Lu-ca có chung với thánh Mát-thêu, chỉ duy dụ ngôn “đứa con hoang đàng” là nguồn riêng của thánh Lu-ca.
1.Hai dụ ngôn sinh đôi: “Con chiên bị lạc mất” (15: 4-7) và “Đồng bạc bị đánh rơi” (15: 8-10)
Hai dụ ngôn này được gọi là “cặp dụ ngôn sinh đôi” vì có cùng một cấu trúc đối xứng với nhau. Cả hai dụ ngôn đều bắt đầu với một câu hỏi giả thiết, một lời đáp trả khẳng định. Một cái gì đó “bị mất” (lập lại đến năm lần) mà người ta “đã tìm lại được” (sáu lần). Sau khi đã tìm lại được, người ta chia sẻ niềm vui với người chung quanh. Như vậy, cặp dụ ngôn sinh đôi này không quan tâm đến tới cách thức đã xảy ra sự mất mát; ngay cả việc tìm thấy cái đã mất cũng thuộc về quá khứ. Việc tìm kiếm ít được nhấn mạnh hơn là lời mời gọi cùng chia sẽ niềm vui cả ở dưới thế lẫn ở trên trời. Như thế, việc Chúa Giê-su thường giao du với các kẻ bị loại trừ được biện minh bởi hành động của Thiên Chúa. Và hai dụ ngôn này như muốn nêu lên cho các người Biệt Phái, các kinh sư và cả độc giả một câu hỏi: Các bạn có thể chung vui với Chúa Ki-tô khi thấy “những người tội lỗi lui tới với Đức Giê-su để nghe Ngài giảng” không?
2-Dụ ngôn: “Người Cha giàu lòng xót thương” (15: 11-32)
Đây là một trong những dụ ngôn đẹp nhất của Chúa Giê-su được nhìn nhận như một tuyệt tác truyện ngắn của thế giới. Dụ ngôn dạy cho chúng ta nhiều lần rằng Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng xót thương (x. Mt 6: 8; Rm 8: 15; 2Cr 1: 3). Theo Đức Gioan Phao-lô II, “Tác giả Tin Mừng bàn đặc biệt về những đề tài này ở nơi lời giảng dạy của Đức Giê-su là thánh Lu-ca, và Tin Mừng của thánh nhân đã xứng đáng được gọi là ‘Tin Mừng về lòng Chúa xót thương”. Đức Thánh Cha còn nói thêm: “Điều đó có lẽ hiển nhiên nhất là trong dụ ngôn người con hoang đàng, nơi mà yếu tính của lòng Thiên Chúa xót thương được diễn đạt một cách đặc biệt rõ ràng, cho dầu từ ‘lòng xót thương’ không gặp thấy ở đây” (John Paul II, Dives in misericordia, 5).
Dụ ngôn này được trình bày như một bức tranh bộ đôi: trong bức tranh thứ nhất (15: 11-24), nhân vật chính là đứa con thứ, và trong bức tranh thứ hai (15: 25-32), nhân vật chính là đứa con cả. Trong cả hai trường hợp, người cha giữ một vai trò chủ đạo. Khi đọc dụ ngôn này, chúng ta sẽ nhận thấy có hai kết luận, hai “cao điểm”, trong đó cao điểm thứ hai là điều Chúa Giê-su nhắm đến.
A-Người cha và đứa con thứ (15: 12-24)
Trong bức tranh thứ nhất, tác giả cố ý tô thật đen cách hành xử của người con thứ để bật sáng tấm lòng nhân hậu của người cha.
a-Đứa con thứ hoang đàng (15: 12-20a)
Ngay từ đầu dụ ngôn, Chúa Giê-su giới thiệu một người cha chỉ có hai đứa con: “Người kia có hai người con”. Theo luật Do thái, người cha không được tự do phân chia gia tài của mình tùy thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, còn đứa con thứ thì được một phần ba. Một người cha phân chia gia tài cho các con khi mình còn sống để được nghỉ ngơi, đó là chuyện thường tình. Nhưng ở đây, thật vô tâm trơ tráo khi người con thứ đòi cha chia gia tài cho mình: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Người con thứ được họa nên ở đây chẳng không có gì đáng khen cả.
Rồi cậu bỏ nhà ra đi và “ở đó, anh ta sống phóng đảng, phung phí tài sản của mình”. Lúc đó cậu lâm vào cảnh túng thiếu đành phải chấp nhận làm đầy tớ đến mức phải đi chăn heo, những con vật mà dân Do thái coi là ô uế mà theo luật đây là công việc cấm kỵ: “Đáng nguyền rủa cho kẻ nào chăn heo”. Như vậy cậu đã xuống cho đến tận cùng cảnh ngộ khốn khổ của mình, không chỉ về phương diện vật chất mà còn cả về phương diện phẩm giá: “Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho”. Đức Gioan Phao-lô II đã giải thích: “Người con đã nhận phần gia sản cha chia và bỏ nhà ra đi để tiêu pha hoang phí ở một xứ xa xôi bằng lối ‘sống trác táng’. Theo một nghĩa nào đó, người con này là con người mọi thời đại, kể từ người đầu tiên đã làm mất gia tài ân sủng và sự công chính nguyên thủy. Như vậy có sự tương tự rất là rộng mở. Một cách gián tiếp, dụ ngôn có liên quan đến từng vụ cắt đứt giao ước yêu thương, từng vụ làm mất ân sủng và từng tội lỗi” (John Paul II, Dives in misericordia, 5).
Trong cảnh bần cùng tận mức này, bị cái đói giày vò, cậu mới nghĩ đến việc trở về nhà cha mình; lý do thúc đẩy cậu cất bước trở về chẳng có gì là cao thượng cả, chẳng qua chỉ vì tình thế bắt buộc thôi: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!”. Đó là nguyên do chính thúc đẩy cậu “đứng lên và đi về cùng cha”. Để đạt được mục đích của mình, cậu sẵn sàng hạ mình thú tội và cầu xin cha tha thứ. Vì thế trên đường đi, cậu đã dọn sẵn trong đầu những lời hay ý đẹp để làm xiêu lòng cha: “Thưa cha, con đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”, nhưng thực tâm chỉ vì cái đói thôi. Những điều cậu suy tính trong lòng chẳng qua chỉ là vụ lợi thôi, nhưng đây là bước khởi đầu của một cuộc hoán cải, một cuộc đổi đời, một cuộc trở về cùng cha mình.
b-Tấm lòng của người cha đối với đứa con hoang đàng (15: 20b-24)
Tấm lòng của người cha được phác họa bằng những ý tứ rất súc tích. Thái độ của người cha đối với người con thứ này khiến chúng ta phải ngạc nhiên. Ông tôn trọng sự tự do của cậu và đáp ứng mọi yêu sách của cậu; thậm chí khác với thái độ của người chăn chiên và người đàn bà nội trợ, ông không lặn lội đi tìm cậu. Chính thái độ vồn vả ân cần đón tiếp cậu khi cậu trở về mới là điều dụ ngôn này quan tâm.
Lời ghi nhận: “Anh ta còn đằng xa, thì người cha đã trông thấy” cho thấy tấm lòng của người cha. Từ khi đứa con bỏ nhà ra đi, hằng ngày ông đứng bên khung cửa nhìn đằng xa trên con đường mà người con khuất bóng ra đi để ngóng trông bóng dáng của con ông trở về. Từ khi nhìn thấy bóng dáng thất thiểu của đứa con mình từ xa, ông “chạnh lòng thương” (động từ Hy ngữ này có một nghĩa rất mạnh: một mối cảm xúc sâu xa dâng lên tận đáy lòng), và “chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để” (cách đón tiếp vồn vả khác thường này vượt quá khuôn phép uy nghiêm của một người cha mà tập tục Đông Phương quy định). Như vậy, với tấm lòng của người cha, ông đã tha thứ cho cậu trước khi cậu ngỏ xin ông tha thứ.
Lời nói đầu tiên câu ngỏ với cha mình: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…”, để lộ cho thấy đây là những lời cậu đã nhẫm đi nhẫm lại trong lòng không nhằm một mục đích nào khác ngoài việc đánh động tấm lòng của cha cậu để xin cha cậu đón nhận cậu như một kẻ làm thuê trong nhà, chứ thật ra chưa hẳn là những lời sám hối chân thành xuất phát tận đáy lòng của mình. Ngay cả như thế, người cha đã cắt ngang không để cho cậu nói hết những lời thú tội, để tránh cho cậu đi đến tận cùng của sự nhục nhã, nhưng cũng để cho thấy lòng tha thứ vô điều kiện của ông đối với con mình.
Còn tế nhị hơn nữa, ông không ngỏ lời trực tiếp với cậu, nhưng truyền lệnh cho các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu”: Áo đẹp nhất của người quyền quý thay thế bộ quần áo rách tả tơi của kẻ bần cùng, chiếc nhẫn xỏ vào tay cậu để chỉ quyền bính trong xã hội, đôi dép xỏ vào chân cậu biểu hiện địa vị làm con chứ không là người làm thuê hay kẻ nô lệ nữa, bởi vì từ nay cậu không chỉ được phục hồi nhân phẩm của mình, nhưng cũng được kính trọng như một người con trước kia.
Ông còn coi việc người con trở về nhà cha, dù trong hoàn cảnh như thế nào, như một niềm vui lớn, phải tổ chức một bữa tiệc để cả nhà cùng chung niềm vui đoàn tụ khi ông truyền lệnh cho đầy tớ: “Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”. Người cha nêu lên cùng một lý do như người chăn chiên và bà nội trợ trước đây: “Vì con ta… đã mất mà nay lại tìm thấy”. Hơn nữa, lý do ấy được bày tỏ một cách mới mẽ: “Nó đã chết mà nay sống lại”. Niềm vui này dễ hiểu đối với con chiên bị lạc đàn hay đồng bạc bị đánh rơi, nhưng ở đây lại làm cho chúng ta ngỡ ngàng vì tội lỗi của đứa con hoang đàng – một đề tài không có trong hai dụ ngôn song sinh trước.
Chắc chắn nơi cung cách hành xử giản dị và thấm thía của người cha đối với đứa con hoang đàng này, Chúa Giê-su muốn mặc khải cho chúng ta Tình Cha của Thiên Chúa. Đức hạnh của người cha trong dụ ngôn và toàn bộ cung cách ứng xử của ông bày tỏ thái độ nội tâm của ông, điều này giúp chúng ta có thể khám phá lại những nguồn mạch độc đáo của quan niệm Cựu Ước về lòng thương xót của Thiên Chúa trong một tổng đề hoàn toàn mới và rất đơn giản mà sâu xa. Người cha của đứa con hoang đàng “trung thành với tình phụ tử, trung thành với lòng yêu thương” mà ông đã luôn luôn nuông chiều đứa con của mình. Sự trung thành này không chỉ được bày tỏ ở nơi tấm lòng sẵn sàng tha thứ của ông khi dang rộng vòng tay tiếp đón đứa con hoang đàng trở về mái ấm gia đình, nhưng còn được diễn tả một cách tròn đầy hơn nữa ở nơi niềm vui khi mở tiệc ăn mừng một đứa con hư hỏng sau khi đã tan gia bại sản vì chơi bời trác táng, bữa tiệc quá hào phóng đến mức khiến người anh cả chống đối và ghen tức, vì anh đã luôn luôn ở bên cạnh cha mình và chẳng khi nào trái lệnh cha.
Tất cả mọi chú ý của câu chuyện đều hướng đến tình cha cao vời gây xúc động này, chứ không tấm lòng hoán cải của đứa con hoang đàng. Dụ ngôn muốn minh họa thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thiên Chúa yêu thương họ như người cha yêu thương đứa con của mình. Việc Chúa Giê-su mở rộng vòng tay đón tiếp những người tội lỗi mặc khải tấm lòng yêu thương vô bờ của Chúa Cha. Dụ ngôn này chỉ cho thấy rằng Thiên Chúa đã đến gặp gỡ nhân loại để cứu thoát họ khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi. Ơn tha thứ của Thiên Chúa phục hồi con người trong phẩm giá của mình. Ở nơi hậu cảnh của dụ ngôn này, người ta đọc thấy bí tích Hòa Giải của Thiên Chúa với con người.
B-Người cha và người con trưởng (15: 25-32)
Bức tranh thứ hai là lời mời gọi người con trưởng vượt qua thói duy luật để mở rộng tấm lòng mà đón nhận đứa em hoang đàng trong tình yêu dạt dào của cha anh. Vả lại, người cha nói với người con trưởng với một cung giọng nhất mực trìu mến thương yêu. Ông yêu thương hai đứa con mình như nhau; ông muốn giúp người con trưởng khám phá chiều kích tình yêu này. Tình phụ tử không làm tổn thương sự công bình nhưng vượt quá.
a-Người con trưởng bất khoan dung (15: 25-30)
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa quá lớn lao đến nỗi con người không thể nào hiểu hết được như chúng ta có thể thấy ở nơi trường hợp người con trưởng, cậu nghĩ cha cậu yêu đứa con thứ quá mức, lòng ghen tức của cậu ngăn cản cậu hiểu được tình phụ tử dào dạt tuôn tràn ở nơi cha cậu. Cậu tự tách mình ra khỏi niềm vui đoàn tụ. Trong cơn giận dữ, cậu đã bộc lộ tất cả những gì mà đã bao năm cậu cố đè nén khi sống bên cạnh cha mình: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để để con ăn mừng với bạn bè”. Hóa ra đã bao năm cậu sống bên cạnh cha mình không phải trong mối thâm tình của một người con đối với cha mình, nhưng trong mối tương quan bổn phận của người đầy tớ với ông chủ.
Qua lời này: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”, cậu dứt khoát đoạn tuyệt tình nghĩa anh em với đứa em ruột thịt của mình, tố cáo cha thiên vị và cuối cùng trách cha “đã giết bê béo” để ăn mừng cuộc trở về của một thằng con hoang đàng phung phí tài sản của cha. Thái độ của người con trưởng phản chiếu thái độ bất khoan dung của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, họ đại diện cho những giá trị đạo đức của Cựu Ước, phân biệt rạch ròi sự công chính và tội lỗi. Lời trách cứ của người con trưởng về tấm lòng quá bao dung đại lượng của cha cậu đối với đưa con hoang đàng tương tự như sự bất bình của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư về cách hành xử quá thân mật của Chúa Giê-su đối với những người tội lỗi. Rõ ràng, những lời phẩn uất của người con trưởng: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh” minh họa cách sinh động cung cách sống đạo của những người Pha-ri-sêu, họ tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Cũng như thái độ hằn học phẩn uất đoạn tuyệt tình nghĩa anh em với người em hoang đàng khiến chúng ta nghĩ đến thái độ của những người Pha-ri-sêu và kinh sư khai trừ những người tội lỗi.
b-Tấm lòng của người cha đối với người con trưởng (15: 31-32)
Cách hành xử của người cha đối với người con trưởng phù hợp với hình ảnh của người cha đã được phát họa trong bức tranh thứ nhất. Ở đây cũng vậy, cung cách hành xử của ông được họa nên không bằng những phong thái uy nghiêm của một người cha theo những ước lệ Đông Phương nhưng bởi tấm lòng chan chứa yêu thương của người cha đối với con của mình: “Người anh cả liền nỗi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ”. Nếu người con trưởng không chịu vào nhà để chung niềm vui đoàn tụ gia đình, thì người cha sẵn lòng ra bên ngoài, ngồi bên cạnh đứa con của mình để năn nỉ cậu mở rộng lòng mình mà đón nhận đứa con hoang đàng của ông cũng là đứa em ruột thịt của cậu.
Để đáp lại những phân bua của cậu về những năm tháng tận tụy hầu hạ cha trong nhà như một người đầy tớ, người cha trả lời: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha”, như một lời nhắc khéo cho cậu hiểu rằng điều mà người cha cần là tình cha con chứ không phải là nghĩa chủ tớ. Để đáp lại lời trách cứ của cậu về một con dê con để ăn mừng với chúng bạn chỉ là niềm ước mơ, người cha trả lời: “Tất cả những gì của cha đều là của con”. Để đáp lại thái độ đoạn tuyệt tình nghĩa với người em hoang đàng của cậu, người cha trả lời: “Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”, như một lời nhắc khéo: thằng con hoang đàng của cha cũng là đứa em ruột thịt của con.
Dụ ngôn kết thúc mà không cho chúng ta biết người con trưởng có đón nhận lời khuyên của cha để rồi cùng chung vui với cha vì “em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” hay không? Liệu cậu có chịu chấp nhận đồng bàn với đứa em “nhơ bẩn” của cậu hay cứ tự dày vò mình trong cơn giận dữ của cậu? Không biết những người Pha-ri-sêu và các kinh sư có hiểu rằng nếu Thiên Chúa nhân từ, độ lượng, tha thứ những người tội lỗi đến như thế, chắc hẳn Ngài phải đầy lòng xót thương gấp bội phần đối với những ai trung thành với Ngài hay không? Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su hiểu điều này rất rõ: “Thật vui biết mấy khi biết rằng Chúa chúng ta thì công minh; Ngài lượng thứ những thiếu xót của chúng ta, và biết rõ chúng ta yếu đuối là dường nào. Vậy thì chúng ta phải sợ gì nhỉ? Chắc chắn Thiên Chúa rất mực công minh tha thứ đứa con hoang đàng với một tấm lòng nhân hậu như thế, Ngài sẽ là công minh với tôi ‘người luôn luôn ở với Người biết bao” (The Story of a Soul, ch. 8).
Như vậy, theo truyền thống, dụ ngôn này thường được đặt nhan đề:“đứa con hoang đàng”, nhưng phải được gọi “người cha giàu lòng xót thương” mới đúng, bởi vì nhân vật chính trong câu chuyện không phải là đứa con thứ hoang đàng cũng không phải người con trưởng bất khoan dung mà là người cha giàu lòng xót thương, chính người cha là nhân vật chủ đạo nối kết hai bức tranh này thành một bức tranh bộ đôi. Phải nói rằng đứa con thứ hoang đàng trở về nhà cha cũng như người con trưởng bất khoan dung chẳng qua chỉ để thắp sáng tấm lòng đầy xót thương của người cha. Tấm lòng của người cha này là tấm lòng phụ tử của Chúa Cha trên trời được thể hiện cách cụ thể ở nơi cách đối xử thân tình của Đức Giê-su đối với những người tội lỗi.
(*)Tựa đề do BTT. GPBR đặt
———————————————
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Bài Phúc Âm vừa nghe là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Phúc Âm Luca này được coi như bản tóm tắt tất cả Phúc Âm. Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu. Những bài sách thánh hôm nay hé mở cho ta mấy nét của lòng thương xót vô biên đó.
Nét thứ nhất của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là: sự tha thứ
Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn.
Tình yêu đích thực không được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ không phải vì người khác.
Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu.
Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.
Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.
Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở về.
Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ây minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào.
Nét thứ hai của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: sự đi tìm.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu thương.
Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.
Nét thứ ba của lòn thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: Thiên Chúa yêu thương từng người, dù rất bé nhỏ.
Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa.
Một con chiên lạc có gì so với 99 con chiên còn lại. Giữ 99 con còn lại vừ nhàn nhã lại vừa có lợi. Đi tìm một con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tình toán thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người mục tử ấy vẫn còn khắc khoải lo âu.
Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở về.
Thật kỳ diệu tình thương của Thiên Chúa. chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”.
Thực là vô biên lòng thương xót của Thiên Chúa. lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giaù lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ,không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG:
- Kể ra vài nét của lòng thương xót của Chúa.
- Tại sao tha thứ là dấu chỉ rõ nhất của tình yêu?
- Cảm nhận được tình yêu và đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. bạn có coi điều này là hệ trọng nhất trong đời không?
————————————————
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
LÒNG NHÂN TỪ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Người mục tử đi tìm con chiên lạc. (Lc 15, 4)
Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!”
Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa: mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài.
Chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ.
Gợi ý sám hối
* Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.
III. Lời Chúa
Bài đọc I (Xh 32, 7-11. 13-14)
Đoạn này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.
Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.
Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý:
– Môsê đã liên kết với dân: mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel.
– Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu “Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe”.
Đáp ca (Tv 50)
Lời cầu nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa: “Lạy Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm”.
Tin Mừng (Lc 15, 1-32)
Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 à 1/10 à ½). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc – người ta thường nói “đồng tiền liền khúc ruột – và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
Bài đọc II (1 Tm 1, 12-17)
Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài:
– “Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót”.
– “Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”
– “Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài”.
Gợi ý giảng
* 1. Giá trị của từng con người
Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v. v. một hội viên phát biểu: “Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng”. Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: “Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi”.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2).
* 2. Cái mất là cái quý
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.
Lý do là: cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quý.
Sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau)
Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: “Vì tôi lạc bị mất một con chiên”. Chúa Giêsu nói: “Để Ta đi tìm nó cho”. Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: “Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó”.
Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì?
– Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại.
-Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn.
-Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.
* 3. Những con người bị mất
Không chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất.
Những con người bị mất ấy là ai?
– Là những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang.
– Là những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo.
– Là những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời.
– Là những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau.
– Là những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa.
-Là những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo.
Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.
* 4. Tuyệt đỉnh của yêu thương
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
– Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
– Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa.
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A. Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà”.
*
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đường sẽ trống rỗng, và thế giới này không có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen. (TP)
Chuyện minh họa
a/ Sự tha thứ của Chúa
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.
– Ông biết đây là gì không?
– Nó giống như cát.
– Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không?
– Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.
– Đây là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cả?
– Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
b/ Không cần đếm
Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp: không biết. “Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết? ” Câu trả lời thật ý nhị: “Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt. “
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của người có tội thật lòng ăn năn thống hối. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng khẩn khoản nài xin:
– Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần / tuôn đổ đầy trành tình yêu của Người vào tâm hồn mọi thành phần Dân Chúa / để ai nấy đều trở nên sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết thảy mọi người.
– Hiện nay / có biết bao thanh thiếu niên bỏ nhà đi bụi đời vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau / trong số đó nổi bật nhất là do thiếu tình thương / và sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ / hoặc cha mẹ bất hòa hay ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn là tổ ấm tình thương / là nơi nương tựa cho mọi thành viên của mình.
-Thử thách gian truân nhiều khi làm cho con người lâm vào cảnh bế tắc / mất hết niềm hy vọng để vui sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chạy đến cùng Chúa khi gặp buồn phiền đau khổ / để được Người nâng đỡ ủi an.
-Chúa yêu thương tất cả mọi người / không kỳ thị thiên tư / không phân biệt đối xử với bất cứ ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn noi gương Người trong cách cư xử của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần, mà đến bảy mươi lần bảy. Xin ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.
VII. Giải tán
Chúng ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào. Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.
—————————————————–
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Chủ đề của ba bài đọc hôm nay là Thiên Chúa thương xót những người tội lỗi. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ngay sau khi dân Do thái ký Giao ước với Thiên Chúa đã quay ra phản bội, họ đã bỏ Chúa mà đi tìm một thần tượng khác làm hộ mạng, tức là thờ lạy con bê vàng. Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ định tiêu diệt dân này để lậïp một dân lớn hơn, trung thành hơn, nhưng nhờ lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha tội cho dân. Thực ra, sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi đến cho chúng ta qua bài đọc 1 này là Thiên Chúa rộng lòng thương xót sẵn lòng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể trong Đức Giêsu Kitô. Sự kiện Đức Giêsu đã đón tiếp và cùng ăn với những người tội lỗi làm cho những người biệt phái phẫn nộ. Họ là những người “biệt phái” tránh né mọi tiếp xúc với những người tội lỗi. Họ cho rằng những kẻ tội lỗi là những đồ bỏ đi. Phản ứng lại những lời chỉ trích của nhóm họ, Đức Giêsu đã chỉ ra cho họ một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung, Ngài sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của con người, bằng cách đưa ra ba dụ ngôn : con chiên đi lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa quan tâm đến một người hư mất và niềm vui của Ngài khi tìm lại được một người hư mất.
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với người tội lỗi. Họ không phải là những hạng người bỏ đi như người biệt phái vẫn nghĩ thế; trái lại, họ là một con người, một con người cao qúi trước mặt Chúa không thể để hư mất. Nếu họ hư đi thì phải nỗ lực đi tìm kiếm như người chăn chiên bỏ 99 con mà đi tìm con chiên lạc, đem về cùng chung vui vì một người tội lỗi đã trở lại.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Xh 32,7-11.13-14.
Ngay sau khi Thiên Chúa ký Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước. Vì ông Maisen ở lâu trên núi, nên dân đâm ra sợ hãi và tự tạo cho mình một thần tượng để hộ mạng. Đó là dân đã đúc con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Sự bất tín này làm Thiên Chúa nổi giận và muốn tiêu diệt dân, đồng thời Ngài lại hứa với Maisen như xưa đã hứa với Abraham là sẽ làm cho ông nên tổ phụ của một dân tộc lớn. Nhưng ông Maisen đã khẩn khoản xin Chúa tha tội cho dân, và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt Israel nữa.
Mặc dầu Thiên Chúa hứa tạo cho ông một dân tộc mới, ông đã không lìa bỏ dân tộc mình, vẫn liên đới gắn bó với dân như trước. Chính ông van xin Thiên Chúa tha thứ và được Ngài nhận lời vì Thiên Chúa kiên nhẫn và trung tín.
+ Bài đọc 2 : 1Tm 1,12-17.
Trước khi nói cùng ông Timôthê yêu dấu, thánh Phaolô muốn nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử với loài người. Nếu không có điều ấy, ơn gọi của chính ngài khó mà giải thích được : Thiên Chúa tha thứ. Ngài tạ ơn Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Chúa.
Trước kia, ngài là người bắt đạo và ngạo ngược nhưng đã được Chúa xót thương. Sự trở lại của ngài là một thí dụ điển hình về ơn tha thứ Thiên Chúa dành cho mọi người.
+ Bài Tin mừng : Lc 15,1-32.
Thấy Đức Giêsu hay gần gũi với những người tội lỗi, nhóm biệt phái và luật sĩ tỏ ra rất khó chịu, lẩm bẩm với Ngài. Nhân dịp này Đức Giêsu đưa ra ba dụ ngôn nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân : con chiên bị lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Tất cả đều nói lên Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Để ý nhận xét, đồng tiền là một vật nhỏ nhất mà cũng mất công tìm tòi kỹ lưỡng, điều này nói lên sự quan tâm rất mực của Thiên Chúa đối với tội nhân. Dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về càng làm nổi bật lòng nhân hậu, thứ tha của Thiên Chúa, Ngài là người Cha không bao giờ bỏ rơi con cái bạc bẽo. Chi tiết này càng làm cho người tội lỗi vững tâm trở về cùng Chúa.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tấm lòng nhân hậu của người Cha.
THIÊN CHÚA KÊU GỌI NGƯỜI TỘI LỖI
Hòan cảnh đưa đến dụ ngôn.
Đối với Đức Giêsu, người ta có hai thái độ trái ngược nhau : đối với những người biệt phái và luật sĩ, họ cho mình là người công chính nên khinh thường và tẩy chay Ngài. Còn những người tội lỗi thì lại đến gần Ngài, nghe Ngài giảng và sửa đổi con người của mình. Người Do thái rất khó chịu khi thấy Đức Giêsu giao du với những người tội lỗi và lại còn đồng bàn với họ nữa. Người ta khó chịu với Đức Giêsu vì họ thấy Ngài cư xử ngược với quan niệm của họ.
Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ lưật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là “Dân của đất”. Có một hàng rào ngăn cách dứt khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người “Dân của đất”. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do thái dạy rằng : Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặït nó coi kẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”.
Có luật cấm đạo sĩ Do thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp.
Trước thái độ kỳ thị ra mặt của các đạo sĩ Do thái đối với người bị coi là tội lỗi, Đức Giêsu mới kể cho họ ba dụ ngôn để nói về lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, Ngài muốn tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất.
Ba dụ ngôn của Đức Giêsu.
a) Dụ ngôn con chiên đi lạc.
Trước tiên ta cần lưu ý là hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên là chủ đề cổ điển trong Cựu ước nói lên tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài (St 48,15 : Lc 12.32). Dụ ngôn này cũng có trong Tin mừng Matthêu, nhưng trong lúc Matthêu áp dụng vào trách nhiệm những vị lãnh đạo Giáo hội, còn Luca nói lên việc Thiên Chúa tìm kiếm người tội lỗi.
Trong dụ ngôn này, người mục tử đã bỏ 99 con kia, dĩ nhiên là được canh giữ cẩn thận, để đi tìm con chiên lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào đó không được nêu ra trong dụ ngôn. Nhưng có một đều chắc chắn là nó đang sống những giây phút khốn cực, cần sự giúp đỡ của chủ chăn. Chủ chăn đã phải bỏ 99 con trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm cho ông nghèo đi chút nào. Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng : bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con đây cho giá trị như 99 con. Ý nghĩa này nói lên tầm mức quan trọng và tự do sự trở về của tội nhân : Quan trọng đến nỗi bất cứù giá nào, người tội lỗi đó cũng phải được trở về, điều đó chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Còn một chi tiết làm cho chúng ta cảm động :”vác con chiên trên đôi vai”, vì khi con chiên đi lang thang nhiều giờ hay nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó lên thôi. Và một con chiên nặng đấy ! Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi đầy sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời… Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc ! Nhưng, Đức Giêsu nói hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.
Chính Thiên Chúa giới thiệu với chúng ta như thế ! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Thánh Kinh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “người chăn chiên” (Is 40,11-49, 10 …(Quesson).
b) Dụ ngôn đồng tiền bị mất.
Đức Giêsu lại tiếp nối tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị mất trong nhà dân quê xứ Palestina, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khỏang 45 phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được.
Một đồng bạc ở đây có giá trị tương đương với một ngày làm công (Mt 20,2). Ở đây muốn nói lên sự mất mát dù chỉ có một đồng cũng là điều quan trọng khiến cho chủ cũng phải tốn công tìm kiếm. Điều này cũng muốn ám chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa không muốn để ai bị hư đi, nhưng muốn cứu vớt mọi người.
Ngoài lý do vì nhu cầu cần tìm đồng tiền bị mất, lại còn có một lý do khác thơ mộng hơn. Tại Palestina, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng 10 đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợ dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ 10 đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm như thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy.
Vì thế, chúng ta dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc bị mất. Đức Giêsu cho biết : cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ vui mừng khi một người ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay cái đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi lại tìm lại được.
c) Dụ ngôn đứa con hoang đàng.
Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn trong dụ ngôân đứa con hoang đàng. Ông chủ chỉ có hai người con trai, tưởng rằng được sống bình yên trong tuổi già với hai con. Nhưng người con thứ tính phóng khoáng, thích tụ tập, muốn xin cha chia gia tài cho anh.
Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hưởng 2/3, đứa con thứ được 1/3 gia tài (x. Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn. Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói với cha nó :”Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng lãnh được sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nhà này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi.
Tuy nhiên, việc xin chia gia tài này có hợp lý không, thì không rõ, chỉ biết rằng sau này chính người con thứ đã hối hận vì hành động trên.
Đi xa nhà một thời gian, nó đã nhanh chóng xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa của người Do thái… Trong cảnh khốn cùng, nó hồi tâm suy nghĩ lại và quyết định ra đi về với cha nó mà chỉ xin được coi như kột đứa đầy tớ thôi, chứ không dám nhận là con nữa. Nó trở về, cha nó chạy ra ôm chằm lấy mà hôn. Cha nó không để nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước. Ông đã phục hồi địa vị làm con cho nó bằng những cử chỉ đầy ý nghĩa :
– Xỏ giầy vào chân cậu: Xỏ giầy vào chân chứng tỏ ông đã tha thứ hoàn toàn cho cậu. Vào thời Kinh Thánh thuở xưa, mang giầy là dấu chỉ của một người tự do, còn đám nô lệ thì đi chân trần. Xỏ giầy vào đôi chân trần của cậu con tức là xóa đi dấu hiệu thằng con ấy từng là nô lệ của một người nào đó, và đồng thời trả lại cho cậu ta dấu chỉ cậu là đứa con trai trong gia đình.
– Trao nhẫn cho cậu. Gắn nhẫn vào ngón tay cậu chứng tỏ ông bố phục hồi trọn vẹn cho cậu tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi. Đeo nó vào đồng nghĩa với được quyền hành xử như một thành viên trong gia đình.
Và như thế, khi choàng tay ôm, xỏ giầy, đeo nhẫn cho đứa con trai, người bố đã cho thấy ông hoàn toàn nồng nhiệt tiếp đón cậu ta, tha thứ hoàn toàn và phục hồi cho cậu ta trọn vẹn tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi.
Truyện : Vải trắng trên cây táo.
Richard Pindell có viết một chuyện ngắn nhan đề “Đứa con trai của một người nào đó” (somebody’s son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khó quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau :”Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta.
Vài ngày sau, David lên xe lửa đi về. Trong lúc tầu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh cứ chớp lòe liên tục hiện ra trong trí cậu ta. Khi thì trên cây có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng có một miếng vải trắng nào. Xe lửa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra nơi khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói :”Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cái cây. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng không nhé”.
Khi chiếc xe lửa rầm rầm lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run giọng cậu hỏi người đàn ông :”Thưa ông, có một miếng vải trắng treo ở một cây nào đó không”? Ông ta sửng sốt trả lời :”Ồ, này cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có cột một miếng vải trắng cả”(Mark Link).
THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ.
Tấm lòng của người Cha.
Người cha trong dụ ngôn phải là một ông chủ giầu sang, đầy quyền lực và oai nghi đúng với đặc điểm của một phú ông miền Đông phương. Đứng trước sự ngông cuồng của người con thứ, người cha đã chia gia tài cho các con không phải vì ông nhu nhược mà vì ông tôn trọng quyền tự do của con. Ngày người con thứ ra đi cũng chính là ngày ông bắt đầu ngóng chờ với niềm tin sẽ có ngày con ông trở về. Quả đúng như vậy. Mặc dù tuổi già sức yếu, người cha vẫn nhìn ra người con từ rất xa. Có thể nói chính ông đã phá tan dáng vẻ oai nghi đường bệ của một phú ông Đông phương để hồ hởi chạy ra với người con tựa như trẻ thơ mong mẹ về.
Nỗi mừng vui cũng như hàng loạt mệnh lệnh dồn dập của người cha làm cho chúng ta có cảm nghĩ hẳn ông đang chuẩn bị tiếp đón một nhân vật quan trọng. Mà không quan trọng sao được khi ý nghĩa của những mệnh lệnh trên hàm chứa một tình yêu vô bờ bến ông dành cho người con “phá gia” trở về mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả hết được.
Chiếc áo mới nhất mà ông mặc cho người con hẳn phải là chiếc áo dành cho ngày Đại lễ. Bởi chỉ có ngày Đại lễ, dịp lễ hội, người ta mới mặc áo mới, mới có dịp để chưng diện mà thôi. Chưa dừng lại ở đó. Chúng ta biết rằng đối với người Do thái, chiếc nhẫn không chỉ là kỷ vật, là món đồ trang sức, không chỉ là biểàu trưng của tình yêu mà nó còn là cái ấn đóng dấu nhằm xác nhận tư cách của một người con và đồng thời cũng xác nhận tư cách của một người được thừa hưởng quyền kế thừa tài sản. Như thế, bằng việc xỏ nhẫn và xỏ dép vào tay chân của người con, người cha trong Tin mừng đã xác nhập mối tương quan cha-con, đồng thời cũng xác nhập quyền thừa kế và trả lại quyền tự do cho nó – điều mà người con thứ không bao giờ nghĩ tới. Chưa hết, người cha còn ra lệnh giết bê đã vỗ béo để ăn mừng cho sự trở về này. Như thế đã rõ, bê chỉ vỗ béo để chờ dịp Đại lễ. Ngày người con trở về và người cha đã hạ bê béo để ăn mừng chẳng phải là dịp Đại lễ mà từ lâu ông hằng ôm ấp mong chờ để có được ngày hôm nay sao ?
Truyện : Thiền sư Sengai.
Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thỏa thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh :”Sáng sớm trời lạnh lắm, con hãy cẩn thận kẻ bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.
Tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa được Đức Giêsu mạc khải là một người Cha. Cha nào mà chẳng thương yêu con bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc chúng đối xử với mình tệ bạc đến đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ bằng hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là sự tha thứ vô điều kiện và sẵn sàng chấp nhận sự đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua hai cách ấy nơi con người Đức Kitô :”Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”.
Trở lại dụ ngôn đứa con hoang đàng, ta hỏi động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình ? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với “thân tàn ma dại”, cha nó biết nó về với động lực gì. Nhưng đối với ông, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó. Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Chúa trong sự hối hậân về đời sống quá khứ của mình.
Truyện : Tình mẹ tha thứ.
Ở Batna, có một gia đình nằêm vào địa điểm hẻo lánh, gồm bà mẹ với các con, mà thằng con lớn phản bội vô số kể, tên là Sidi Melkassen, ưa a tùng với côn đồ du đãng, bị mẹ khiển trách hằng ngày. Mất tự do, thằng đó bực tức, nhất định hai mẹ con không đội trời chung. Liền bắt mẹ đem giam cầm vào một nhà cô tịch tăm tối. Lấy sợi xiềng xích lớn mà xiềng hai chân mẹ nó lại, đoạn đục vách tường gắn móc khóa lại và giữ chìa khóa trong túi. Đành lòng đóng cửa lại trước những tiếng kêu la, khóc lóc, van nài của mẹ.
Trên ba năm trời tồi túng, nóng nực, lạnh lẽo. Không mền, không chiếu, bữa đói bữa no, người mẹ than khóc đã khô nước mắt, kêu không ai nghe, buồn không một lời an ủi.
Chiều nọ, một nàng dâu thảo giật được chìa khóa và mở cửa, tháo xiềng giải thoát cho người mẹ vô phúc. Bà đi ra giữa thanh thiên bạch nhật, không còn hình tượng người nữa, ai nấy đều thương hại. Việc này thấu đến tai nhà chức trách, thằng con bất hiếu bị bắt và kêu án sáu tháng tù ở. Ai nấy đều vỗ tay ca tụng công lý. Chỉ có bà mẹ quên tội của con, cất tiếng lên vừa than khóc vừa xin tòa đừng tống giam con mình tội nghiệp.
Ôi, tình mẹ bao la !
Có sự nghịch lý trong ba dụ ngôn chăng ?
Bài Tin mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý : ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc ? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có tính thuyết phục bao nhiêu : một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó ? Nhưng rồi tất cả đều trở nên hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba : Ý của Chúa Giêsu không nhằm tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa ? Những người biệt phái và luật sĩ thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu qúi giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quí giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao ? Vì con chiên ấy cần được săn sóc hơn 99 con kia : nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên mà chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Đức Giêsu đã làm như người mục tử ấy : Ngài không chờ đợi kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người biệt phái và luật sĩ, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cái đối xứ này đã hoán cải được một người biệt phái nổi tiếng là thánh Phaolô (Trích Carôlô, Sợi chỉ đỏ A, tr 710-711).
III. CHÚNG TA CŨNG PHẢI CƯ XỬ NHƯ VẬY.
Phải thay đổi cách cư xử.
Giáo hội là Mẹ của chúng ta đã từng có cách cư xử như Đức Giêsu, tạo điều kiện để lôi kéo những con chiên lạc đàn trở về với Chúa. Chẳng hạn , Augustinô, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin mừng. Thế mà khi trở về với Giáo hội, Giáo hội đã mở rộng vòng tay đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức Giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảnng đại ấy của Giáo hội, Augustinô đã trở nên một vị thánh.
Chúng ta cũng phải bắt chước Giáo hội mà phải thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hóa nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, biết cầu nguyện cho anh em.
Ý thức mình cũng là tội nhân được tha thứ.
Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con bê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng họ chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tiếng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu tít đầy lôi cuốn của xác thịt.
Vậy chúng ta có phải là con chiên đích thực không hay chỉ là hữu danh vô thực ? Chắc chắên không ai trong chúng ta dám xưng mình là người công chính như luật sĩ và biệt phái, chúng ta vẫn xưng mình là kẻ có tộâi, và nếu đã biết mình có tội thì phải có lối cư xử với người khác bằng tình thương yêu.
Nếu Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lỗi lầm.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ. Đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết :”Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người trở nên mù lòa”.
—————————————————–
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ ĐỢI CHỜ- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúng ta đang tiến gần đến giai đoạn cuối của của Năm Thánh Lòng Thương Xót, ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay làm nổi bật hình ảnh ba chiều về Lòng Thương Xót Chúa: Lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô tận; Chúa thương xót hết mọi loài; Chúa hành động vì xót thương.
Dụ ngôn : “Con chiên lạc” (x. Lc 15, 4-7); ” Đồng bạc bị đánh mất” (x. Lc 15, 8-10); cụ thể hơn cả là dụ ngôn “Tình phụ tử ” (x. Lc 15, 11-32) thể hiện niềm vui viên mãn tràn đầy. Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn “Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng”. Vì đồng bạc vô tình bị đánh mất, con chiên lạc có thể cố gắng tìm thấy đàn của mình, và người mất chiên cũng có thể tìm lại được chiên, nhưng không một trường hợp nào hồi tâm trở về với chính mình. Nên người tội lỗi trở về, Chúa Cha khao tiệc ăn mừng. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, rất mực yêu thương chúng ta như thế.
Cả thiên đàng vui mừng khi ta tội lỗi trở về cùng Chúa
Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn : “Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi” (Lc 15,18). Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và sự hoán cải của người con tìm thấy được tình yêu trìu mến của cha.
Cha Marko I. Rupknik S.I tác giả Logo của Năm Thánh Lòng Thương Xót họa vẽ Chúa Giêsu đang vác con người lầm lạc trên vai, là một minh hoạ tuyệt vời về lòng thương xót Chúa.
Lòng Thương Xót đã trở nên người, mặt Chúa và mặt người giống hệt nhau. Khi vác con người trên vai, Thiên Chúa và con người hướng về nhau, đến nỗi có chung một con mắt. Như thế, Thiên Chúa nhìn con người bằng chính mắt con người, để cảm thông, yêu thương và hoán cải con người. Từ nay con người nhìn vũ trụ vạn vật bằng đôi mắt của Thiên Chúa, mà hiểu được Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa, để sống trong vũ trụ theo chương trình ban đầu của Thiên Chúa là đem lại hạnh phúc cho con người.
Con người bỏ Chúa ra đi, lầm đường lạc lối, đi vào ngõ cụt, bị thương tích. Thiên Chúa vẫn yêu thương mang về. Logo Năm Thánh diễn tả, Chúa tay chân vẫn còn mang thương tích vì bị con người đóng đinh. Nhưng Chúa không quan tâm đến vết thương đau đớn của chính mình, vẫn vội vã, chân thấp chân cao đi tìm con người. Tìm được rồi, Chúa không lên án lỗi lầm, Chúa vác con người trên vai mang về mở tiệc ăn mừng. Đó là tình yêu thương vô biên, yêu thương đến tha thứ những phản bội, yêu thương đến quên mình, dám chết vì người mình yêu. Lòng Thương Xót của Chúa thật vô biên, không ai hiểu thấu, không lý luận nào có thể cắt nghĩa được.
Có người nghi ngờ về lòng thương xót ấy nên mới nói : Tôi tội lỗi lắm, vào xưng tội, cho dù cha có tha, không biết Chúa có tha cho tôi không ?
Xin thưa : Để lãnh ơn tha thứ, cần phải có tội, và cho dù tội có đỏ như son Chúa vẫn tha thứ, vì Chúa là Đấng tha thứ không biết mệt mỏi. Thứ tha là việc của Chúa, lỗi lầm là của con người chúng ta. Con người tha cho nhau còn nhớ lại. Thiên Chúa tha thứ là xóa sạch tội khiên. Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên: nếu xưng tội xong lại phạm, hãy đến tòa giải tội để lĩnh ơn tha thứ. Xin bật mí, ấn tín tòa giải tội luôn được cha giải tội trân trọng giữ gìn, nghe xong quên luôn là việc các cha phải làm.
Có người còn hỏi : Khi ta phạm tội, ta xin Chúa tha thứ, Ngài thứ tha, vậy cần gì phải đến xưng tội với cha cho mất thời gian và thêm phiền toái ?
Quả thật, sau khi phạm tội chúng ta thật lòng hối cải ăn năn tội cách trọn thì đã được Thiên Chúa tha thứ rồi, nhưng nếu ta không đến tòa giải tội, ta không lĩnh nhận được cách trực tiếp ơn tha thứ ấy. Cũng như người con thứ bỏ nhà ra đi, cha anh ở nhà đã sắm cho anh nhẫn vàng, áo đẹp và giầy sang, những thứ đó là của anh, nhưng nếu anh không về thì anh chưa nhận được trực tiếp.
Tìm lại chính mình và trở về với tha nhân
Người con trưởng tuy ở hằng ở cùng cha, nhưng anh đã đánh mất chính mình, tự nhận mình là kẻ làm tôi “con đã làm tôi cha” (Lc 15,29), đánh mất em, em mình mà anh gọi là “thằng con con của cha kia” (Lc 15,30). Và giờ đây anh ta tố cáo cha đã không bao giờ cho anh một con dê con để mừng lễ với bạn bè. Tội nghiệp người cha! Một đứa con bỏ nhà, đứa kia thì lại đã không bao giờ gần gũi cha thực sự! Ông đã mất cả hai thằng con. Cái khổ đau của người cha giống nỗi khổ đau của Thiên Chúa, khi chúng ta rời xa, hay bởi vì chúng ta ở xa hoặc vì chúng ta ở gần nhưng lại không gần. Người anh cả cũng cần phải trở về. Những người công chính, những người tin rằng mình công chính cũng cần lòng thương xót.
Đạo của chúng ta không phải là đạo ghen tị, được thua mà là đạo của tình thương. Chúng ta buồn vì anh em thành công, được ưu đãi hơn mình, tìm cách hạ bệ, thậm trí đối xử với đồng loại, cả đồng đạo, tệ hơn nữa là coi cha mẹ, anh em ruột thịt mình như kẻ thù, không bằng người dưng nước lã. Lúc ấy cần phải sám hối trở về với chính mình và anh em.
Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh.
Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.
——————————————–
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
YÊU THƯƠNG, THA THỨ LÀ BẢN CHẤT CỦA THIÊN CHÚA- Jos.Vinc. Ngọc Biển
Trong cuộc sống, chúng ta vẫn thường nghe đâu đó những lời bàn tán: “tại sao Thiên Chúa không phạt nhãn tiền những kẻ tội lỗi, kiêu căng, tự phụ và làm những chuyện gian ác! Thiên Chúa phải chăng dung túng cho những kẻ bất lương, để họ tha hồ lộng hành và ‘tác oai tác quái …?’” Khi có những suy nghĩ như vậy, chúng ta quên mất một điều căn bản về Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa làm những chuyện ngược lại với bản chất của Ngài, thì Ngài không còn là mình nữa, bởi vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cách tiệm tiến cho chúng ta thấy rất rõ về lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa qua các bài đọc.
1.Ý Nghĩa Lời Chúa
Khởi đi từ bài đọc I: sách Xuất hành trình thuật cho chúng ta biết, sau khi rời khỏi Aicập, dân Do Thái là một toán người ô hợp, nên Thiên Chúa đã thiết lập Giao Ước với họ để củng cố trật tự cho dân. Chiếu theo những điều khoản trong quy định của luật Giao Ước, Thiên Chúa chọn dân Israel làm dân riêng của mình và dân chúng thì tôn thờ Thiên Chúa, trung thành với điều luật đã được ký kết. Tuy nhiên, không lâu sau khi ký kết Giao Ước, dân đã bội thề với Chúa, đã đúc và thờ bò vàng là một thứ ngẫu tượng thay thế Thiên Chúa. Tệ hơn và xúc phạm đến Thiên Chúa cách nặng nề là họ đã coi bò vàng như là Đấng đã giải thoát họ ra khỏi ách nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa nổi nóng và muốn diệt trừ, nhưng qua Môsê, ông đã xin Chúa tha thứ cho dân, Ngài đã đồng ý và sẵn sàng tha, không còn có ý định tiêu diệt dân nữa.
Sang bài đọc II: thánh Phaolô nhắc lại cho ông Timôthê về lòng thương xót mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Nếu Chúa không tha thứ, thì ông không thể được phần phúc biết và rao giảng về Đức Kitô Giêsu, bởi chưng trước kia ông là một người phỉ báng danh Chúa như chính ông đã bộc lộ: “Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót, vì cha vô tình làm những sự ấy trong lúc cha chưa tin”.
Đỉnh cao là bài Tin Mừng: bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu thường xuyên tiếp xúc với những người thu thuế và những người tội lỗi, vì họ rất thích nghe Ngài giảng. Thấy được điều đó, những người Pharisiêu và những người Biệt Phái liền xầm xì với nhau, đồng thời bàn tán về hành động của Đức Giêsu đang làm. Thấy vậy, Ngài mới kể cho họ nghe một loạt dụ ngôn, nhằm giúp cho họ nhận ra bản chất của Thiên Chúa.
Bắt đầu từ dụ ngôn “chiên lạc”: qua dụ ngôn này, Thiên Chúa được ví như người mục tử, sẵn sàng bỏ 99 con còn lại để đi tìm 1 con thất lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào ta không biết, chỉ biết là nó đã tách ra khỏi đàn và biến mất khi chiều về. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu được rằng: nó đang trong hoàn cảnh cùng cực, lấm lem và đối diện với sự nguy hiểm vì không nhận được sự chăm sóc của chủ nó cũng như không có sự bảo vệ tập thể. Thấy được nỗi sợ hãi, bơ vơ… của chiên bị lạc và với bản chất của người chủ chiên tốt lành, ông đã lên đường đi tìm. Nếu xét về góc độ toán học thì ông chủ này quả là vô lý khi chấp nhận bỏ lại 99 con để chỉ đi tìm 1 con bị lạc. Vô lý vì 1 so với 99 thì 1 không có ảnh hưởng đến kinh tế là mấy. Mất 1 ông cũng không nghèo đi chút nào cả. Tuy nhiên, với ông thì sự giàu nghèo thua thiệt về số lượng không quan trọng, điều quan trọng chính là mỗi một con chiên đều có giá trị trước mặt ông, vì thế ông không thể để mất nó được. Một hành động hết sức gợi cảm, đó là ông chủ tìm được rồi thì vác nó lên vai. Hành động vác trên vai thể hiện sự trân trọng, yêu mến và nâng niu. Chấp nhận tha thứ tất cả và thể hiện tình thương trọn vẹn cho nó. Thiên Chúa là thế đó.
Tiếp theo là dụ ngôn “đồng bạc bị mất”: 1 đồng bạc ở đây chỉ có giá trị bằng một ngày công thời bấy giờ. Mất một đồng tức là bị mất một phần rất nhỏ về giá trị vật chất. Nhưng lạ kỳ thay, khi mất một đồng như vậy, người đàn bà đã làm mọi cách để tìm cho bằng được đồng bạc đã mất. Nào là thắp đèn, quét nhà, moi móc, và khi tìm được rồi thì vui mừng mời hàng xóm láng giềng đến chung vui. Hành vi này của người đàn bà trong dụ ngôn lại trở nên khó khăn hơn rất nhiều, bởi vì nhà của người Do Thái thời đó rất thiếu ánh sáng, trật trội. Còn nền nhà thì làm bằng đất và được phủ lên bằng những tấm liếp được đan bằng sậy và cành cây đã khô. Tìm một đồng bạc như vậy chẳng khác gì “mò kim đáy biển…”. Tuy nhiên, bà vẫn cố tìm, khi tìm được, bà sẵn sàng mời mọi người đến chung vui. Tìm được một đồng, mà lại mời hàng xóm đến chung vui thì quả là một người không biết tính toán. Nhưng không, bà nghĩ đồng bạc tìm thấy là cái gì đó gắn liền với bà, nên tìm được rồi thì niềm vui nhân lên gấp nhiều lần chi phí phải trả để mời bạn bè. Thiên Chúa là thế đó.
Cuối cùng là dụ ngôn “người con hoang đàng”: với người Do Thái thì việc xin cha mẹ chia gia tài cho mình lúc còn sống chính là một điều bất kính, chẳng khác gì mong cho cha mẹ chết sớm. Dụ ngôn cho thấy, ông chủ có hai người con, và lẽ dĩ nhiên hai người con của ông chính là điểm tựa lúc về già. Ấy vậy mà người con thứ đã ngạo ngược xin cha chia gia tài cho mình. Vì tình thương, và tôn trọng sự tự do, người cha không nghĩ gì cho mình, nên đã sẵn sàng chia gia tài theo ý con của mình xin. Có được tiền bạc trong tay, người con thứ ra đi, ăn chơi, đàn điếm và phung phí hết tiền bạc, kết cục bằng việc phải đi làm mướn bằng nghề chăn nuôi heo. Đây là công việc mà người Do Thái cho là ghê tởm và đáng bị nguyền rủa, bởi vì loài heo là loài ô uế và hình ảnh của Ma Quỷ. Sống trong tình trạng cơ cực như vậy, nó mới hồi tâm và quyết định trở về với cha mình. Khi nó trở về, người cha không hề oán trách tại sao mày ra nông nỗi này, hay tiền có còn hay hết, hoặc mày muốn đi thì cho đi luôn, đừng quay trở lại nữa. Không! Người cha đã trông mong nó trở về từ lâu, ngày nó ra đi cũng là ngày người cha sống trong hy vọng được gặp lại nó. Quả thật, khi nó quay về, ông vui mừng khôn siết, không cần suy nghĩ gì cả, và việc đầu tiên ông làm là ôm hôn nó. Sau đó là phục hồi nhân phẩm cho đứa con tội nghiệp của mình. Nào là: xỏ giầy vào chân cậu, đây là dấu chỉ của người được tự do, không còn là nô lệ cho ông chủ nào đó mà con ông đã từng bị bắt phải chăn heo. Trao nhẫn vào tay cho cậu, hành vi này thể hiện sự phục hồi hoàn toàn nhân phẩm cho đứa con một thời dại dột. Và, cuối cùng, ông đã mở tiệc ăn mừng vì việc con ông trở về. Sự trở về của người con thứ được ví như “đã mất mà nay tìm thấy, đã chết mà nay sống lại”. Thiên Chúa là thế đó.
2.Sứ Điệp Lời Chúa
Như vậy, qua các bài đọc hôm nay, phụng vụ Lời Chúa làm toát lên bản chất của Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa luôn yêu thương con người; Ngài là Đấng luôn luôn tha thứ, cảm thông và sẵn sàng chết cho người mình yêu. Thật vậy, bình thường, không một ai lại bất thường đến độ bỏ 99 con chiên để đánh đổi 1 con; mất một đồng bạc lại tốn công hại sức để đi tìm và tìm được rồi lại mở tiệc khao xóm giềng chỉ vì tìm được một đồng. Nhưng những điều xem ra nghịch lý đó được trở nên hợp lý khi chúng ta bước sang dụ ngôn thứ ba nói về người cha nhân hậu. Thật vậy, Thiên Chúa luôn luôn tha thứ và sẵn sàng chấp nhận tất cả, miễn là con người có sự trở về và tỏ lòng sám hối. Với Chúa, hình ảnh 1 con chiên và đồng bạc là một cái gì đó quý giá trước mặt Ngài, bởi vì mỗi người đều là một hữu thể duy nhất trước mặt Chúa, nên cần được Chúa yêu thương. Tấm lòng của Thiên Chúa là tấm lòng của một người cha nhân từ, tha thứ. Người Cha này không thể ngủ yên khi con của mình đang thiếu thốn tình thương, đang sống trong tình trạng nguy hiểm. Một người chủ chiên không thể nào “bình chân như vại” khi biết trước được vận mệnh của con chiên đi lạc. Một người phụ nữ không thể nào chấp nhận mất đi cái mà mình luôn coi trọng vì nó gắn liền với cuộc sống của bà. Thiên Chúa là như thế đó. Ngài đã yêu là yêu đến cùng. Thật vậy, tận cùng của tình yêu là yêu không giới hạn.
3.Sống Lời Chúa Trong Cuộc Sống Hôm Nay
Chúng ta thật hạnh phúc vì có một vị Thiên Chúa giàu lòng xót thương, một vị Thiên Chúa luôn đồng hành, tha thứ và xóa bỏ hết những tội lỗi cho chúng ta cho dù tội của chúng ta có nặng tới đâu: “dù tội con có đỏ như son, Ta cũng làm cho trở nên trắng như tuyết. Có thẫm tựa vải điều, Ta cũng làm nên trắng như bông”. Vì thế, noi gương Chúa, chúng ta cần phải có thái độ tha thứ và nhận định đúng về người anh chị em của chúng ta. Không ai là xấu hết, cũng như không ai là tốt hết. Đã là con người, ai cũng có những sự bất toàn của mình. Thái độ của chúng ta đôi khi cũng giống như những người Biệt Phái và Kinh Sư khi xưa là tìm cách bắt bẻ anh chị em mình để “bới lông tìm vết” và vạch trần những tội lỗi của anh chị em. Đôi khi lại còn thích thú khi thấy người khác sa ngã, vì đây là cơ hội để mình lên mặt dạy đời, hay có những khi tỏ vẻ nhân từ để sửa lỗi cho anh chị em mà lại vô tình đẩy anh chị em chúng ta vào chỗ chết.
Thật vậy, Lời Chúa ngày hôm nay dạy cho chúng ta phải có lòng nhân từ đích thực như Thiên Chúa, phải vui mừng vì thấy người anh chị em chúng ta sám hối trở về, đừng bao giờ vội kết luận người khác là “đồ bỏ”. Muốn làm được điều đó, thiết nghĩ mỗi chúng ta cũng cần nhận ra mình là kẻ tội lỗi và đã được Chúa yêu thương. Biết bao lần nếu Chúa không cho chúng ta có cơ hội để làm lại thì ta đã mất ơn nghĩa với Chúa từ lâu rồi. Trong kinh Vực Sâu có viết: “Nếu Chúa chấp tội thì nào ai rỗi được”.
Thật vậy, trước mặt Chúa, chúng ta phải thành thật mà thú nhận rằng: đôi khi chúng ta không phải là đứa con đi hoang, ra khỏi nhà để sống một cuộc sống trụy lạc như người con thứ, song nhiều lúc, chúng ta lại đi hoang trong cõi lòng. Môi miệng thì đọc kinh, hằng ngày vẫn đi lễ, nhưng hành động và thái độ yêu thương lại quá xa vời hay hời hợt với tinh thần của Chúa. Có những người nói là con chiên ngoan đạo, nhưng không thể hướng một ánh mắt thân thiện, một nụ cười cởi mở, một cái bắt tay chân tình với những người mà ta không ưa. Như vậy, chúng ta chính là những người đang đi hoang, lạc đàn về tâm linh như người con cả. Ở trong nhà cha mà bấy lâu anh ta cứ tưởng mình như người làm công cho cha mà thôi, và tệ hơn nữa là có những hành xử thiếu tình gia đình với em của mình.
Như vậy, nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với chúng ta, mặc dù chúng ta đáng tội chết, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho những người xúc phạm đến ta. Kinh nghiệm cho thấy, chúng ta không thể tha thứ được cho người khác là vì chúng ta luôn nghĩ mình tốt lành hơn họ. Nhưng trong thực tế, đôi khi tội của ta còn nặng hơn gấp bội lỗi của anh chị ta, chỉ có điều tội của ta thì không ai biết nên ta dễ dàng vênh vang và tự phụ, nhưng Chúa biết cả. Bao lâu chúng ta nghĩ mình cũng là người yếu đuối và đã được Thiên Chúa yêu thương thì chúng ta cũng cần tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho chúng ta.
Lạy Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Xin tha thứ cho những thiếu xót của chúng con; đồng thời xin ban cho mỗi chúng con cũng có một trái tim, ánh mắt nhân từ như Chúa, để chúng con sẵn sàng tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm và có lỗi với chúng con. Amen.
———————————————-
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY CHIA VUI VỚI TÔI- Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong ba dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc và vác chiên lên vai rồi về nhà mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đồng bạc mất cũng mời lối xóm đến chia vui; người cha có đưa con đi hoang trở về liền mở tiệc ăn mừng.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
Chúa Giêsu bày tỏ niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, “trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”; ở dụ ngôn thứ hai “các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”; và ở dụ ngôn thứ ba “phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống, đã thất lạc mà nay lại tìm thấy”.
Tội nhân hối cải, không những được tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, trở về sống trong tình thương của Thiên Chúa.
Hôm nay xin suy niệm về “Dụ ngôn người cha nhân hậu”. Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn này là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
Người con thứ
Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà. Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Anh ta ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến nó trở về ? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây ! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn ? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao ? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi. Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin, nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp, nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc. Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Đọc câu chuyện, tôi nhận thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, khi ngồi giải tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa; mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều người như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
Người con cả
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có. Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Hoá ra cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẽ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu sự tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “ không như thằng con của cha” Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: “con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẽ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, tìm lại niềm vui và sự sống.
Người cha
Khi chia gia tài cho con lòng cha đau đớn. Vì tôn trọng tự do của con chứ không phải cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải, muộn phiền vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con làng xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái, người ta mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha. Cha đã tha thứ cho con trước khi con tự thú. Cha vui vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc, cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt mà nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức mà lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
“Hãy chia vui với tôi”
Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng, niềm vui chính là vẻ đẹp của Tin Mừng: “Niềm vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và đời sống tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Những ai tiếp nhận đề xuất cứu rỗi của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn sầu, trống rỗng và cô đơn nội tâm. Với Chúa Kitô, niềm vui luôn luôn trổ sinh như mới”. (x.Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng).
Hạnh phúc là niềm vui, khi người ta vui thì hạnh phúc, khi người ta hạnh phúc thì người ta vui. Rất đơn sơ và rất dễ hiểu. Niềm vui là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Những niềm vui làm thành cuộc đời. Niềm vui làm cho mỗi tâm hồn trở nên ấm cúng. Niềm vui chỉ thực sự có khi yêu thương. Khi không có tình yêu thì không có niềm vui thực sự.
Niềm vui là nét tiêu biểu của người Kitô hữu. Sống ở đời ai cũng mong mình có được niềm vui sống và nỗ lực đi tìm niềm vui. Người Kitô hữu xác tín rằng, niềm vui đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa. Một khi biết mình đã có Chúa thì mọi âu lo buồn phiền sẽ không còn. Càng khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, càng gia tăng niềm vui sống. Càng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống, niềm vui sống càng sâu sắc bền vững. Niềm vui trong Chúa luôn là một niềm vui gia tăng sức mạnh cho tâm hồn trước những nghịch cảnh, đau khổ của kiếp người. Niềm vui trong Chúa cũng là niềm vui biến đổi đau thương thành hạnh phúc. Niềm vui trong Chúa giúp cho mỗi người có nghị lực vươn lên vượt qua nghịch cảnh.
“Hãy chia vui với tôi”, Thiên Chúa vui mừng khi con người sống thân mật với Ngài trong tình cha con.
“Hãy chia vui với tôi”, đó cũng là lời mời gọi mỗi kitô hữu chia sẻ niềm vui đức tin với anh em mình trong cuộc sống hàng ngày.
——————————————————
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
TÌNH CHÚA XÓT THƯƠNG- Trích Logos năm C
Ngày 21/9/1792 chế độ quân chủ tại Pháp đã bị sụp đổ và nền cộng hòa được chính thức thành lập. Vị vua cuối cùng là Louis 16 bị hành quyết và cả gia đình ông bị giam trong ngục thất, trong đó có hoàng tử và cũng là nhi vương Louis 17, lúc đó mới 10 tuổi. Do điều kiện giam cầm khắc nghiệt, Louis 17 đã chết vì bệnh lao trong tù. Khi giảo nghiệm tử thi, viên bác sĩ tên Pelletan vì quá thương vị nhi vương nên đã đem trái tim về bỏ trong một cái lọ bằng phalê đựng cồn Ethylique để bảo quản.
Khi bác sĩ Pelletan qua đời, trái tim của Louis 17 đã lưu lạc khắp nơi : bị đánh cắp, bị ăn cướp và qua tay không biết bao nhiêu người.
Vào năm 1975, người ta tìm thấy trái tim này, được các nhà khoa học kiểm chứng bằng mẫu AND và được trưng bày tại thánh đường Saint – Denis tại Paris, nước Pháp. Ngày 8/6/2004 vừa qua, trái tim này đã được an táng nơi phần mộ các vị vua nước Pháp. Thế là quả tim của Louis 17 đã trở về với gia đình mình sau một cuộc hành trình dài hơn 200 năm lưu lạc khắp nơi.
Trong ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa đã được thánh sử Luca trình bày trong bài Tin Mừng hôm nay : con chiên đi lạc, đồng tiền đánh mất, người con hoang đàng mà nổi bật nhất là dụ ngôn người con hoang đàng hay còn gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu. Cũng giống như trái tim của Louis 17, trái tim người con đi hoang đã trở về xum họp với gia đình sau một cuộc hành trình dài trong tội lỗi. Nhưng đáng nói hơn cả là hình ảnh trái tim người cha nhân hậu. Trái tim ấy đã mở rộng để đón nhận người con tội lỗi trở về. Trái tim ấy quá lớn, chất chứa biết bao yêu thương và tình tha thứ. Trái tim ấy là trái tim của Thiên Chúa đầy tình xót thương.
Lý lẽ của trái tim.
Pascal đã nói : “trái tim có lý lẽ mà lý trí không thể hiểu được”. Quả thật, người ta không thể hiểu được tình yêu của Thiên Chúa qua các dụ ngôn hôm nay :
Người chăn chiên đã bỏ 99 con chiên đi tìm một con chiên lạc. Cuộc hành trình tìm kiếm có lẽ đầy khó khăn và hiểm nguy. Nhưng điều quan trọng hơn cả, người chăn chiên có thể mất 99 con chiên trong hoang địa vì thú dữ hay vì kẻ trộm. Biết đâu không tìm được con chiên lạc, người chăn chiên sẽ trắng tay. Nhưng vì quá yêu thương con chiên thứ 100, con chiên có lẽ gầy gò ốm yếu không theo kịp đàn nên đi lạc, người chăn chiên đã bỏ tất cả để đi tìm kiếm con chiên ấy. Khi tìm thấy nó, anh ta đã vác chiên trên vai vui mừng trở về mời bạn hữu đến chung vui. Chúa Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành đã yêu quí mọi người và trân trọng với từng người, dù đó là kẻ tội lỗi và hư hỏng. Trái tim Chúa có đủ lý lẽ để đón nhận những người đã hư mất : “trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì 99 người công chính không cần hối cải”.
Người đàn bà có 10 đồng bạc đánh rơi một đồng. Bà đã đốt đèn, quét nhà, tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy. Khi đã tìm thấy bà mời chị em hàng xóm đến chung vui. Chắc hẳn đối với bà đồng bạc thật quí giá, đến nỗi bà đã vất vả tìm kiếm giữa đêm khuya cho đến khi tìm thấy, lại còn đánh thức hàng xóm đến chia sẻ niềm vui rất lớn lao của bà. Ai có thể hiểu được đồng bạc tuy thật nhỏ bé nhưng lại có một ý nghĩa rất to lớn đối với bà. Chỉ có tình yêu mới giải nghĩa được việc làm của trái tim. Cũng thế, mỗi người là một đồng bạc nhỏ bé trong bàn tay nhân lành của Chúa. Ngài không muốn đánh mất một đồng nào, trái lại luôn nâng niu và gìn giữ với tình yêu vô biên.
Dụ ngôn người con hoang đàng càng làm cho người ta khó hiểu hơn nữa : người con thứ đòi người cha chia gia tài, sau đó đã mang tiền bạc đi ăn chơi phung phá. Đến khi hồi tâm và tỉnh ngộ, anh ta quay trở về, người cha sau bao ngày mong ngóng đợi chờ, vừa nhìn thấy đứa con hoang đàng, đã chạy đến ôm hôn anh ta. Không những ông đã tha thứ tất cho con mà còn sai mang giày đến cho anh ta đi, xỏ nhẫn vào tay anh ta, lại còn giết bê béo ăn mừng. Ông vui mừng vì con ông “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
Trái tim phung phí tình yêu.
Chúa Giêsu mang trái tim nhân loại nhưng chứa đầy tình xót thương của Thiên Chúa. Đi đến đâu, ở bất cứ nơi nào, Ngài cũng mang theo trái tim ấy. Ngài là vị Mục Tử Tốt Lành đi tìm con chiên lạc bằng đôi chân của tình yêu, Ngài tìm thấy đồng bạc đánh rơi bằng đôi mắt của con tim. Ngài mở rộng trái tim để đón nhận những người con đi hoang trở về. Tấm lòng Ngài tràn đầy tình xót thương đối với các tội nhân.
Tấm lòng Ngài luôn mở ra để đón nhận người tội lỗi. Những người biệt phái và luật sĩ không thể hiểu được khi thấy Chúa ngồi cùng bàn với “bọn thu thuế” và “quân tội lỗi” (Lc 5, 30). Ngài làm cho người biệt phái phải ngạc nhiên khi để cho người phụ nữ tội lỗi rửa chân bằng nước mắt và lấy tóc mình mà lau (Lc 7, 36- 39). Người ta còn cảm thấy thật khó hiểu khi Chúa tha thứ cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (Ga 8, 1-11). Người ta càng kinh ngạc hơn nữa khi Chúa đưa về trời tên trộm cướp bị đóng đinh bên cạnh mình (Lc 23, 43).
Tất cả những điều khó hiểu về lòng thương xót của Chúa chỉ có thể giải thích rằng : trái tim Chúa luôn phung phí tình yêu, đến nỗi đã cho đi đến cả giọt máu cuối cùng.
Một người Ả rập đến nước Mỹ du lịch và tham quan. Vì sống trong một đất nước toàn sa mạc, khan hiếm nước, người Ả rập đứng rất lâu trước một thác nước đang chảy, đến nỗi người hướng dẫn viên du lịch phải hối thúc ông đi tham quan chỗ khác, ông ta trả lời : “tôi muốn đứng nhìn xem đến bao giờ Thượng Đế mới thôi phung phí ơn của Người”.
Đúng thật, cõi lòng Thiên Chúa là đại dương tình thương mà không gì có thể tát cạn được. Trái tim Người luôn tuôn trào tình thương xót như dòng thác đổ bất tận. Thiên Chúa giàu lòng xót thương đã tha thứ cho dân tộc Israel ngay cả khi họ phản bội Người để tôn thờ con bò vàng (bài đọc 1, trích sách Xuất Hành). Vì thế, chúng ta hãy luôn sống tâm tình tạ ơn của thánh Phaolô vì lòng nhân từ thương xót của Người đã biến đổi ngài từ một người bắt đạo Chúa trở thành một tông đồ nhiệt thành (bài đọc 2, trích thư thứ nhất gửi Timôthêô). Chúng ta hãy mở rộng vòng tay đón nhận anh em bằng tình thương xót, bằng trái tim nhân hậu. “Trong đại dương tình yêu Thiên Chúa, mỗi người múc lấy tùy theo dung tích bình chứa họ mang đến” (thánh Gioan Thánh giá). Trái tim chúng ta càng lớn, càng nhận được nhiều tình yêu và càng cho đi, trái tim càng trở nên giàu có.
Cuộc bắt cóc con tin ở Beslan (bắc Osetia, nước Nga) đã kết thúc, nhưng dư âm đau thương và cay đắng vẫn còn mãi. Tuy nhiên, giữa bạo lực và hung tàn, người ta vẫn tìm thấy những tấm gương lấp lánh tình người :
Ngày 01/9/2004, 32 tên khủng bố đã vào trường tiểu học số 1 bắt hơn 1000 người vừa giáo viên, phụ huynh và học sinh làm con tin. Ngày 03/9/2004, những tên khủng bố bắt đầu sát hại con tin, quân đội Nga đã tấn công vào ngôi trường.
Cô giáo Alena, 28 tuổi, đã bảo vệ các em học sinh lớp mình như gà mẹ bảo vệ đàn gà con. Cô đã dẫn các em thoát ra ngoài và cô là người cuối cùng rời khỏi căn phòng giam giữ. Nhưng không kịp, bức tường đã đổ sụp xuống trên người cô. Thân xác cô bị nát tan, nhưng trái tim cô vẫn đập mãi nhịp yêu thương trong lòng mọi người.
Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim quảng đại, luôn biết rung động trước những đau khổ của tha nhân. Xin cho con biết thương xót người như con đã được Chúa xót thương.
——————————————————————-
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN C
LÒNG THƯƠNG XÓT- Lm Phê rô Trần Thanh Sơn
Bài đọc 1: Xh 32, 7-11. 13-14
Bài đọc 2: 1 Tm 1, 12-17
Tin mừng: Lc 15, 1-32
Lời Chúa trong Chúa Nhật vừa rồi đã mời gọi mỗi người chúng ta làm một cuộc chọn lựa dứt khoát, để đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu. Sự chọn lựa này quả thật không dễ dàng, và nhất là việc sống trọn vẹn sự chọn lựa này cho đến cùng thì càng khó khăn hơn nữa.
Thật vậy, trong cuộc sống của mình, chắc hẳn mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm chua xót về sự sa ngã và sự thất bại không thể thực hiện được những quyết tâm của mình. Và cũng đã có những lần chúng ta có cảm thấy như tuyệt vọng trước những yếu đuối của mình.
Thế nhưng, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy rõ lòng thương xót của Thiên Chúa. Cho dù chúng ta có yếu đuối tội lỗi đến đâu thì Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi, thậm chí Ngài còn lên đường để dẫn đưa chúng ta trở về lại với tình yêu của Ngài. Đây quả là một tin mừng to lớn cho mỗi anh chị em chúng ta.
Tin mừng của lòng thương xót:
Trong bài đọc một, Môisen đã nại vào lòng thương xót của Thiên Chúa để xin Ngài tha thứ cho sự bội bạc, bất trung, cứng đầu, cứng cổ của dân Do Thái. Họ đã quên mất Thiên Chúa, Đấng vừa giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, mà quay sang đúc tượng bò vàng để thờ lạy. Trước lời kêu nài khẩn thiết của Môisen, Thiên Chúa “đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người”. Như thế, lòng thương xót đã chiến thắng tội lỗi, tình yêu đã vượt qua sự bất trung.
Còn bài đọc hai là lời tạ ơn của thánh Phaolô trước tình yêu vô bờ mà Thiên Chúa đã dành cho thánh nhân. Thánh Phaolô tạ ơn Chúa vì Ngài đã thương xót tha thứ cho sự kiêu căng của thánh nhân trước kia, và hơn nữa còn chọn thánh nhân làm tông đồ cho Chúa. Thánh Phaolô tâm sự với Timôthê: “Dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng, nhưng cha đã được Thiên Chúa thương xót”. Thánh nhân đã cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa luôn đeo đuổi và quật ngã thánh nhân trên đường Đa-mát, để biến đổi thánh nhân từ một người hăng say bắt đạo trở nên một “tông đồ dân ngoại”.
Kể từ khi bị Đấng Phục Sinh quật ngã trên đường Đa-mát, cho dù bản thân có gặp phải nhiều hiểu lầm và chống đối, cho dù có bị đòn vọt, tù tội … đi chăng nữa, thì đối với thánh Phaolô, tất cả vẫn là do lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dùng tất cả những điều đó để rèn luyện Phaolô trở nên một khí cụ sắc bén của Ngài, và nhất là qua đó, Ngài ban ơn cứu độ cho Phaolô. Chính trong niềm xác tín vào tình thương cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, thánh nhân nói với Timôthê: “Lời nói chân thật và đáng tiếp nhận mọi đàng là Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian nầy để cứu độ những người tội lỗi”. Và thánh nhân khẳng định: “Trong số ấy, cha là người thứ nhất”. Thánh nhân đã thực sự cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa nơi bản thân mình.
Lòng thương xót của Thiên Chúa còn được thánh Luca làm nổi bật hơn với các chi tiết thật bất ngờ và thú vị như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng. Đầu tiên là việc người chủ tìm được con chiên lạc và người đàn bà tìm được đồng bạc bị mất, cả hai đã làm một chuyện mà có lẽ chẳng ai trong chúng ta làm, đó là loan báo cho bạn bè thân hữu biết và mời gọi họ cùng chung vui với mình. Niềm vui này lại được thánh Luca đẩy lên tới đỉnh điểm, với việc người cha dọn tiệc lớn ăn mừng vì khi con ông trở về. Mà đứa con này nào có phải là một đứa ngoan ngoãn, chăm chỉ, học giỏi gì đâu. Đúng ra đó là đứa con đã từng phá tán hết nửa phần gia tài của ông. Thế nhưng ông vẫn vui mừng, vì đối với ông tài sản không quan trọng, con ông mới là điều ông quan tâm, bởi vì ông ý thức được rằng: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì” (Mt 16, 26). Hay nói theo cách nói của cha ông chúng ta, tâm niệm của người cha trong bài Tin mừng này là “người còn thì của còn”, người quan trọng hơn của.
Lòng thương xót của Thiên Chúa tuy bao la, nhưng để nhận được lòng thương xót này, mỗi người cũng phải biết lên đường trở về với Thiên Chúa, như người con thứ lên đường trở về với Cha nó.
Lời mời gọi trở về:
Nếu như người mục tử đã lên đường vượt núi non để tìm con chiên lạc, và người đàn bà đốt đèn lên soi mọi xó xỉnh, ngõ ngách trong nhà để tìm cho được đồng bạc mất, đó là vì con chiên thì vô tri, còn đồng bạc thì lại không thể tự mình di chuyển. Còn người con trong câu chuyện thì muốn hưởng được lòng thương xót của cha, thì anh ta phải tự mình lên đường trở về. Thật vậy, cho dù hết lòng thương con, nhưng Cha anh không thể làm tiệc, may áo mới, đeo nhẫn, mang giày cho anh, nếu như anh không trở về. Người cha tuy hết lòng yêu thương anh ta, sẵn sàng tha thứ cho anh tất cả, nhưng ông vẫn không cưỡng ép anh, ông vẫn tôn trọng tự do và sự chọn lựa của anh. Và nếu xét kỹ, chúng ta thấy đó mới chính là tuyệt đỉnh của tình yêu. Tình yêu thật không gượng ép nhưng luôn đợi chờ, và sẵn sàng tha thứ.
Mặt khác, chính vì người cha để cho con mình tự quyết định việc trở về của anh ta, nên hành vi này của anh ta trở nên có giá trị đặc biệt, vì đó là một hành vi được anh thực hiện với tất cả tự do và lý trí của anh. Anh đã từng quyết định bỏ nhà ra đi, ăn chơi, phung phá, và giờ đây, anh cũng phải tự mình quyết định trở về với cha, cho dù việc trở về này chỉ vì anh ta sắp chết đói, nhưng dù sao, đó cũng là một quyết định của riêng anh.
Sống trong tình thương xót:
Lắng nghe lời Chúa hôm nay cũng đòi mỗi người chúng ta một cuộc trở về thật sự. Chắc ai trong chúng ta cũng đã có một kinh nghiệm về sự vấp ngã không chỉ một lần mà thật nhiều lần của bản thân. Sự vấp ngã này nhiều đến nỗi lắm lúc làm chúng ta ngã lòng vì nghĩ rằng mình không đủ sức chỗi dậy, và không đáng được tha thứ. Nhưng thật ra, tình yêu của Thiên Chúa là không giới hạn. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ tất cả, miễn là chúng ta nhận ra lỗi lầm của mình và dám đặt tất cả những yếu đuối tội lỗi của chúng ta trong trái tim bị đâm thâu của Ngài.
Đồng thời với việc trở về để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, lời người cha trong bài Tin mừng nói với người anh: “Hỡi con,… phải ăn tiệc vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” cũng là lời mời gọi mỗi người chúng ta mở lòng mình, để đón nhận sự trở về của anh chị em chúng ta. Chúng ta hãy can đảm trở về làm hoà với Thiên Chúa và anh chị em qua việc siêng năng lãnh nhận bí tích Giao Hoà.
Giờ đây, tin tưởng vào lòng Chúa xót thương, chúng ta thật lòng sám hối xin Ngài thứ tha mọi lỗi lầm của chúng ta, để chúng ta xứng đáng tham dự vào hiến lễ của tình yêu, bí tích của hiệp nhất sắp được cử hành trên bàn thờ đây. Để rồi khi trở về nhà, chúng ta tiếp tục chia sẻ cho anh chị em mình tình yêu tha thứ của Thiên Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận. Nhờ đó, ngày càng có nhiều người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa. Amen.



































