Lễ Chúa Hiển Linh – Năm C
ÁNH SAO LẠ (*)
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
***
Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta suy niệm về Giáo Hội, Bí Tích Hiệp Nhất toàn thể gia đình nhân loại chung quanh Hài Nhi Giê-su, Đấng Cứu Độ của mình.
Is 60: 1-6
Ngôn sứ I-sai-a loan báo hình ảnh vinh quang của Giê-ru-sa-lem mới, tiên trưng Giáo Hội: “Muôn dân muôn nước sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”.
Ep 3: 2-3a, 5-6
Thánh Phao-lô có sứ mạng loan báo “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa” nay được tỏ lộ, đó là muôn dân muôn nước trên khắp toàn cõi địa cầu đều được kêu mời họp thành một dân tộc duy nhất là Giáo Hội, trở nên một thân thể duy nhất là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Giê-su Ki tô.
Mt 2: 1-12
Từ một hiện tượng thiên nhiên: ánh sao lạ, đến Mặc Khải: Lời Chúa, các nhà chiêm tinh, tiên trưng Giáo Hội, được soi lối chỉ đường đến thờ lạy Chúa Hài Nhi, Đấng Cứu Độ trần gian.
BÀI ĐỌC I (Is 60: 1-6)
Các ngôn sứ Cựu Ước đều đã công bố chiều kích phổ quát của sứ mạng Giê-ru-sa-lem. Các ngài đã mở rộng những viễn cảnh của dân Ít-ra-en vượt qua chủ nghĩa quốc gia và nhấn mạnh một trong những yêu sách mà ơn gọi của họ đòi hỏi: phải là ánh sáng cho muôn dân muôn nước.
Bản văn được chọn để mừng lễ Hiển Linh được trích từ tác phẩm của một trong số các ngôn sứ nầy. Ông là vị ngôn sứ vô danh, môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vì thế người ta gọi ông là I-sai-a đệ tam (Is 56-66). Ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem giữa những năm 537-520, nghĩa là sau cuộc hồi hương trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.
1.Vinh quang của Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới (6: 1-2).
Ông loan báo một sứ điệp đầy tin tưởng và lạc quan để an ủi một cộng đoàn chán chường và thất vọng.
Cuộc trở về quê cha đất tổ đã đem lại một tinh thần phấn chấn cho những người hồi hương; nhưng rồi sớm vỡ mộng. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bần cùng và thưa thớt người, chẳng khác gì một làng quê. Cảnh Đền Thờ hoang phế trơ gan cùng tế nguyệt gần năm mươi năm trường. Đất đai bị những người ngoại kiều, nhất là dân Sa-ma-ri chiếm đoạt…Cuối cùng, những nổ lực tái thiết Đền Thánh phải dang dỡ.
Chính vào lúc ấy, một sấm ngôn vang lên để an ủi những ai mất can đảm: “Vùng lên! Bừng sáng lên ! Giê-ru-sa-lem hỡi!”. Làm thế nào phải thất vọng được chứ khi Thiên Chúa đã tỏ mình ra bằng cách cho phép họ được trở về quê cha đất tổ: “Vì ánh sáng của ngươi đến rồi, vinh quang Chúa trên ngươi chiếu tỏa”. Những kẻ áp bức bị nghiền nát:“Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân”. Cuộc hồi hương nầy được ví như bình minh. Thiên Chúa được sánh ví như vầng kim ô chói lọi: “Còn trên ngươi, Chúa lại chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi”. Những biến cố sau đó sẽ còn rực rỡ hơn nữa. Vị ngôn sứ đưa ra hai thị kiến chứa chan hy vọng.
2.Cuộc tụ họp vĩ đại (6: 3-4).
“Đưa mắt về tứ phía mà xem: ai nấy đều tụ họp, kéo đến với ngươi, con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Những con trai con gái nầy là những “cộng đồng Do thái hải ngoại” (họ không bao giờ vắng bóng trong tâm trí của ngôn sứ I-sai-a đệ tam). Thế nên, một truyền thống rất sống động muốn rằng sự thống nhất của toàn thể dân Ít-ra-en phải là công trình của Đấng Mê-si-a. Như vậy, sấm ngôn bao hàm hậu cảnh Mê-si-a.
Thế nhưng những đứa con đến từ xa cũng là những đứa con của muôn dân muôn nước, họ sẽ chọn Giê-ru-sa-lem như Thành Đô của mình vì uy danh Thiên Chúa của thành quyến rủ họ: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”.
3.Nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô (6: 5-6).
Thị kiến chứa chan hy vọng thứ hai được nối kết với thị kiến thứ nhất: chư dân sẽ đề xuất sự phú túc của mình để phụng sự Thành Thánh: “Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà của người Ma-đi-an và Ê-pha; hết thảy từ Sa-ba kéo đến, mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Chúa”. Những người Ma-đi-an, Ê-pha và Sa-ba là những dân miền Á-rập. Tên Sa-ba gợi lên kỷ niệm của nữ hoàng xứ Sa-ba đến triều yết vua Sa-lô-mon và dâng tặng cho vua nhiều quà tặng quý giá.
Thành đô Giê-ru-sa-lem sẽ không còn lầm than vất vã nhưng sống trong cảnh phú túc thịnh vượng. Thành Đô sẽ lại vùng đứng lên từ những hoang tàn đổ nát, Đền Thánh sẽ được tái thiết để trở thành nơi xứng đáng cho muôn dân đến tán dương ca tụng Thiên Chúa của dân mình.
Bức tranh muôn màu rực rỡ của vị ngôn sứ xem ra loan báo trước dáng dấp của các nhà chiêm tin, tiên trưng muôn dân muôn nước đến tôn thờ Thiên Chúa Ít-ra-en. Vị ngôn sứ thoáng thấy điều mà thánh Phao-lô sẽ gọi “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa”: muôn dân muôn nước đồng thừa tự với người Do thái, dân của Lời Hứa (Bài Đọc II). Thị kiến hùng vĩ về một cuộc sum họp bao la chung quanh Thiên Chúa đích thật chuẩn bị thị kiến của thánh Gioan trong sách Khải Huyền: thành đô Giê-ru-sa-lem tương lai là Thành Đô thiên quốc mà bản phác thảo của nó trên trần thế nầy là Giáo Hội.
BÀI ĐỌC II (Ep 3: 2-3, 5-6)
Thánh Phao-lô viết bức thư nầy có lẽ trong khi ngài bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Thánh nhân ngỏ lời với tín hữu Ê-phê-xô, chính xác hơn với các cộng đoàn khác nữa ở miền Tiểu Á, mà thánh nhân muốn bức thư của mình được chuyển đến.
Những cộng đoàn nầy đa số là những Ki tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô nhắc nhở họ ơn gọi tông đồ dân ngoại của mình. Nhiệm vụ của ngài là loan báo cho họ không còn một dân tộc đặc quyền đặc lợi nữa vì muôn dân được chấp nhận đồng thừa hưởng cùng một ơn cứu độ như dân Do thái.
1.Mầu nhiệm của Đức Ki tô:
Trọng tâm sứ điệp của bức thư nầy là “mầu nhiệm của Đức Ki tô”. Qua từ “mầu nhiệm” nầy, thánh Phao-lô muốn nói đến ý định ẩn kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa mà người ta có thể biết được chỉ nhờ Mặc Khải mà thôi.
Đối với thánh nhân, các thầy thông luật đã học hỏi Kinh Thánh dù thành tâm mấy đi nữa cũng không thể nào biết được mầu nhiệm: “nhờ rao giảng Tin Mừng và được liên kết với Đức Giê-su Ki tô, các dân ngoại cũng được đồng thừa tự với người Do thái”. Thánh nhân đã hiểu được Thiên Ý nhiệm mầu nầy chỉ nhờ ơn soi sáng của Đức Giê-su trên đường Đa-mát.
2.Dân thánh:
Từ trong chốn lao tù của mình, vào lúc cuộc đời xế bóng, thánh Phao-lô không quên liên kết sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của mình với tất cả các tông đồ và các nhà rao giảng khác (những người mà thánh nhân gọi “ngôn sứ”), họ là những người đã lãnh nhận Thần Khí và thi hành sứ vụ như ngài. Qua cách diễn tả “các thánh”, thánh nhân không gợi lên sự thánh thiện nói riêng, nhưng chỉ chung tất cả mọi người Ki tô hữu. Xuống vài hàng, thánh Phao-lô khiêm tốn tự nhận mình là “kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh”.
3.Vị Tông Đồ của dân ngoại:
Thánh nhân đã hiến dâng mọi sức lực của mình cho ơn gọi của mình. Sách Công Vụ tường thuật thánh nhân đã nhiệt thành thực hiện sứ mạng của mình biết là ngần nào: trèo non lặn suối, vượt biển băng ngàn không quản ngại gian nguy. Chương 13 tường thuật một chi tiết điển hình: sau bài thuyết giáo của thánh nhân ở hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, người Do thái sinh lòng ghen tức…trong khi dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa.
Đó cũng là hai thái độ khác nhau mà thánh Mát-thêu nêu bật trong hoạt cảnh “Các Nhà Chiêm Tinh đến triều yết Chúa Hài Nhi”.
TIN MỪNG (Mt 2: 1-12)
Thánh Mát-thêu là vị thánh ký duy nhất tường thuật biến cố “các nhà chiêm tinh đến yết kiến Chúa Hài Nhi”. Ông đã giữ lại chuyện tích nầy vì nó xác minh một trong những chủ đề của sách Tin Mừng của ông. Chính quyền và giáo quyền Giê-ru-sa-lem đã không nhận ra Đấng Cứu Độ; vì thế, Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho dân ngoại gia nhập Giao Ước, bởi vì sứ điệp Tin Mừng cũng được gởi đến cho họ. Thật lạ lùng trong khi dân ngoại đáp trả lời mời gọi, thì con cái của Lời Hứa lại quay lưng với Giao Ước.
Thánh Lu-ca trình bày cho chúng ta các mục đồng đến chiêm ngưỡng và thờ lạy Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người đơn sơ, khiêm tốn, chân thành và nghèo khó. Trong khi đó, thánh Mát-thêu trình bày cho chúng ta các nhà chiêm tinh từ phương xa vạn dặm đến triều bái Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người giàu có, thông thái. Những người đầu tiên là những thành viên của dân Chúa chọn, trong khi những người thứ hai đến từ thế giới ngoại giáo. Hai bức tranh tương phản nhưng bổ túc cho nhau.
1.Lên đường theo ánh sáng tự nhiên.
Chuyện tích của Tin Mừng Mát-thêu rất phức tạp và phân tích nó đòi hỏi biết bao công sức. Hai loại yếu tố được đan quyện vào nhau ở đây: những yếu tố nầy thuộc những dữ kiện lịch sử, những yếu tố khác do cách thức trình bày những sự kiện. Phương thức nầy được gợi hứng bởi cách giải thích kinh thánh của các kinh sư Do thái được gọi là“midrash”. Đây là văn thể đang thịnh hành trong những môi trường Do thái vào thời Chúa Ki tô và vào thời Giáo Hội tiên khởi.
“Midrash” là phương thức chuyện kể cốt yếu là quy tụ chung quanh một hạt nhân lịch sử những mảnh ghép của những câu trích dẫn Kinh Thánh, phóng đại vài chi tiết và hể có dịp nêu bật khía cạnh kỳ diệu của chúng, để nhấn mạnh tính cách quan phòng của chúng.
Chắc chắn phải có một “biến cố thực” ở nơi nền tảng của câu chuyện Tin Mừng. Rõ ràng thánh Mát-thêu múc lấy những dữ kiện của mình ở nơi những kỷ niệm và truyền thống Bê-lem, trong khi thánh Lu-ca tham chiếu nhiều hơn đến những kỷ niệm và truyền thống Na-da-rét.
Mặt khác, những thủ bản Biển Chết đã củng cố chuyện tích Tin Mừng. Trong số những thủ bản được khám phá, người ta gặp thấy số tử vi của vị vua Mê-si-a được chờ mong. Như vậy vào thời Đức Ki-tô chào đời, người ta bận lòng muốn biết Đấng Mê-si-a sinh ra dưới vị sao hộ mệnh nào, và trong vài môi trường Do thái, người ta tra cứu bầu trời để khám phá vị sao nầy xuất hiện, vì Đấng Mê-si-a chào đời khi vị sao hộ mệnh của Ngài xuất hiện. Quả thật, các chiêm tinh nói: “Chúng tôi đã thấy vị sao của Người xuất hiện”.
Trong chuyện tích Tin Mừng Mát-thêu, ngôi sao được trình bày như một hiện tượng thiên nhiên. Nhưng xa hơn một chút, thánh ký làm cho nó thành một dấu hiệu: ánh sáng của ngôi sao là lời kêu gọi mầu nhiệm soi lối dẫn đường cho các nhà chiêm tinh nầy. Không phải Thánh Vịnh nói với chúng ta: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo kỳ công Người. Ngày nầy mách bảo cho ngày tới, đêm nầy truyền tụng với đêm kia. Không bằng ngôn ngữ ầm vang mà tiếng vang đã vang dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới khắp chân trời góc biển” sao (Tv 19: 2-5) ? Nếu chỉ suy nghĩ một cách sâu xa biến bao biến cố xảy ra trong đời thường là những ánh sao lạ thúc đẩy chúng ta lên đường đấy chứ.
2.Dừng chân ở Giê-ru-sa-lem.
Các nhà chiêm tinh đến Giê-ru-sa-lem bởi vì chính “vua dân Do thái” mà họ tìm kiếm. Thánh Mát-thêu có chủ ý dùng tước hiệu nầy: đó là tước hiệu được ghi ở nơi bản án kết tội của Đức Giê-su: “Người nầy là Giê-su, vua dân Do thái” (Mt 27: 37).
Sự xuất hiện của các nhà chiêm tinh ở Giê-ru-sa-lem làm cho vua Hê-rô-đê và triều thần của vua bối rối. Điều nầy xem ra cũng dể hiểu thôi vì vua cùng triều thần của vua nghĩ đến một đối thủ bất ngờ xuất hiện. Nhưng cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao thì quả thật là lạ lùng. Tại sao dân thành Giê-ru-sa-lem không vui mừng nhỉ? Đây là lời ghi nhận mang đậm nét Tin Mừng Mát-thêu. Thánh Mát-thêu không thích Giê-ru-sa-lem, bởi vì dân nầy đã lỗi hẹn với cuộc gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông đợi qua những lời loan báo của các ngôn sứ. Ở nơi nỗi xao xuyến của dân thành Giê-ru-sa-lem, thánh ký báo trước việc dân nầy sẽ từ chối Đức Giê-su trong tương lai. Mặt khác, vào thời điểm thánh Mát-thêu viết Tin Mừng của mình, những người Do thái chống đối cộng đoàn Ki-tô hữu rất dữ dội. Sự căng thẳng nầy có thể được nhận ra ở nơi những lời nhận xét nầy.
“Nhà vua triệu tập các thượng tế, các kinh sư lại, và hỏi cho biết Đấng Ki tô phải sinh ở đâu”. Các thượng tế là những lãnh tụ tối cao của Do thái giáo. Các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh, vì thế họ có thể trả lời cho các nhà chiêm tinh biết chính xác Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu. Họ rất tự phụ về sự hiểu biết Kinh Thánh của mình, nhưng họ không muốn đi xa hơn. Sự hiểu biết Kinh Thánh của họ đã soi lối chỉ đường cho những người ngoại quốc xa lạ nầy đến với Chúa Hài Nhi, trong khi chính họ và toàn thể dân thành Giê-ru-sa-lem từ chối đến với Ngài. Như vậy sự quy tụ của những người ngoại quốc chung quanh vị vua Do thái vừa mới sinh nầy xem ra là hình ảnh tham dự trước một cuộc quy tụ vĩ đại của Giáo Hội đến từ muôn dân.
Bản văn mà các kinh sư trích dẫn là lời sấm của ngôn sứ Mi-kha (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) được thánh Mát-thêu thay đổi một chút. Ngôn sứ Mi-kha viết:“Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en …” (Mk 5: 1), trong khi lời trích dẫn của bản văn Mát-thêu: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. Rõ ràng trong bản văn của mình, thánh Mát-thêu không trích dẫn nguyên văn lời sấm của Mi-kha, nhưng còn sửa đổi và thêm vào bản văn của 2Sm 5: 2: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta…”.
Vua Hê-rô-đê bí mật triệu tập các nhà chiêm tinh và dò hỏi tường tận ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện để xác định chính xác thời gian xuất hiện của Hài Nhi. Rõ ràng nhà vua có mưu đồ hãm hại Hài Nhi rồi, nhưng với thái độ giả nhân giả nghĩa nhà vua nói với họ: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái yết Người”.
Vài nét chấm phá trên đây phác họa chân dung của nhân vật nầy sát với những gì các sử gia miêu tả về vị bạo chúa nầy: tâm địa ngờ vực, thù hằn, mê tín dị đoan và tàn bạo cho đến điên cuồng khát máu. Ông ra lệnh thảm sát vợ ông, bà Marianne, cùng nhiều người thân của bà, ba người anh em họ và ba người con riêng của bà. Chính ông ra lệnh hành hình nhiều người Pha-ri-sêu trước công chúng. Cũng như ông truyền lệnh thiêu sống mười bốn trẻ em để trả thù cho việc dân chúng đã phá đổ con ó bằng vàng mà ông đã cho đặt trước Đền Thờ. Vì thế, đối với vị vua nầy, việc thảm sát các hài nhi Bê-lem không có gì là không thể. Vì danh vọng và quyền lực người ta có thể làm bất cứ điều gì dù mất đi nhân tính của mình đi nữa.
Phải chăng việc các nhà chiêm tinh dừng chân ở Giê-ru-sa-lem được khai triển theo cách thức giải thích “Midrash” ? Chắc chắn một phần nào đó. Chúng ta đọc thấy cách giải thích Midrash về cuộc chào đời của Mô-sê như sau: “Pha-ra-ô triệu tập tất cả các nhà thông thái và triều đình …Toàn dân kinh hải…một hoàng tử triều yết vua và tấu trình lên vua…một hài nhi sắp chào đời cho con cái Ít-ra-en. Xin ra lệnh giết tất cả nam nhi…”Đây là lời chú giải Midrash trên đoạn văn sách Xuất Hành 1: 9-22. Phải chăng thánh Mát-thêu đã được gợi hứng từ phương thức nầy? Hai hoàn cảnh tương tự như nhau thì rất rõ.
3.Lên đường theo ánh sáng Lời Chúa.
Chắc chắn cũng phải lưu ý đến cách thức tô điểm midrash ở nơi việc tái xuất hiện của vị sao lạ nầy. Việc ngôi sao lạ này lại xuất hiện có cần thiết không, bởi vì Kinh Thánh đã cho họ thông tin chính xác về nơi sinh hạ của Hài Nhi rồi. Ấy vậy, làng nầy rất gần với Giê-ru-sa-lem, cách khoảng 9 km. Vậy, ánh sao dẫn lối đưa đường các nhà chiêm tinh đến Bê-lem phải được hiểu theo văn mạch là “ánh sáng Lời Chúa”. Quả thật, Thánh vịnh đã không nói với chúng ta: “Lời Chúa là ánh sáng soi lối dẫn đường cho bước chân con đi” sao?
4.Gặp gỡ Ngôi Lời Thiên Chúa làm người.
Bấy giờ các nhà chiêm tinh gặp thấy Hài Nhi không còn trong “hang lừa máng cỏ” nữa, nhưng trong “nhà”. Một khoảng thời gian đã trôi qua giữa Hài Nhi chào đời và các nhà chiêm tinh đến yết kiến: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a…” Như vậy, theo dấu chỉ của Lời Chúa, họ đã đến gặp gỡ chính Đấng mà thánh Gioan tuyên xưng: “Ngôi Lời làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta”. Chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước quy về và cũng chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước gặp thấy ý nghĩa tròn đầy của mình.
Chúng ta ghi nhận thánh Giu-se không được kể ra ở đây. Điều nầy thật lạ lùng, vì cho đến lúc nầy thánh ký rất chú ý đến những sự việc xảy ra cho thánh Giu-se. Việc không nhắc đến thánh Giu-se ở đây có ẩn ý gì? Phải chăng đây là dấu chỉ đầu tiên bày tỏ niềm tôn kính dành cho Đức Trinh Nữ ở nơi cách nói “Hài Nhi cùng với thân mẫu của Ngài”?
Với tấm lòng tôn kính và quảng đại Đông Phương quen thuộc, họ dâng tiến các tặng vật lên Hài Nhi bé bỏng mà họ nhận ra ở nơi cái vẻ bên ngoài quá mức tầm thường nầy là một vị vua vừa mới giáng sinh. Các Giáo Phụ cố gắng giải mã ý nghĩa của những phẩm vật nầy: vàng là phẩm vật cao quý được dâng tặng cho vua, vì Hài Nhi nầy là vua; nhũ hương là hương liệu được đốt trên bàn thờ của các thần linh, tỏa hương trầm nghi ngút, vì Hài Nhi nầy là Thiên Chúa; mộc dược là một trong những vật liệu được dùng để ướp xác, vì Hài Nhi nầy sẽ thực hiện ơn cứu độ trần gian bằng con đường Tử Nạn. Như vậy, qua ba phẩm vật đầy ý nghĩa nầy, các nhà chiêm tinh tuyên xưng Hài Nhi Giê-su là vua, Thiên Chúa và cũng là Đấng Cứu Thế.
Các nhà chiêm tinh đến từ xa thời lạy Hài Nhi, thế là các sấm ngôn về Đấng Cứu Thế trần gian được ứng nghiệm ở nơi Hài Nhi Giê-su nầy (Tv 72: 10-15; Is 60: 5tt; 49: 23; Ds 24: 17).
Người ta có thể nêu lên vấn đề lịch sử tính của câu chuyện nầy, nhưng không ai có thể chối cải đây là cuộc hành trình tâm linh của chính Giáo Hội vốn từ muôn dân mà đến khởi đi từ con đường mặc khải tự nhiên: một hiện tượng thiên nhiên, một biến cố, một hoàn cảnh sống… đến con đường mặc khải siêu nhiên: Lời Chúa, để rồi cuối cùng gặp gỡ chính Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, đây cũng là cuộc hành trình tâm linh của mỗi người chúng ta.
(*) Tựa đề do BBT.WGPBR đặt