CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN.. 2
KHÔNG THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ- Chú giải của Noel Quesson. 6
KHÔN KHÉO THẬT CỦA “CON CÁI ÁNH SÁNG”- Chú giải của Fiches Dominicales 12
BIẾT KHÔN NGOAN TIÊN LIỆU- Lm PX Vũ Phan Long, ofm.. 19
QUAN TÂM ĐẾN TƯƠNG LAI VĨNH CỬU– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*) 31
NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 42
CÁCH QUẢN LÝ TIỀN CỦA- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 46
TÍCH TRỮ CỦA CẢI THIÊNG LIÊNG- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 59
KHÔNG THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 75
HÃY BIẾT LO CHO TƯƠNG LAI!- Jos. Vinc. Ngọc Biển. 80
ĐẤT CÀNG PHÌ NHIÊU, TƯỢNG THẦN CÀNG NHIỀU- Lm Giuse Nguyễn Hữu An 86
NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN- Trích Logos năm C. 93
NGƯỜI QUẢN LÝ- Lm Phê rô Trần Thanh Sơn. 96
————————————–
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN
BÀI ĐỌC I: Am 8, 4-7
“Chống lại những kẻ lấy tiền mua người nghèo”.
Bài trích sách Tiên tri Amos.
Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp kẻ nghèo khó, và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong cả nước. Các ngươi bảo: “Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát”. Vì Giacóp kiêu căng, Chúa đã thề rằng: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 112, 1-2. 4-6. 7-8
Đáp: Hãy ngợi khen Chúa, Đấng nâng cao kẻ túng thiếu.
1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời.
2) Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của Chúa… và Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất.
3) Người nâng cao kẻ túng thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu cho họ ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân Người.
BÀI ĐỌC II: 1 Tm 2, 1-8
“Cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho mọi người. Ngài muốn cho mọi người được cứu độ”.
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gởi Timôthêu.
Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Đó là điều tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu Độ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý.
Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Đức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm Tông đồ (cha nói thật chứ không nói dối), và làm Thầy dạy dân ngoại trong đức tin và chân lý. Vậy cha muốn rằng những người đàn ông cầu nguyện trong mọi nơi, hãy giơ lên hai tay thanh sạch, không oán hờn và cạnh tranh.
Đó là lời Chúa
ALLELUIA: Ga 17, 17b và a
All. All. – Chúa phán: “Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật”. – All.
PHÚC ÂM: Lc 16, 1-13
“Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: ”Một người phú hộ kia có một người quản lý, và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: ‘Tôi nghe nói anh sao đó? Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa’. Người quản lý nghĩ thầm rằng: ‘Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ’. “Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: ‘Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?’ Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu’. Anh bảo người ấy rằng: ‘Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại: năm mươi’. Rồi anh hỏi người khác rằng: ‘Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?’ Người ấy đáp: ‘Một trăm giạ lúa miến’. Anh bảo người ấy rằng: ‘Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi’. Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng. “Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời. “Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con? “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.
Đó là lời Chúa.
————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
KHÔNG THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ- Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu còn nói với các môn đệ rằng
Dụ ngôn về “người quản gia bất lương” là một trong các câu chuyện gây tai tiếng mà người ta tìm thấy trong Tin Mừng, và các tín hữu chờ đợi với một nụ cười khẩy để biết nhà thuyết giáo làm thế nào để xoay xở với bài học về sự lừa bịp đó.
Nhưng đó là một dụ ngôn, một “mâchâl”, một “câu đố “. Chứ không phải là một câu chuyện xây dựng trong mọi chi tiết của nó. Chúng ta, nhưng người chịu ảnh hưởng của tinh thần duy lý Tây Phương, chúng thích những chứng minh họp luận lý và đơn giản. Đức Giêsu lại hoàn toàn thoải mái sử dụng văn phong điển hình của những người kể chuyện phương Đông. Họ nháy mắt ra hiệu cho cử tọa, để yêu cầu người nghe đừng bỏ mất óc phê bình: “Nào, các bạn sáng suốt nhé! Hãy hiểu sự tinh tế ẩn giấu dưới nghĩa đen! Tôi làm bạn khó chịu, hẳn là thế, nhưng đó là cố ý: Các bạn đã bị nhiễm độc và mê man về đề tài quan trọng mà tôi đề cập đến thế sao…!
Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông
Một quản gia phung phí! Tất cả dụ ngôn sẽ diễn tiến trên ý tưởng “quản lý” này. Trong Luật Rôm, cũng như trong tâm thức thông thường, quyền “sở hữu” là “quyền sử dụng và lợi dụng cái gì thuộc về mình”: “Bởi vì cái đó thuộc về tôi, nên tôi làm gì tùy thích”. Trong quan niệm Kitô giáo, quyền tư hữu tư nhân thì khác hẳn: Chúng ta không thật sự là chủ sở hữu, nhưng chỉ là những “người quản lý” của cải vốn vẫn thuộc về tất cả mọi người? Học thuyết truyền thống này trực tiếp đến từ Đức Giêsu (chứ không phải từ chủ nghĩa cộng sản) và vừa qua đã được Công đồng Vatican II nhắc lại: “Thiên Chúa đã trao trái đất và mọi vật chứa trong đó cho con người sử dụng (Gaudium ét Spes, số 69).
Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!’
Tất cả những gì tôi phải “quản lý”: tài sản, đức tính, sự phong phú tâm linh, trì thục, đạo đức, những khả năng tình cảm của tôi. Người sẽ yêu cầu tôi phúc trình về chúng. Tôi không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã giao cho tôi và chúng vẫn luôn là các công việc “của Người”. Thiên Chúa không thích “sự phung phí”, đó là một sự xúc phạm những người đang thiếu thốn.
Người quản gia liền nghĩ bụng: ‘Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!’
Cuộc độc thoại nội tâm này bộc lộ rõ ràng sự bối rối của người quản gia. Anh ta phải có quyết định mau lẹ: Ngày mai sẽ quá muộn? Có lẽ trong một hoặc hai giờ nữa, anh ta sẽ bị “sa thải”. Phải hành động thật mau lẹ. Chúng ta đoán được đàng sau sự vội vàng ấy là sự khẩn cấp của thời mạt thế mà Đức Giêsu không ngừng nhắc nhở, quấy rầy những người đồng thời với Người. Chúng ta hãy hiểu cơ may của mình khi còn thời gian, nếu không chúng ta sẽ không có thới gian để “lật lại” như người ta vẫn nói, để thú thật bằng công thức lạ lùng là Người ta tiến tới trước nhưng đi ngược lại mục đích thật sự của chúng ta! Chúng ta phải khẩn cấp hoán cải, và quay về.
Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.’ Rồi anh ta hỏi người khác: ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một ngàn giạ lúa.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.’
Sự gian lận này khéo léo đến ba lần: Không mất gì cả không để lại dấu vết, nó là bảo đảm chống lại mọi khám phá đột xuất bởi có thể có những lời đe dọa tố giác. Con người đã chẳng thay đổi kể từ Đức Giêsu.
Về phần hai món nợ: bằng dầu và bằng lúa mì cũng rất điển hình ở Palestine. “Một trăm thùng dầu”, là thu hoạch trung bình của 150 cây ô-liu, tương đương với 365 lít dầu? “Một trăm bao lúa” là thu hoạch của 42 hecta ruộng sa, tương đương với 364 hecto lít lúa mì! Theo các chuyên gia, sự giảm nợ trong cả hai trướng hợp tương đương 500 ngày công trung bình. Ngày nay mỗi người có thể tính ra bằng tiền tổng số tiền gian lận.
Về điểm này của câu chuyện, người nghe hẳn phải chờ đợi một sự kết án một cách mạnh mẽ và thích đáng từ phía Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe tiếp…
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại
Chúng ta ngạc nhiên. Đức Giêsu ngợi khen người quản gia xảo trá ấy. Chốc nữa, chúng ta sẽ thấy lý do tại sao trong lời giải thích mà Người sẽ đưa ra.
Tuy nhiên, chúng ta ghi nhận rang Đức Giêsu không tán thưởng sự lừa bịp của “người quản gia lừa gạt” hoặc người quản gia bất công” như bản văn Hy Lạp đã nói.
Thật vậy, theo Đức Giêsu, anh ta thuộc về thế giới “bóng tối” mà thủ lãnh là Xatan (Ga 12,31) phải phân biệt với các con cái của “ánh sáng” (1 Thêxalônica 5,4-5).
Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu
Tạo lấy bạn bè! phát triển tình bạn! Đấy là lý lo của lời khen ngợi.
Trong công thức này ở trọng tâm của bài dụ ngôn, Đức Giêsu đem lại cho chúng ta một bài học chủ yếu: Cách sử dụng tốt sự giàu có là dùng nó để tạo lấy bạn bè, đặt tình yêu thương vào các mối quan hệ. Đó còn là một quan niệm thật sự cách mạng về tiền bạc.Dùng tiền bạc như một phương tiện để chia sẻ và sống tình bằng hữu. Tiền bạc tự nó không xấu. Nó có thể tạo ra mềm vui cho những người khác, và do đó là niềm vui cho người nào đã góp phần vào niềm vui ấy khi “ban tặng”! Luca trong Tin Mừng của Ngài đã nhấn mạnh đến Đấng Mêsia của những người nghèo, nhiều hơn các thánh sử khác. Nước Thiên Chúa hầu như thuộc về họ đến nỗi những người giàu có chỉ vào được đó nhờ sự bảo trợ và giới thiệu của những người nghèo mà những người giàu có sẽ làm bạn.
Bạn làm gì với tiền bạc của bạn? Câu hỏi đáng ngại. Tại sao không! Nhưng tốt hơn là “Tin Mừng” cho những người giàu có giờ đây biết mình có thể được cứu và bước vào “nơi ở vĩnh cửu” như thế nào, khi mà ở nơi đó tiền bạc của họ không còn nữa”.
Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn, ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn
Để kết luận cho câu chuyện cụ thể này, đây là những châm ngôn về tiền bạc mang tính mạc khải cao cả của tư tưởng Đức Giêsu. Và trước tiên, đối với Đức Giêsu tiền bạc là một “việc nhỏ” khi so sánh với “việc lớn” là Nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Chúng ta có chấp nhận quan điểm đó không?
Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?
Trong khẳng định thứ hai này Đức Giêsu nói với chúng ta rằng tiền bạc thì “bất lương”. Đó là một cái bẫy chỉ đem lại sự an toàn giả tạo. Không nên tin vào tiền bạc (I Timôthê 6,17). Tính từ “bất lương” trở đi trở lại năm lần trong trang này. Đức Giêsu đã chới chữ. Người nói về “người quản gia bất lương” rồi giờ đây, Người nói về “tiền bạc’ bất lương”. Từ này cũng thường được dịch là “người quản gia bất chính, bất hảo, bất công”… và “tiền bạc bất chính, bất hảo, bất công.. Trong linh hồn và trong ý thức, mỗi người được mời gọi để trả lời về tiền bạc của mình: Có bất hảo, bất công, bất chính không? Tiền bạc rất ích lợi, có thể được sử dụng một cách có lợi để tạo thành bạn bè cho mình, nhưng nó cũng có thể là một quyền lực của sự ác.
Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?
Khẳng định thứ ba này có một cung cách hiện đại rất đáng kinh ngạc. Trước cả Các Mác, Đức Giêsu đã lên án “tha hóa” của con Người: Tiền bạc không phải là điều tốt lành thật sự cho chúng ta. Sự giàu sang không làm cho một người nên tốt lành, thông minh, hạnh phúc. Giá trị thật sự ở chỗ khác. Tiền bạc làm “tha hóa” chúng ta, nếu chúng ta để nó “chiếm đoạt” chúng ta.
Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được
Chữ ‘Tiền Của’ viết với một chữ hoa ở đây để dịch từ ‘Mam-mon’, một từ đáng khinh bỉ để chỉ một thần tượng vì nó mà người ta trở thành nô lệ. Bạn có là tù nhân bị tiền bạc xiềng xích, chiếm đoạt, đánh đòn với những lo âu về công việc. Đối với Đức Giêsu, không thể có bất kỳ thỏa hiệp nào: Hoặc là Thiên Chúa, hoặc là tiền bạc. Chúng ta hãy thú nhận chúng ta thường bị cám dỗ phục vụ luân phiên cả hai ông chủ: Thiên Chúa ngày Chúa nhật, cho phần rỗi của chúng ta và Thiên Chúa của các thương vụ, của hầu bao, lợi lộc sáu ngày còn lại trong tuần.
Trong câu tiếp theo sau, Luca đã viết “Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giêsu Còn tôi? Có phải tôi cũng mặt sang mày sỉa?
————————————————————-
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
KHÔN KHÉO THẬT CỦA “CON CÁI ÁNH SÁNG”- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Sự khôn khéo của người quản gia bất lương
Chúng ta đang ở trong bối cảnh chung của cuộc hành trình đi lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Ở đó, Người sẽ hiến mạng sống vì tình yêu đối với Chúa Cha và anh em mình.
Đáp lại lời chỉ trích của nhóm Pharisêu và các kinh sư về thái độ của Người đối với những kẻ tội lỗi, Đức Giêsu vừa kể cho họ nghe 3 dụ ngôn về lòng thương xót. Ba dụ ngôn này là một trong những viên ngọc quý của Tin Mừng Luca.
Trở lại với cử toạ là các môn đệ. của Người, giờ đây Đức Giêsu trao đổi với các ông về một số chủ đề gom lại với nhau bằng những “từ móc nối”: “tiền của bất chính”, “khôn khéo”, “tín nhiệm”.
Bắt đầu là dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Dụ ngôn này có thể được gợi lên từ một sự kiện nào đó trong đời thường. Thoạt đầu, dụ ngôn khiến chúng ta bỡ ngỡ vì nó mô tả một người quản gia, do cách quản lý lãng phí – “đã phung phá của cải nhà chủ “ – nên bị ông chủ cho nghỉ việc. Lao động chân tay thì không nổi, ngửa tay ăn xin thì xấu hổ, anh ta đã khéo xoay xở, để tới đâu chăng nữa, vẫn bảo đảm được tương lai: “Mình biết phải làm gì rồi “, anh tự nhủ. Thế là không một chút chần chừ, nhân vật của chúng ta cho gọi “từng con nợ” của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng là dịp may ngàn năm một thuở, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 phuy dầu xuống chỉ còn 50 (bớt khoảng 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt khoảng 6000 ký). Từ nay, mọi người đều đồng lõa với nhau giữ kín bí mật: đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng mục vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm “sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ”.
Một bài học cho “con cái ánh sáng”
Chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo chắc chắn không phải vì cái trò gian lận kia. Nhưng vì tính khôn léo và nhanh nhạy đáng noi gương bắt chước của anh ta trước một tính thế khó khăn để bảo đảm tương lai cho mình.
Mong sao “con cái ánh sáng”, tức là những môn đệ của Đức Giêsu, hãy học đòi nơi “con cái đời này”, để có được sự khôn khéo và nhanh nhạy tương tự trong việc ưu tiên chọn lựa Nước Trời, và phục vụ Thiên Chúa và anh em hơn tất cả mọi sự!
Dupont giải thích: “Lên tiếng với đám đông hiếu kỳ và hoang mang, bất đinh, Đức Giêsu tìm cách làm cho họ hiểu rằng sứ mạng Người lệnh nhận từ nơi Thiên Chúa đang đem lại cho con người một thời cơ trọng đại, phải khẩn trương có thái độ chọn lưạ phù hợp với lời kêu gọi của Người. Người ta phải quyết định ngay đừng để quá muộn: hạnh phúc đời dời của mỗi người tuỳ thuộc ở đây” (“Assemblées du Seigneur”, số 56, trg 70-71).
– Như vậy, bài học dụ ngôn muốn dạy đã rõ ràng sáng sủa. Đức Giêsu nói tiếp: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Nói cách khác, hãy xử sự khôn khéo làm sao để tiền của vật chất mà chúng ta chỉ là kẻ quản lý – không trở thành một sức mạnh thống trị và làm nô lệ con người, nhưng trở thành phương tiện phục vụ tình nghĩa anh em, củng cố tình liên đới và sự chia sẻ, xây dựng mối hiệp thông giữa con người với nhau.
Tóm lại, theo nhận xét của H. Cousin, đây là một lời nhắn nhủ: các môn đệ phải biết cách sử dụng đồng tiền cho khôn khéo, theo viễn tượng của Nước Trời. Nếu người quản gia bất lương kia đã biết lợi dụng của cải trần thế để mua lấy bạn bè và phòng xa cho tương lai của mình trong cuộc đời này, thì người Kitô hữu càng phải biết chuẩn bị như thế nào cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau bằng cách chia sẻ mới người nghèo qua việc rộng tay làm phước, để sau này chính những người nghèo đó sẽ đón tiếp họ vào cõi phúc của Thiên Chúa… Xử sự khôn khéo chính là biết xem tiền bạc như phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Tiền là bạc, là gian dối… bơi vì nó dễ trở thành ngẫu tượng là so mới của cải chân thật là bất diệt trên Nước Trời, nó chỉ mang giá trị mong manh tạm bợ, đến ngày mỗi người chúng ta phải từ giã cuộc đời, xuôi tay bỏ lại tất cả khi ấy mới thấy rõ tiền của chẳng là gì cả Triều đại của đồng tiền rồi cũng phải chấm dứt” (L’Evangile de Luc”, Centurion, trg 217).
Rồi, Đức Giêsu kết luận bằng một câu châm ngôn theo kiểu triết lý khôn ngoan: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được!”. Giữa Thiên Chúa và tiền của không thể có chuyện bắt cá hai tay được! H. Cousin tiếp tục nhận xét: “Từ khi Thiên Chúa xuất hiện trên thế giới này người bị đặt trước một sự chọn lựa triệt để, qua cung cách sử dụng tiền của, người Kitô hữu phải chứng tỏ mình chỉ lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa” (sđd, trg 218).
BÀI ĐỌC THÊM:
Một trong những đoạn Tin Mừng bị hiểu sai nhiều nhất (“Missel Emmaus des dimanches”, trg 1113):
Dụ ngôn người quản gia bất lương là một trong những đoạn Tin Mừng từng bị hiểu sai nhiều nhất: bao nhiêu người đã xem đây như bằng chứng Đức Giêsu cho phép làm điều bất lương! Trong khi lời tuyên bố sau cùng của Người rất rõ: “Người ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Người xót xa cho nhân loại bị đảo điên vì “tiền bạc gian dối “. Giá như con người biết khao khát tìm kiếm những phước lộc thiêng liêng giống như khi họ mê mải làm giàu? Hoặc ít ra họ biết sử dụng tiền của để xây dựng một chút tình liên đới! Chẳng lẽ tất cả khí khôn loài người chỉ để phục vụ cho lòng tham của cải vật chất thôi sao?”.
Sống chia sẻ, một chứng tá của đức tin hơn là một lối sống. (Mgr. L. Daloz, trong “Dieu a visité son Peuple”, Desclée de Brouwer, trg 123).
“Đức Giêsu dạy cho chúng ta một lối sống mới. Người chỉ cho chúng ta một cách sử dụng đồng tiền độc đáo: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè” và Người cắt nghĩa tại sao: “phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Vấn đề không chỉ đơn giản là một lời khuyên sống đạo đức. Vấn đề ở đây là phải biết cách sử dụng của cải trong tương quan vời cuộc sống vĩnh cửu. Gương người quản lý bất lương lén sửa lại các món nợ để tranh thủ thêm bạn hữu không nhằm khuyến khích một thái độ vụ lợi: chia sớt chút đỉnh tiền của để được vào thiên đàng. Qua chính điều Người nói, Đức Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng “con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”. Sự khôn khéo mà Người muốn dạy chúng ta không phải là một thứ tính toán bần tiện, nhưng là lời mời gọi phải sáng suốt phải thực sự là con cái ánh sáng. Đức Giêsu đề cập đến một thứ của cải đích thực “dành cho chúng ta”, đó là phụng sự Thiên Chúa: “không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ”. Sự giàu có thật vượt xa khỏi con người, nó ở nơi Thiên Chúa. Nếu chúng ta hiểu điều đó, chúng ta mới là con cái ánh sáng. Chúng ta phải tỏ ra thật khôn khéo, tỉnh táo để nhận ra những giá trị đích thực và sử dụng tiền của sao cho phù hợp với những giá trị đó. Sống chia sẻ không chỉ là một cách ăn ở tốt, nó còn là chứng tá của đức tin.
Đức Giêsu muốn đổi mới cách chúng ta quan niệm và sử dụng mọi sự đời này.
Phải cảnh giác trước tiền của
Người ta nói răng cho đến hôm nay, vị thánh được xem là gần gũi với gương mẫu Đức Giêsu nhất chính là Phanxicô Assisi, người đã kết duyên với Bà Chúa Nghèo. Và có thể nói tất cả sứ điệp của Đức Giêsu đều liên quan đến nhân đức Tin Mừng này. Nó nói nhiều về con người, tuy nhiên, có lẽ, nó cũng mạc khải cho biết về tấm lòng của Thiên Chúa. Hãy nhớ lại ý tương của cha Varinon: Khó nghèo, Khiêm hạ của Thiên Chúa.
Tôi chỉ xin lưu ý đến sự tương phản, hay đúng hơn là giằng co, khó dung hoà được trên cuộc đời này, giữa hai khía cạnh của ‘khó nghèo’.
– Dĩ nhiên, Luca là người có lý hơn cả khi viết trong Tám Mối Phúc: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” không thêm gì sau đó, và cái vế sau đáng sợ “khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có”. Đúng là có một cái gì đó để làm cho con người ra hư hỏng nơi lòng ham muốn có của, thích vơ vét, gom góp. Nước Trời không thể mở ra cho những ai không cưỡng nổi lòng ham muốn.
Nhưng Mátthêu đã bổ túc thêm bằng công thức rất quen thuộc: phúc thay ai, không phải có tinh thần, nhưng có tâm hồn nghèo khó. Nói cách khác: sửa đổi của Mátthêu có ý xác định hai điều. Trước hết, không bao giờ được phép biện minh cho sự nghèo nàn khốn cùng. Đó là điều xỉ nhục cho con người cũng như cho Thiên Chúa. Tiếp đến, phải coi chừng cách người ta tự nguyện khước từ của cải: động cơ thúc đẩy có thể là một thứ kiêu ngạo thầm kín. Madeleine Delbrêl đã thấy rõ điều đó khi tố giác một quan niệm lý tưởng hoá cái nghèo. Bà viết: “Nghèo không hẳn là điều hay”.
Không muốn đi sâu vào những vấn đề kinh tế, với vô số chuyện phức tạp, tôi chỉ xin nói đơn giản thế này: phải luôn luôn cảnh giác trước tiền của, ngay cả khi tiền của đó không nhiều, để tránh tình trạng bị nó sai khiến.
Tuy nhiên con người vẫn phải có vừa đủ để còn giữ được khả năng không bị tiền của sai khiến. Vẫn phải có một chút nào đó để có thể đi từ chỗ mình có đến chỗ mình là.
“Còn Đức Giêsu, vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã không dành địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho chúng ta trở nên giàu có”.
————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BIẾT KHÔN NGOAN TIÊN LIỆU- Lm PX Vũ Phan Long, ofm
(Luca 16,1-13 – CN XXV TN – C)
1.- Ngữ cảnh
Với chương 16, Tin Mừng Luca thêm vào những dụ ngôn và những lời nói khác của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong khi đề tài của ch. 15 là niềm vui vì tìm lại được những gì đã mất, trong ch. 16 này, đề tài là thái độ đối với của cải và cách sử dụng chúng. Dù thế, vẫn có thể cho rằng đề tài mới này đã được báo trước ở ch. 15 bằng truyện đứa con thứ phung phí của cải. Bây giờ, chúng ta có hai dụ ngôn, Người quản lý bất lương (cc. 1-8a) và Ông nhà giàu với Ladarô (cc. 19-31), triển khai rõ ràng đề tài mới này. Ta cũng thấy có những lời Đức Giêsu được gắn vào dụ ngôn thứ nhất (cc. 8b-13) và những lời khiển trách người Pharisêu ham tiền (cc. 14-15). Chỉ có hai lời không liên hệ đến đề tài, đó là lời nói về Lề Luật (cc. 16-17) và lời nói về ly dị (c. 18).
Đàng khác, dụ ngôn Người quản lý bất lương được dẫn nhập ở c. 1 bằng từ de (“nhưng”) cùng với liên từ kai (“cũng”). Ngữ pháp xác nhận rằng khi de được nối tiếp bằng kai, điều đó có nghĩa là bản văn sau này được liên kết với bản văn trước đó[1]. Trong khi trong dụ ngôn Người cha nhân hậu, người con thứ không có phương tiện, thì giờ và tự do để làm lại cuộc đời cho mình, và cũng không biết xoay trở thế nào, trong bản văn 16,1-8a, dù không có phương tiện và thì giờ, người quản lý vẫn có thể làm lại cuộc đời cho mình, khiến anh ta xứng đáng được khen (16,8a).
Cho đến nay, bài dụ ngôn Người quản lý bất lương này vẫn là một crux interpretum (“thập giá của các nhà chú giải”). Để hiểu dụ ngôn và các áp dụng, điều chủ yếu phải làm sáng tỏ là bản chất luân lý của hành động của người quản lý liên hệ đến các biên nhận của các con nợ của ông chủ. Ý kiến vẫn được đa số chấp nhận là người quản lý, đã bất lương trong quá khứ, khi làm thất thoát tài sản của chủ, nay làm thêm một hành vi bất lương nữa khi sửa lại các biên nhận, khiến tài sản của chủ càng hao hụt thêm. Nhưng nếu đây là ý nghĩa của bản văn, ta khó mà hiểu được là vì sao ông chủ có thể khen ngợi người quản lý là khôn khéo, và vì sao Đức Giêsu có thể rút từ cách hành động này một kết luận chấp nhận được. Dĩ nhiên, về phương diện luận lý, ta có thể tách sự tiên liệu và khôn khéo ra khỏi những phương diện khác của hành động của người quản lý. Nhưng những phân biệt như thế thì không dễ nắm bắt đối với những tâm trí không quen kiểu làm việc này, còn đám đông Kitô hữu thì hẳn là vẫn cảm thấy lúng túng khi đọc thấy sự song đối Đức Giêsu thiết lập giữa người quản lý và các môn đệ Người. Không lẽ Đức Giêsu, là người vẫn quen ngỏ lời với các con tim, lại thật sự đề ra một dụ ngôn hàm hồ như thế trong một vấn đề đụng chạm đến sự vô luân, bị mọi người phản đối?
Ngoài ra, cứ cho đi là người quản lý đã giả mạo các biên nhận nợ, thì anh ta chỉ càng làm cho hoàn cảnh của mình thêm trầm trọng, mà cũng chẳng giữ được kín, vì anh sắp phải báo cáo sổ sách, với lại bản văn cho thấy là ông chủ biết rất nhanh chuyện vừa xảy ra. Và cũng khó mà hiểu vì sao anh lại được khen là khôn khéo. Nếu thế, dụ ngôn này nói về một hành động khó có thật.
Chúng ta đừng quên rằng Đức Giêsu không hề đánh giá hành vi của người quản lý về mặt luân lý, mà chỉ nói là anh khôn khéo thôi. Chính câu 8 gọi anh là “bất lương”, nhưng đó là trong quá khứ, trước khi anh ta làm hành động được bài dụ ngôn kể ra, còn hành động này không nhất thiết là bất lương (x. Dụ ngôn ông quan tòa bất chính đã xử công bình cho bà góa: Lc 18,2-8). Xin coi trong phần chú giải.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dụ ngôn Người quản lý bất lương (16,1-8a);
2) Ba áp dụng của Dụ ngôn (16,8b-13):
- a) Áp dụng 1 (cc. 8b-9),
- b) Áp dụng 2 (cc. 10-12),
- c) Áp dụng 3 (c. 13).
3- Vài điểm chú giải
– một người quản lý (1): Danh từ Hy Lạp oikonomos thường là một người nô lệ sinh ra tại nhà chủ (x. St 15,3: ben bayit, “một người con của nhà”; St 14,14: yelid bayit, “người sinh ra của nhà”), nhưng không nhất thiết là như thế. Tại Paléttina, người quản lý không được trả lương; anh toàn quyền thay mặt chủ để giao dịch làm ăn. Nếu anh ta biển thủ, thì không có một hành vi pháp lý nào có thể giúp chủ thu hồi của cải cả; ông chủ chỉ có thể phạt bằng cách trách mắng, tiết lộ hành vi bất lương của anh ta để làm anh mất tiếng tốt, rồi thải hồi anh thôi. Sau khi đã biết quyết định của chủ, người quản lý phải tính sổ, nhưng vẫn đại diện của chủ. Vì không có lương, người quản lý có thể cho vay lấy lãi. Thật ra Luật Môsê cấm cho vay lấy lãi (x. Xh 22,25; Lc 25,36; Đnl 23,20-21), nhưng người Do Thái có cách xoay sở: người ta bảo là Luật nhắm che chở những người túng cực khỏi bị bóc lột. Do đó, nếu chứng minh được là người vay mượn đã có một phần của cải anh muốn mượn, và như vậy phần vay mượn không là cấp bách, thì có thể lấy lãi. Chẳng hạn dầu và lúa (đó là lý do khiến hai thứ này được đưa ra làm ví dụ ở đây): ai mà chẳng có đủ dầu để đốt một cái đèn? Ai lại không có đủ lúa để làm một cái bánh? (Mishna). Ở đây, anh quản lý tha phần lãi (quá đáng) để trả lại nguyên vốn cho chủ[2].
– tố cáo (1): Động từ Hy Lạp diaballein thường có sắc thái vu khống.
– phung phí của cải (1): Động từ Hy Lạp diaskorpizein cũng được dùng trong dụ ngôn Người con phung phá (15,13) để mô tả một cách sử dụng hoang phí các của cải. Bản văn không nói rõ anh “phung phí của cải” trong những chuyện gì.
– Một trăm thùng dầu ô-liu (6): Danh từ Hy Lạp batos phiên âm từ tiếng Hípri bat, “thùng” tương đương với khoảng 45 lít (theo sử gia Gioxép, một batos = 72 xestai Hy Lạp hoặc 72 sextarii Rôma).
– viết năm chục (6): Câu này không có nghĩa là anh ta giả mạo số nợ người ta mắc với ông chủ của anh. Điều này có nghĩa là con nợ hiện mắc nợ ông chủ chỉ năm mươi thùng dầu, còn năm mươi thùng kia là hoa hồng của người quản lý. Như thế số lãi là 50%. Bên Cận Đông những món nợ về lương thực thường có lãi cao như thế thật.
– Một trăm bồ lúa (NTT- 7; “Một ngàn giạ lúa”: CGKPV): tức là một trăm kor lúa. Từ Hy Lạp koros phiên âm từ từ ngữ Hípri kor, tương đương với 10 bats, hoặc 450 lít (bên Hy Lạp có đơn vị đo lường medimnos = 1,5 kor).
– viết tám trăm (7): Trong trường hợp này, hoa hồng là 25% (trên tám mươi bồ/giạ lúa). Lãi 1/3 hay 1/4 là chuyện bình thường.
– Và ông chủ khen (8): Ho kyrios có thể hiểu là “Chúa (Đức Giêsu)” hay “ông chủ”. Ở đây, ta hiểu là “nhà phú hộ kia” (c. 1) hay “ông chủ” (cc. 3.5). Vì các lý do: (1) “Nhà phú hộ” rất có thể là một chủ đất thường xuyên đi vắng, nên đã giao việc quản lý công việc làm ăn cho một người quản lý (oikonomos). Anh này không phải chỉ là một người tôi tớ được đặt đứng đầu những tôi tớ khác (như ở 12,42), mà là một nhân viên của ông chủ, được huấn luyện, được tin tưởng và được giao quyền thay chủ. Anh này có thể hành động nhân danh chủ trong những giao dịch: theo cách thông thường, anh này cho những người khác mượn của cải của ông chủ với một phần hoa hồng hoặc lãi được cộng thêm vào biên nhận; trong biên nhận này thường chỉ ghi số nợ, nghĩa là phần vốn cộng với phần lãi. Đây là tập tục rất thông dụng bên vùng đông Địa Trung Hải, Ai Cập dưới thời Hy Lạp và Rôma, Paléttina, Xyri, Átxyri, và Babylon.
Vậy tại sao ông chủ lại khen người quản lý? Tuy không biết số hoa hồng người quản lý có được, chắc chắn ông chủ biết là anh có làm theo thói tục lúc đó. Nhưng nếu người quản lý cố tình giả mạo biên nhận, hẳn là khó mà cho rằng ông chủ lại khen anh. Ở đây, ông chủ khen người quản lý là vì thấy anh khôn khéo, vì thấy anh này chấp nhận loại bỏ phần hoa hồng khỏi những biên nhận trước đây, trong đó có phần cho vay nặng lãi. Như thế, anh đã biến những con nợ của chủ thành người chịu ơn anh, mà không làm thiệt hại gì đến chủ.
– con cái ánh sáng (8): Đây là một cách gọi các môn đệ Kitô hữu (x. 1 Tx 5,5; Ep 5,8; Ga 12,36).
– nơi ở vĩnh cửu (9): dịch sát là “các lều vĩnh cửu”. Có lẽ hình ảnh này lấy từ lễ Lều, vì lễ này được coi như một tiền ảnh của thời đại cứu độ (Dcr 14,16-21).
– Tiền của bất chính (9): Danh từ mamonas là dạng hy-hóa của danh từ Hípri mamôn hoặc danh từ Aram mamôna’. Cách giải thích hợp lý nhất là cho rằng từ này là một dạng của ngữ căn ’mn, và có nghĩa là “điều mà người ta đặt tin tưởng vào”, từ đó chuyển sang nghĩa là “tiền bạc, của cải”. Đây là tiền của thủ đắc hợp pháp, tức theo luật lệ của loài người, nhưng hư hỏng dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Người quản lý bất lương (1-8a)
Bản văn dường như mô tả một sự cố đã thật sự xảy ra. Người quản lý bị tố cáo là bất lương, nhưng chúng ta không được biết đích xác trong chuyện gì. Chúng ta chỉ biết là bây giờ, khi thấy hoàn cảnh của anh đã thành bấp bênh, vì ông chủ đã quyết định sa thải anh, anh biết phản ứng nhanh và dứt khoát.
Người quản lý biết rằng có nhiều người đang nợ chủ anh những món nợ kếch sù. Anh gọi các con nợ đến, rồi hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”. Người quản lý bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. Món nợ đã được giảm từ 4.500 lít dầu ô-liu xuống còn 2.250 lít, tương đương với tiền công nhật một năm.
Anh ta gọi người thứ hai đang mắc nợ một trăm bồ lúa (tức một ngàn giạ lúa), tức là khoảng 35 tấn (kết quả thu hoạch của hơn 42 mẫu ruộng tốt). Nay món nợ của ông giảm xuống còn 80 bồ thôi, tức là bớt đi khoảng 7 tấn!
“Ông chủ” (c. 8), dù là Đức Giêsu hay là ông phú hộ, đã khen ngợi sự khôn khéo và sáng suốt của anh. Người ta vẫn giải thích hành vi anh ta hướng dẫn những người làm biên nhận là một hành vi bất lương: thay vì bảo các con nợ viết đủ số nợ thì lại bảo họ viết bớt đi. Trong thực tế, vào thời Đức Giêsu, các quản lý không có lương, nên họ được phép lấy hoa hồng từ món nợ (25-50%). Như thế, ở đây, người quản lý không làm thiệt hại cho chủ, nhưng chỉ bớt món hoa hồng lẽ ra anh được hưởng. Anh hy sinh một món lợi nhuận ngắn hạn như thế để mong được người ta tiếp đón lâu dài. Vì thế, anh ta mới được khen là sáng suốt và biết khôn ngoan tiên liệu.
Cho dù chọn cách giải thích nào, các độc giả vẫn phải nhớ điểm nhắm của dụ ngôn là: sự thông minh của một người khi nhìn đến tương lai của mình, hoặc nói bằng ngôn ngữ tôn giáo hơn, các chọn lựa thận trọng khi nhìn đến việc cứu độ bản thân. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải biết tận dụng thì giờ, phải hành động một cách minh mẫn và khôn ngoan, phronimôs, nghĩa là với cái đầu. Đức Giêsu bảo họ rằng họ có thể học được nhiều nơi các con cái thế gian trong việc phân tích kỹ lưỡng hoàn cảnh, suy nghĩ chín chắn và có một cách ứng xử thích hợp.
* Ba áp dụng của Dụ ngôn (8b-13)
Thế rồi Đức Giêsu đã chuyển từ ngôn ngữ kinh tế của dụ ngôn sang ngôn ngữ phù hợp với Do Thái giáo. Ba áp dụng chứng tỏ cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã sớm mặc cho dụ ngôn một bộ áo luân lý. Cả ba thuộc về những ngữ cảnh khác nhau
Áp dụng thứ nhất (cc. 8b-9) mang màu sắc Sêmít rõ ràng, có lẽ có một bối cảnh Paléttina, với những thuật ngữ “con cái thế gian” , “con cái ánh sáng”, “Tiền Của bất chính”, “nơi ở vĩnh cửu”. Áp dụng này đặt con cái thế gian ngang hàng với người quản lý (c. 8a). Do sự “khôn khéo” của họ, họ hơn các “con cái ánh sáng”, tức các môn đệ của Đức Giêsu, trong cách dàn xếp với thế hệ này. Như thế, các Kitô hữu có thể học được điều gì đó từ sự khôn khéo của họ. Câu 8b là một lời bình tổng quát hóa về kết luận của bài dụ ngôn, nhấn mạnh trên sự khôn khéo trong đời sống Kitô hữu. Câu 9 nêu ra khía cạnh cánh chung của lời khuyên. Các Kitô hữu phải khôn khéo trong cách sử dụng của cải vật chất, bây giờ được gọi là “tiền của bất chính”, để tạo lấy những bạn bè sẽ đón họ vào nơi cư ngụ vĩnh cửu. Như vậy, quyết định khôn khéo của người quản lý (c. 4) được ẩn-dụ-hóa để trở thành một khuyến khích sử dụng khôn khéo của cải vật chất.
Áp dụng thứ hai (cc. 10-12) rút một bài học từ bài dụ ngôn như là một toàn thể và hệ quả về cách quản lý có trách nhiệm. Khía cạnh cánh chung của c. 9 biến mất, để nhường chỗ cho ý tưởng về trách nhiệm và sự trung tín ngày qua ngày. Áp dụng gồm ba câu ở thể song đối đối nghĩa: câu 1 là câu tuyên bố (tương phản giữa trung tín trong việc rất nhỏ và trung tín trong việc lớn); câu 2 và 3 ngắn hơn, là câu hỏi (tương phản giữa trung tín trong việc sử dụng những của cải thông thường và những của cải chân thật; tương phản giữa việc sử dụng của cải của người khác và của cải của chính mình). Như thế, cả ba tương phản tóm tắt vai trò của sự trung tín trong đời sống Kitô hữu.
Áp dụng thứ ba (c. 13) được đặt ở đây do từ móc “tiền của” ở cc. 9,11 và 13d. Áp dụng này không liên hệ với bài dụ ngôn, nhưng tóm một thái độ tổng quát đối với của cải. Có thể nói áp dụng này bình luận cc. 10-12 dể đưa ra câu hỏi cho Kitô hữu: Anh em muốn phục vụ ai?
+ Kết luận
Bài dụ ngôn không lưu ý về bản tính độc hại của của cải, cũng không chuẩn nhận cho sự bất lương của người quản lý (cc. 1-2), hoặc chuẩn nhận cho việc anh ta giả mạo các biên nhận khiến gây thiệt hại cho chủ. Câu chuyện nhắm đến sự khôn khéo của ngưởi quản lý biết cách sử dụng phần của cải thuộc về mình để lo cho tương lai. Như thế, “người quản lý bất lương” trở thành điển hình cho các Kitô hữu về sự sáng suốt, khôn khéo. Đứng trước một tình trạng khủng hoảng do sự bất cẩn và những lầm lạc trong phán đoán thuộc quá khứ, anh biết khôn ngoan đánh giá tình hình và xoay sở hợp lý. Các Kitô hữu cũng đang phải đối diện với đòi hỏi của Nước Trời đang đến, nên cũng cần biết sử dụng của cải để có thể ứng phó với hoàn cảnh này.
Với ba áp dụng thêm vào, bài dụ ngôn đưa tới chỗ khuyến cáo các Kitô hữu phải biết sử dụng của cải với tinh thần trách nhiệm và để phục vụ hạnh phúc của người khác.
5- Gợi ý suy niệm
Đức Giêsu đã đến như ánh sáng thế gian. Ai theo Người, thì có ánh sáng, với điều kiện phải để cho ánh sáng hướng dẫn. Muốn sống như là “con cái ánh sáng”, các môn đệ Đức Giêsu phải để cho Người hướng dẫn. Các môn đệ Đức Giêsu thỉnh thoảng phải nghĩ đến tương lai của họ, để không bị bắt chợt mà trắng tay. Họ phải quan tâm không những đến tương lai gần, mà cả tương lai ở bên kia cái chết. Đó là nhắm đạt được những “cái lều vĩnh cửu”, tức sống hiệp thông bền vững với Thiên Chúa. Tương lai ấy, người ta đạt được hay bị mất, là do cách hành động trong hiện tại. Tương lai này, Đức Giêsu giúp các con cái ánh sáng đạt được, nhưng họ phải chuẩn bị bản thân bằng một cách sống biết tiên liệu. Chính họ cũng phải biết sử dụng của cải vật chất cách khéo léo và sao cho có thể đảm bảo tương lai, nhờ biết tạo cho mình những bạn hữu. Họ phải chứng tỏ họ là những người quản lý được tin cậy và trung tín trong những điều nhỏ nhất. Họ chỉ đạt được như thế nếu họ phục vụ Thiên Chúa chứ không phải tiền của.
Các Kitô hữu sống như “con cái ánh sáng” là có trái tim thuộc về Thiên Chúa. Ngài phải là Đức Chúa mà họ yêu mến và họ hướng tới. Chỉ khi đã khởi đi từ một quan hệ như thế với Ngài, họ mới có thể có một tương quan đúng đắn với của cải trần thế và là tương quan bảo đảm tương lai cho họ. Ai nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa tể thì cũng nhìn nhận Ngài là Chúa tất cả của cải vật chất và biết rằng bản thân mình không phải là chủ tuyệt đối các của cải đó, nhưng chỉ là người quản lý.
Một người quản lý lệ thuộc chủ mình và chịu trách nhiệm trước mặt chủ. Anh không điều hành một của cải của riêng anh, nhưng một của cải của người khác, của cải được Thiên Chúa ký thác. Anh là người trung tín và đáng tin nếu anh biết đi theo ý muốn của chủ mình, chứ không cư xử theo tính ngẫu hứng. Tất cả các ý tưởng của anh phải nhắm đảm bảo sao cho chủ không bị thiệt hại gì cả, không có gì xảy ra ngược ý muốn của chủ. Qua tương quan với các của cải của chủ, người quản lý chứng tỏ giá trị của tương quan của mình với chủ. Như thế, các của cải trần thế đã được ký thác cho chúng ta là để thử lòng chúng ta. Như những người quản lý, qua các của cải ấy, chúng ta phải chứng tỏ tương quan của chúng ta với Thiên Chúa; chúng ta phải chứng tỏ lòng trung thành và khả tín của mình.
Chúng ta chứng tỏ mình biết sử dụng đúng đắn các của cải khi biết dùng của cải mà tạo cho mình những bạn hữu, do dùng của cải mà phục vụ người thân cận. Các của cải không được ban cho chúng ta để chúng ta hưởng thụ cách ích kỷ, nhưng là để chúng ta dùng trong chiều hướng nhắm đến tương lai, thể theo ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói đến của cải vật chất, nhưng điều Ngài nói cũng có giá trị cho mọi thứ của cải trần thế khác, như các khả năng tinh thần, các tài năng, kiến thức, học vấn… Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt và biết tiên liệu. Như thế, không thể phung phí của cải trần thế vào việc hưởng thụ trong hiện tại. Đàng khác, ai cho rằng mình có quyền bố trí các của cải theo ý mình, là sai lầm. Chúng ta được liên kết trước tiên vào Chúa. Chúng ta không phải là chủ nhân tự trị, nhưng chỉ là những quản lý các của cải của chúng ta. Và của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em. Chỉ khi đó, chúng ta mới đảm bảo được tương lai của mình.
Theo hình ảnh Đức Giêsu sử dụng, thời gian là khoảng khắc chọn lựa đối với mỗi một môn đệ. Thời gian không phải chỉ là những giây phút qua đi, nhưng là khoảng khắc cứu độ, cơ hội Thiên Chúa ban cho con người để cứu lấy chính mình. Đức Giêsu không có ý rao giảng rằng con người tự cứu lấy chính mình nhờ tài kháo và sức riêng, bởi vì ơn cứu độ hoàn toàn là ân sủng Thiên Chúa ban. Nhưng cũng đúng là con người phải lãnh trách nhiệm trong việc tận dụng những gì mình nhận được mà bảo đảm lấy ơn cứu độ.
———————————————————-
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
QUAN TÂM ĐẾN TƯƠNG LAI VĨNH CỬU– Lm. Inhaxiô Hồ Thông (*)
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết tận dụng của cải ở đời này mà lo toan đến của cải tinh thần, vì của cải tinh thần mới là của cải chân thật, không hề bị hư hoại, và mới có thể đưa chúng ta vào Nước Trời.
Am 8: 4-7
Ngôn sứ A-mốt phê phán thói tham lam của những phú thương Sa-ma-ri: thay vì cử hành những ngày đại lễ để kính Đức Chúa, thì họ lại lợi dụng các ngày đại lễ để mà gian lận đầu cơ trục lợi những người cùng khốn và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
1Tm 2: 1-8
Lời cầu nguyện được định vị vào trong số những của cải mà người Ki-tô hữu có. Thánh Phao-lô xin ông Ti-mô-thê quan tâm đến tính phổ quát của lời cầu nguyện trong những buổi hội họp phụng vụ của Giáo Đoàn Ê-phê-sô, vì Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất hoàn vũ của ơn cứu độ.
Lc 16: 1-13
Qua dụ ngôn người quản gia bất lương, Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài hãy tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
BÀI ĐỌC I (Am 8: 4-7)
A-mốt là vị ngôn sứ bút ký đầu tiên. Ông công bố sứ điệp báo oán ở vương quốc miền Bắc (miền Ga-li-lê, thủ đô là Sa-ma-ri) vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, ông xuất thân ở vùng Tơ-cô-a, gần Bết-lê-hem, thuộc vương quốc miền Nam, sống bằng nghề chăn cừu (1: 1) và chăm sóc cây sung (7: 14).
Ơn gọi:
A-mốt được Chúa gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây không lần đầu tiên cũng không là lần cuối cùng Thiên Chúa chọn một người chăn chiên để truyền đạt sứ điệp của Ngài. Chúng ta không biết Chúa gọi ông A-mốt trong hoàn cảnh nào, nhưng vị ngôn sứ nói về ơn gọi làm ngôn sứ của ông như không thể nào cưỡng kháng lại được: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?” (3: 8).
Vốn là một người giản dị, quen với cuộc sống thanh đạm, gần gũi với thiên nhiên, A-mốt được Chúa sai đến vương quốc miền Bắc, vào lúc đó rất phồn vinh, để nhắc nhở dân chúng những huấn lệnh của Thiên Chúa: thực thi công chính, sống khiêm hạ, bảo vệ những người bị áp bức và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
Bối cảnh vương quốc miền Bắc:
Vào thời đó, dưới triều đại vua Gia-róp-am II, vương quốc miền Bắc trở nên thịnh vượng và thanh bình. Thời kỳ cực thịnh này kéo dài suốt bốn mươi năm, có thể được sánh ví với thời kỳ hoàng kim dưới triều đại của vua Sa-lô-mon.
Tuy nhiên, chỉ lớp có quyền có thế mới hưởng được sự thịnh vượng nầy. Những quan lại, điền chủ và tầng lớp thương gia cấu kết với nhau ra sức áp bức bốc lột những kẻ nghèo hèn và thấp cổ bé miệng trong xứ. Giai cấp nầy huênh hoang tự đắc rằng chính nhờ tài trí của họ mà đất nước được vui hưởng cảnh thanh bình thịnh trị; và việc phụng tự ở những đền thánh trong vương quốc, như Bết-Ên hay Ghin-gan, có được vẽ huy hoàng rực rỡ là nhờ vào tiền đóng góp của họ. Họ cho rằng Thiên Chúa phải hài lòng với họ, vì mọi việc diễn tiến tốt đẹp.
Vì thế, thực hành tôn giáo đã trở thành những buổi phụng tự phô trương và những lễ hội linh đình, nhưng chỉ là trống rỗng, bởi vì chúng không tác động đến lương tâm của quần chúng. Tôn giáo không có bất cứ ảnh hưởng nào trên đời sống luân lý, chỉ như một loại ngụy trang cho phép những kẻ quyền thế làm bất cứ điều gì họ muốn và như một thứ thuốc phiện để ru ngủ quần chúng quên đi nhưng cảnh cùng khổ và bất công mà họ phải chịu. Hậu quả rõ nét là sự bất công xã hội tràn lan, tương phản với những phẩm chất của dân Thiên Chúa.
Nhân cách ngôn sứ của A-mốt:
Đây là hoàn cảnh vương quốc miền Bắc mà ông A-mốt được sai đến để loan báo sứ điệp của Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh bi thương như thế, vị ngôn sứ không thể không công kích dữ dội giai cấp cầm quyền thối nát và những kẻ giàu có hám lợi (5: 7, 10-12; 6: 1-14). Trong đoạn trích hôm nay, vị ngôn sứ tố cáo những phú thương lợi dụng các ngày đại lễ để gian lận đầu cơ trục lợi những kẻ bị áp bức và những người nghèo hèn trong xứ (8: 4-6). Vị ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa mà tuyên án: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (8: 7).
Trong hoàn cảnh xã hội thối nát về mặt luân lý như vậy, không thể nào khác hơn là phải công kích bằng những lời lẽ thẳng thắn, bộc trực, không vì bất kỳ ân ban lợi lộc nào có thể làm thay đổi cung giọng của vị ngôn sứ được và cũng không bất kỳ chống đối hay hăm dọa nào có thể làm cho vị ngôn sứ phải nao lòng mà chùn bước được. Không bao lâu sau đó những thành phần bị công kích phản ứng.
Hoàn cảnh được gói gọn vào một buổi chiều giữa ngôn sứ A-mốt và tư tế đền thờ Bết Ên là ông A-mát-gia. Trước đó, tư tế A-mát-gia đã mật báo với vua rằng ông A-mốt âm mưu chống lại vua ngay trên lãnh địa của vua bằng cách tố cáo sự bất công và hăm dọa án phạt của Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, tư tế A-mát-gia bảo ngôn sứ A-mốt đừng đến đây quấy rầy họ và hãy trở về đất Giu-đa làm nghề ngôn sứ mà kiếm ăn. Sự căng thẳng giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ và sự bác bỏ của vị tư tế tham dự trước đến tám trăm năm việc các vị lãnh đạo tôn giáo chống đối sứ vụ của Đức Giê-su. Trong trường hợp Đức Giê-su cũng vậy, giai cấp lãnh đạo tôn giáo phải vận động đến chính quyền dân sự để khai trừ “tên phản động” dám phê bình chỉ trích tình trạng hiện hành.
Nhân cách của ngôn sứ A-mốt có thể được tóm gọn trong những lời nhận xét sau đây: “Không một ngôn sứ nào gần gũi với thế giới ngày nay bằng A-mốt. Ông đã can đảm tố cáo những bất công trong xã hội nước Ít-ra-en ở thế kỷ thứ tám. Ông đã trở nên lương tâm của đất nước và cất tiếng nói thay cho những người thấp cổ bé miệng. Bài học quan trọng mà A-mốt vẫn còn muốn nhắc nhở các Ki-tô hữu hôm nay đó là: công bằng xã hội là chuyện của tôn giáo. Lòng đạo đức thật sự được đo lường bằng lối sống ở phố chợ hơn là ở nhà thờ” (Nhóm phiên dịch CGKPV, Dẫn Nhập Các Ngôn Sứ, tr. 702).
BÀI ĐỌC II (1Tm 2: 1-8)
Thân thế của ông Ti-mô-thê:
Ti-mô-thê vừa là một môn đệ vừa là cộng sự viên trung tín của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã gặp người môn đệ này ở Lýt-ra, miền Tiểu Á, trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai của thánh nhân. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông được cộng đồng chứng nhận là một người Ki-tô hữu đạo hạnh (Cv 16: 2) Thánh Phao-lô muốn ông đồng hành với thánh nhân trong những cuộc hành trình truyền giáo.
Cha ông là người Hy-lạp, mẹ và bà ngoại của ông là người Do-thái. Ngay từ thuở nhỏ ông đã được mẹ và bà ngoại nuôi nấng dạy dỗ Kinh Thánh, vì thế ông hiểu biết thấu đáo Kinh Thánh. Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau mật thiết đến độ trong số những thư của thánh nhân có đến sáu bức thư đều có ông Ti-mô-thê đồng kính gởi.
Thánh Phao-lô đã ký thác cho ông Ti-mô-thê Giáo Đoàn Ê-phê-sô. Thánh Phao-lô rất yêu quý Giáo Đoàn này mà ngài đã thành lập và đổ nhiều công sức. Qua vị đứng đầu cộng đoàn thánh nhân thăm hỏi hết thảy mọi thành viên trong cộng đoàn.
Thật khó để xác định niên biểu thư này, vì những năm tháng sau cùng cuộc đời của thánh Phao-lô chỉ được phỏng đoán. Tuy nhiên, thư thứ hai gởi cho Ti-mô-thê được viết chẳng bao lâu trước cuộc tử đạo của thánh nhân (năm 67), thư thứ nhất chắc chắn được viết sau thư thứ hai độ hai hay ba năm.
Ơn cứu độ phổ quát:
Thánh Phao-lô khuyên nên cầu nguyện không ngừng. Ở đây thánh nhân nhấn mạnh tính hoàn vũ mà lời cầu nguyện phải mặc lấy trong các buổi họp cộng đoàn. Phải cầu nguyện cho hết mọi người, vì Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Chính vì mục đích này mà lời cầu nguyện phải là cầu xin, khẩn nguyện và nài van. Thánh Phao-lô còn thêm “tạ ơn cho tất cả mọi người”, thái độ này hoàn toàn phù hợp với truyền thống Kinh Thánh, theo đó người tín hữu tin chắc chắn rằng lời cầu nguyện của mình được nhận lời. Nhưng thánh nhân định vị ngài đặc biệt vào trong tinh thần Giáo Hội hướng lời cầu nguyện cộng đoàn theo chiều kích tạ ơn và gọi phụng vụ cốt yếu của mình là tạ ơn.
Cầu nguyện cho tất cả những người cầm quyền:
Thánh nhân đã bày tỏ – và giải thích – bổn phận của người công dân trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ…” (Rm 13: 1-7). Nhưng khi thánh Phao-lô viết cho Ti-mô-thê, hoàng đế vào lúc đó là Nê-ron, kẻ bách hại đầu tiên các Ki-tô hữu và điên cuồng sát hại họ vào năm 64.
Đừng quên rằng thánh Phao-lô xưa kia là một kinh sư; lập trường của ngài được sáng tỏ nếu chúng ta nhớ lại một sự kiện lịch sử quan trọng. Kể từ thời hoàng đế Âu-gút-tô, người Do thái được hưởng đặc ân là cầu nguyện với Thiên Chúa của mình cho hoàng đế, mà không bị buộc phải kêu cầu thần Jupiter hay vị thần linh dân ngoại nào. Bao lâu đế quốc Rô-ma vẫn còn, dân Do thái được đặc quyền này. Người Do thái không bị buộc thờ lạy hoàng đế được phong thần phong thánh. Lẽ nào thánh Phao-lô có thể nghi ngờ rằng người Ki-tô hữu, xuất thân từ Do-thái giáo, bị chối từ được hưởng đặc ân này? Tuy nhiên, câu cuối cùng để cho thấy một mối lo lắng nào đó về tương lai: “để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh”.
Chỉ có một Thiên Chúa và chỉ có một Đấng Trung Gian là Đức Ki-tô.
Lời nguyện phổ quát mà thánh Phao-lô căn dặn đặt nền tảng trên sự duy nhất của Thiên Chúa và Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Ki-tô.
Lời tuyên tín mà thánh nhân công bố có thể là lời trích dẫn của một bản văn phổ biến trong Giáo Hội tiên khởi. Khởi đầu là lời khẳng định: “Vì Thiên Chúa thì chỉ có một”, tương tự với lời khẳng định khởi đầu lời kinh nguyện hằng ngày của người Do thái (shema). Tiếp đó, thánh nhân nhấn mạnh phẩm chất duy nhất của Đức Ki-tô: “Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người cũng chỉ có một: đó là Đức Giê-su Ki-tô”. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Giê-su vừa là con người vừa là Thiên Chúa; vì thế, với tư cách là con người, chỉ duy một mình Ngài mới có thể “tự hiến làm giá chuộc mọi người”. Diễn ngữ thánh Phao-lô dùng cũng là diễn ngữ mà Chúa Giê-su đã dùng theo Mát-thêu và Mác-cô: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 28; Mc 10: 45).
Việc thánh Phao-lô nhấn mạnh phẩm chất của Đức Giê-su, Đấng trung gian duy nhất và hoàn vũ chắc chắn là lời đáp trả cho những niềm tin Do-thái giáo vẫn còn sống động giữa vài người Ki-tô hữu xuất thân từ Do-thái giáo, theo niềm tin này, các thiên thần được gán cho một vai trò cầu bầu. Thánh Phao-lô dựa những lời khuyên bảo của mình trên ơn gọi làm tông đồ cho dân ngoại của ngài.
Câu cuối cùng trở lại với động cơ cầu nguyện (kỷ thuật văn chương đóng khung). Thánh nhân đòi hỏi rằng cử chỉ giơ tay lên khi cầu nguyện phải tương xứng với tư thế sẵn sàng bên trong: “tâm hồn thánh thiện và đức ái huynh đệ”.
TIN MỪNG (Lc 16: 1-13)
Trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su giáo huấn những phẩm chất cần phải có để làm môn đệ Ngài, nhằm một mục đích duy nhất là được gia nhập Nước Trời: siêu thoát những của cải trần thế, từ bỏ bản thân, mang lấy thập giá của mình, sẵn lòng chịu trách nhiệm nghiêm trọng và xem ơn cứu độ như là của cải tối thượng, kho tàng không hề hư hoại. Chương 16 nêu lên vấn đề về thái độ đối với tiền bạc. Chương này bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và hoàn tất với dụ ngôn “ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó”. Hai dụ ngôn này phụ thuộc lẫn nhau và soi sáng cho nhau.
Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần thứ nhất là dụ ngôn “người quản gia bất lương”, phần riêng của thánh Lu-ca; phần thứ hai, có chung với thánh Mát-thêu, là giáo huấn của Chúa Giê-su về việc quản lý của cải tinh thần, phần này hoàn tất với một suy tư về của cải.
Vấn đề:
Dụ ngôn “người quản gia bất lương” nêu lên nhiều vấn đề cho các nhà chú giải, nhất là vấn đề biết ai là người phú hộ? Danh xưng “kurios” được dùng ở đây có thể được hiểu là “Chúa”, như thế chỉ Đức Giê-su (thánh Lu-ca sử dụng tước hiệu này nhiều lần, trái với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu), nhưng cũng có thể được hiểu là “ông chủ”, như thế chỉ gia chủ giàu có, ông đã thuê viên quản gia này. Theo tập quán Do thái thời đó, viên quản gia là người được toàn quyền thay chủ trông coi gia sản của chủ. Các nhà chú giải chia thành hai do “từ hai nghĩa” này.
Nhưng ngay liền sau đó, câu tiếp theo lại nêu lên vấn đề, ai đã có thể nói: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” nếu không là Đức Giê-su? Hơn nữa, khởi đi từ những lời: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, không có gì phải phân vân nữa. Đây rõ ràng là biểu thức Chúa Giê-su sử dụng trong bài giảng trên núi.
Mặt khác, chúng ta nhớ rằng trong các sách Tin Mừng, đây không là trường hợp duy nhất Chúa Giê-su quy chiếu đến hạnh kiểm không gì tốt đẹp của nhân vật để từ đó rút ra bài học của Ngài, ví dụ như viên quan tòa bất chính, “ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Viên quan tòa này, sau một thời gian dài từ chối biện hộ cho một bà góa, nhưng cuối cùng đành phải bênh vực bà góa này vì bà cứ năm phen bảy lượt van xin mãi đến đinh tai nhóc óc (Lc 18: 1-8). Nếu như Đức Giê-su không nhấn mạnh tính bất chính của viên quan tòa này, liệu nhân tố kích thích của dụ ngôn có thể được sinh động hay không. Cũng trường hợp như vậy đối với viên quản gia bất lương. Có một bài học mâu thuẩn phải rút ra từ sự khôn khéo của y.
Bận lòng đến tương lai trần thế:
Viên quản gia đã biển thủ của cải của chủ mình. Chuyện đến tai ông chủ, ông liền gọi anh đến và nói với anh: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy thanh toán sổ sách công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa?”. Vì thế, anh bị lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, nếu không tìm được một lối thoát. Anh tự nhủ: “Mình biết phải làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”; lúc đó anh vận dụng thủ đoạn xảo trá mà dụ ngôn mô tả. Anh biết tận dụng thời gian đương nhiệm còn lại của mình nhờ của cải không phải của anh để mà sau này những con nợ của chủ biết ơn anh và hậu tạ anh.
Anh được chủ khen ngợi không phải cái tính bất lương của anh, nhưng sự khôn khéo, biết lo toan, tính toán làm sao cho tương lai của mình được đảm bảo sau này. Chính ở nơi những nổ lực này mà Chúa Giê-su muốn thính giả của Ngài để tâm lưu ý đến. Ngài chuyển dụ ngôn từ tương lai trần thế sang tương lai vĩnh cửu. Nếu con cái ánh sáng để hết tâm trí vào ơn cứu độ của mình cũng sinh động như người quản gia bất lương này thì tốt biết mấy. Họ sẽ sử dụng tối đa cuộc sống tràn thế của mình để đảm bảo cho mình được tiếp đón trong Nước Trời: không phải tên biển thủ của dụ ngôn đã bày tỏ sự khinh miệt của anh đối với tiền của khi sử dụng nó như phương tiện để đạt cho bằng được mục đích của anh là đảm bảo cho mình một tương lai sao?
Quan tâm đến tương lai vĩnh cửu:
“Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”. Chúa Giê-su phát biểu như một ông chủ sở hữu của cải tinh thần mà môn đệ của Ngài sẽ là những quản gia. Họ phải biết tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Của cải tinh thần này mới là của cải chân thật duy nhất, không hề hư hoại. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”. Cuối cùng, Chúa Giê-su cảnh giác coi chừng đừng làm tôi hai chủ: “Thiên Chúa hay Thần Tài”.
(*)Tựa đề do BTT. GPBR đặt
————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.
Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.
Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.
Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.
Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.
Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.
Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.
Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.
Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
4) Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?
————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CÁCH QUẢN LÝ TIỀN CỦA- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
“Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”
Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong thời đại kinh tế thị trường và văn minh hưởng thụ ngày nay, tiền bạc là một cám dỗ rất lớn, tiền bạc có thể làm cho người ta quên mất tình nghĩa với anh em và xa rời tình yêu Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy nghe lời Chúa dạy chúng ta biết sử dụng tiền bạc như thế nào để nó luôn là đầy tớ phục vụ mình, chứ không bao giờ là ông chủ bắt ta nô lệ nó.
Gợi ý sám hối
- Chúng con quá mải mê kiếm tiền đến nỗi nhiều khi lơ là bổn phận đối với Chúa.
- Chúng con quá coi trọng tiền bạc đến nỗi nhiều lần lỗi công bình và bác ái.
- Chúng con chưa yêu mến Chúa trên hết mọi sự.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Am 8, 4-7)
Ngôn sứ Amos mạnh mẽ lên án những tội lỗi của người giàu: Họ mê kiếm thêm tiền đến nỗi ngay trong những ngày lễ như mồng một và sabát họ chỉ mong cho ngày lễ ấy chóng qua để họ tiếp tục làm ăn kiếm thêm tiền. Khi làm ăn, họ dùng đủ cách gian lận “làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm”. Đặc biệt họ khai thác và bóc lột những người nghèo.
- Đáp ca (Tv 112)
Ca ngợi Chúa vì đã cứu giúp và nâng đỡ những người nghèo.
- Tin Mừng (Lc 16, 1-13)
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy môn đệ mình cách xử dụng tiền bạc của cải vật chất. Trước tiên Ngài dùng một dụ ngôn (người quản gia), và sau đó nói về cách xử dụng tiền của.
Dụ ngôn người quản gia: đối với dân Do Thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý miễn sao có lợi cho chủ thôi. BJ nói quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
– Chúa Giêsu nói người quản gia trong dụ ngôn này là “bất lương”. Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh còn bàn cãi nhau về sự “bất lương” này (ăn gian tiền của chủ? cho vay ăn lời cắt cổ? hay là sửa đổi giấy nợ?. . . ).
– Nhưng điều Chúa Giêsu muốn ta noi gương nơi người quản gia này là cách xử dụng tiền của: Người quản gia này là “con cái thế gian”, thế mà còn biết sử dụng của cải một cách khôn khéo bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai. “Con cái của sự sáng” phải noi gương đó, phải biết dùng của cải thế gian mà mua sắm của cải trên trời.
Những điểm đáng chú ý trong lời Chúa Giêsu dạy về tiền của: Ngài đánh giá tiền của là “gian dối”. Ngài khuyên dùng tiền của đời này để mua lấy những giá trị đời sau.
Phải coi tiền của là đấy tớ phục vụ mình, chứ đừng coi chúng là ông chủ mà mình phải làm nô lệ.
Chính những người được coi là đạo đức như biệt phái mà cũng mang tính tham lam.
- Bài đọc II (1 Tm 2, 1-8) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê khuyên tín hữu mình đừng ganh tị tranh chấp với nhau: Nguồn gốc của tranh chấp là lòng tham. Thay vì tranh chấp, hãy tích cực xây dựng hòa bình.
Gợi ý giảng
Dùng tiền của hiện tại để mua bảo đảm cho tương lai
Dụ ngôn này nói tới một người quản gia kia bị tố cáo là phung phí tài sản của chủ nên bị chủ báo tin là sẽ cho thôi việc. Anh ta lo sợ trước viễn tượng một tương lai bấp bênh nên đã tìm cách xoay sở, để sau này khi anh mất việc thì có nhiều người giúp đỡ anh.
Mấu chốt của câu chuyện là cách xoay sở của anh: anh gọi những người thiếu nợ đến và sửa lại giấy nợ, nghĩa là giảm bớt phần nợ mà họ phải trả. Làm như thế họ sẽ biết ơn anh và sau này sẽ giúp anh để đền ơn.
Thế nhưng cách xoay sở bằng cách sửa lại giấy nợ như thế có lương thiện hay không? Hiện có hai lối giải thích:
– Giải thích thứ nhất cho rằng anh ta không lương thiện: lẽ ra con nợ thứ nhất phải trả cho chủ 100 thùng dầu thì anh bớt đi chỉ còn phải trả 50 thùng thôi; con nợ thứ hai lẽ ra phải trả 1000 thùng lúa thì anh bớt đi chỉ còn 800. Như thế là làm thiệt hại cho chủ. Anh ta lấy một phần tài sản của chủ để mua lấy tình cảm cho bản thân anh. Nói nôm na hơn, anh ta “mượn đầu heo nấu cháo”.
– Giải thích thứ hai cho rằng anh lương thiện: Theo tục lệ Do Thái, người quản gia không được trả lương, nhưng bù lại, chủ thường uyển chuyển hoặc làm ngơ để cho người quản gia dùng tài sản của chủ mà kiếm ăn riêng, miễn sao không hại đến tài sản của chủ thôi. Người quản gia này đã lấy 50 thùng dầu của chủ để cho người ta vay nhưng trong giấy nợ anh ghi là 100 thùng, tức là có thêm 50 thùng mà anh ta sẽ hưởng; cũng thế anh lấy 800 thùng lúa của chủ để cho vay nhưng trong giấy nợ lại ghi là 1000 nghĩa là có phần của anh 200 thùng. Đến lúc cần mua lòng người ta, người quản gia này đã hy sinh phần lời mà anh được hưởng, anh dùng phần đó để mua tình cảm của những người thiếu nợ. Nói nôm na, anh này đã “bỏ con tép để bắt con tôm”. Như thế, anh xoay sở cách lương thiện.
Hai giải thích trên, giải thích nào cũng có phần đúng. Chúng ta không biết chọn theo giải thích nào. Nhưng điều đáng chúng ta lưu ý, mà cũng là điều chính Chúa Giêsu bảo chúng ta học theo, đó là anh biết dùng của cải vật chất hiện tại để mua sắm những thứ bảo đảm cho tương lai: đối với người quản gia này, để mua lấy bảo đảm cho tương lai, anh không tiếc phải hy sinh tài sản hiện tại. Hiện tại, anh làm ơn cho những người thiếu nợ anh, để sau này những người đó sẽ trả ơn cho anh.
Những việc nhỏ dẫn đến việc lớn
Người ta không phạm một tội lỗi tày trời ngay trong một sớm một chiều; người ta cũng không làm một việc tốt vĩ đại ngay trong một sớm một chiều. Việc lớn là hậu quả hay kết quả của những việc nho nhỏ mà người ta đã bắt đầu làm từ rất lâu trong quá khứ.
Như người quản gia trong dụ ngôn này, có lẽ khi mới được chủ chọn làm người coi sóc tài sản, anh đã làm rất tốt. Dần dần đồng tiền có sẵn trong tay cám dỗ anh ăn bớt ăn xén, khởi sự là một số tiền nhỏ, dần dần lớn hơn… Rất có thể đôi khi lương tâm anh cũng sống lại, khiến anh biết điều mình làm là sai trái. Nhưng vì đã quen ham tiền và quen kiếm tiền cách bất chính nên anh không dừng lại được, trái lại càng ngày càng lún sâu hơn trong tội lỗi. Cho đến một ngày kia, sự việc đổ bể, chủ gọi anh đến và cất chức anh.
Tục ngữ có câu “Túi tham không đáy”. Chúng ta đừng tự lừa dối mình rằng “Chỉ một ít này thôi, chỉ một lần này thôi”, bởi vì một khi đã dùng cách bất chính để bỏ vào túi tham của mình một ít tiền thì cái túi ấy chẳng những không đầy, trái lại nó càng sâu thêm, lòng tham của mình đói khát thêm và lại đòi ăn thêm nữa.
Hằng ngày đọc báo, nghe đài và xem truyền hình, chúng ta thấy nhiều người phải ra tòa rồi vào tù vì tội ăn cắp tài sản của người khác hoặc của công. Đáng chú ý là thủ phạm của những vụ ăn cắp lớn không phải là những người nghèo mà là những người giàu. Họ đâu có túng thiếu, họ còn dư thừa nữa là đàng khác. Nhưng căn bệnh nguy hiểm của họ là tiền bạc họ có thay vì thỏa mãn họ thì lại làm cho họ thèm khát hơn.
Cách tốt nhất để không bị đồng tiền làm hại là hãy kiếm tiền cách chân chính và đừng bao giờ bắt đầu một hành vi gian tham dù rất nhỏ nhặt.
Nhận lãnh để trao ban
Có một nhà kia tính mời vài đạo sĩ tới lập đàn giải trừ tai nạn. Một đạo sĩ nọ tham lam, muốn một mình hưởng trọn số tiền chủ nhà trả ông, liền nhận bao thầu hết việc lập đàn cúng bái.
Ông ta chẳng kể ngày đêm. Làm việc luôn tay luôn chân, không hề ngơi nghỉ. Cứ như thế đến ngày thứ ba thì kiệt sức, đơ tay, ngã vật ra đất. Chủ nhà sợ ông ta chết, mang hoạ, liền thuê người khiêng ông về miếu. Đạo sĩ nghe vậy, cố ngước đầu lên thì thào:
Ông hãy đưa tiền thuê người cho tôi, tôi tự mình lần về miếu cũng được.
*
Những người coi đồng tiền to hơn mạng sống của mình, rốt cuộc cũng chẳng được gì. Thấu hiểu lòng ham mê tiền bạc của con người, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Người khen ông quản gia khôn khéo không phải vì hành động bất lương của ông, nhưng vì ông biết lo xa cho tương lai của mình. Ông khôn khéo vì ông biết dùng tiền của tạm bợ để mua lấy bạn hữu.
Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để to liệu cho ngày mai, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi của mình ở tương lai?
Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu, sao người tín hữu lại không biết sử dụng của cải phù dù, chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không “trung tín trong việc nhỏ” là sử dụng tiền của để bảo đảm cho ta của cải chân thật đời sau?
Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều mình đã trao ban. Tác giả Augier còn viết: “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quĩ của người nghèo”. Vì thế, chỉ khi nào biết quảng đại trao ban cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý chủ, những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào biết coi tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thựïc sự “làm tôi Thiên Chúa”.
*
Lạy Chúa, trong khi chúng con đang bôn ba tìm kiếm những của cải tạm bợ đời này, xin cho chúng con cũng biết khôn ngoan tích trữ cho mình gia tài vĩnh cửu là hạnh phúc Nước Trời. Amen. (TP)
Chuyện minh họa
a/ Cửa sổ hoặc tấm gương
Một người Do Thái giàu có nhưng rất keo kiệt đến gặp một vị giáo trưởng để xin một lời hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Vị giáo trưởng đưa anh đến bên cửa sổ và nói: “Ông hãy nhìn qua cửa sổ và tôi biết ông thấy gì. ” Không một chút do dự, người giàu có trả lời: “Tôi thấy nhiều người đi qua đi lại. ” Sau đó vị giáo trưởng bảo người giàu có quay mặt vào trong nhà và nhìn vào một tấm gương treo trên tường. Rồi ông cũng đặt câu hỏi tương tự: “Nào, bây giờ ông thấy gì trong tấm gương?” – “Dĩ nhiên tôi chỉ thấy tôi”.
Bấy giờ vị giáo trưởng mới rút ra một bài học: “Này nhé, tấm gương được làm bằng kính, phía sau phủ một lớp bạc mỏng. Bao lâu lớp bạc mỏng còn dính chặt đàng sau tấm kính thì nhìn vào đó ông sẽ không còn thấy người nào khác nữa mà chỉ thấy có mình ông thôi. Trái lại khi nhìn qua tấm kính trong suốt ở cửa sổ, ông đã thấy được những người khác. (Trích “Món quà giáng sinh”)
b/ Loại tiền cho đi
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
– Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?
– Chỉ một đồng thôi.
– Còn tô lớn kia?
– Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
– Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
– Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
– Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
– Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
c/ Đạo một mắt
Bác sĩ A. J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không có nguy cơ bị mù. Ông hỏi:
– Nhưng giá bao nhiêu?
– Chữa mỗi mắt là 100 đô.
Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù loà. Rồi ông nói với bác sĩ: “Tôi chỉ chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn!”
Nhiều người vẫn cầu nguyện: “Xin mở mắt con để thấy kì công của Chúa. . . ” Nhưng xem ra nhiều Kitô-hữu chỉ muốn Chúa mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để mà trông coi gia sản!
d/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghĩa Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
Mảnh suy tư
a/ Tiền
Người công nhân đồ mồ hôi để có được nó
Kẻ hoang phí thì đốt nó
Chủ ngân hàng đem nó cho vay
Đàn bà xài nó
Kẻ lưu manh làm giả nó
Nhân viên thuế vụ lấy nó
Người hấp hối lìa bỏ nó
Kẻ thừa kế tiếp thu nó
Người tiết kiệm để dành nó
Người keo kiệt thèm khát nó
Kẻ ăn trộm chộp lấy nó
Người giàu gia tăng nó
Người cờ bạc bị mất nó
Phần tôi thì dùng nó (Quote)
b/ Khả năng thật của tiền bạc
Tiền có thể mua được cái vỏ nhưng không mua được cái nhân
Nó có thể mang đến cho bạn thức ăn, nhưng không mang đến khẩu vị
Nó giúp bạn có nhiều người quen, nhưng không giúp bạn có bạn bè
Nó giúp bạn có những đầy tớ, nhưng không giúp bạn có được lòng trung thành của họ.
Nó ban cho bạn những tháng ngày hưởng thụ, nhưng không cho bạn bình an và hạnh phúc (Henrik Ibsen)
c/ Những thứ mà tiền không mua được
Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn.
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui lành mạnh.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Đấng yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin:
– Hội thánh là dấu chỉ ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / biết luôn quan tâm đến việc rao giảng Tin mừng cho mọi nước mọi dân.
– Hiện nay / vẫn còn có biết bao người không nhà không cửa / nghèo khổ cùng cực / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc xóa đói giảm nghèo / mang lại hiệu quả thiết thực cho những người bất hạnh trong xã hội.
– Tiền bạc là một người đầy tớ tốt / nhưng luôn luôn là một ông chủ xấu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết sử dụng của cải Chúa ban theo đúng tinh thần nghèo khó của Tin mừng.
– Giúp mọi người sống xứng với nhân phẩm của mình / là bổn phận cao quý của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết rộng rãi giúp đỡ những ai thật sự khó nghèo / để họ có thể sống xứng với thân phận con người.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con: Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Xin cho chúng con chỉ biết tôn thờ một mình Thiên Chúa, và chỉ sử dụng tiền của như một phương tiện Chúa ban để nuôi sống bản thân và gia đình, đóng góp vào việc công ích và chia sẻ cho những người nghèo khổ. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta sắp nói với Chúa Cha rằng “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Lời nguyện này không nhằm xin cho có của ăn cho bằng xin có tinh thần phó thác vào Chúa quan phòng thay vì óc tham lam tích trữ.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt xin cứu chúng con khỏi tính tham lam và sự nô lệ tiền của, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an ”
VII. Giải tán
Trước khi ra về, chúng ta hãy ôn lại một lời Chúa nói hôm nay “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng làm chủ tiền của và làm tôi Thiên Chúa.
————————————————————-
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
TÍCH TRỮ CỦA CẢI THIÊNG LIÊNG- Lm Giuse Đinh lập Liễm
DẪN NHẬP.
Người ta thường nói :”Có tiền mua tiên cũng được”. Nhiều người cho rằng với đồng tiền thì làm gì cũng đực, muốn gì cũng có vì đồng tiền là vạn năng ! Nhưng có những cái mà với đồng tiền người ta không thể sắm được, ví dụ Nước Trời, phần rỗi linh hồn. Nhân dịp này, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn “Người quản gia bất lương” để khuyến khích chúng ta phải biết cách dùng của cải, nhất là phải khôn ngoan trong việc lo cho tương lai của mình, tức là phần rỗi đời đời của mình trên Nước Trời.
Dụ ngôn hôm nay có thể gây hiểu lầm cho nhiều người. Mới đọc qua, ta thấy Đức Giêsu như khen nguời quản lý bất lương đã khôn khéo dùng mánh lới để kiếm được bạn hữu sau khi bị ông chủ thải hồi. Xem ra Đức Giêsu cho phép chúng ta theo gương người quản gia này đểâ dùng mọi mánh lới khôn khéo mà tìm lợi cho mình. Nhưng đọc kỹ, ta thấy Đức Giêsu không khen việc làm bất lương của anh ta mà chỉ khen cái khôn khéo của anh ta trong việc biết lo cho tương lai của mình. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu khuyến khích chúng ta phải biết lo cho cho phần rỗi của mình giống như người quản gia bất lương biết lo cho tương lai vật chất của anh ta.
Tất cả chúng ta đều là quản gia của Chúa vì tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban, như thánh Phaolô nói:”Có gì mà bạn đã không nhận nơi Chúa”. Với tư cách quản gia, chúng ta phải trung thành quản lý tài sản mà Chúa đã trao phó, phải biết làm lợi ra, phải biết chia sẻ và biết dùng tài sản này mà mua được phần rỗi của mình trên Nước Trời.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Am 8,4-7.
Tiếng kêu của tiên tri Amos cách Đức Giêsu 800 năm mà hôm nay vẫn còn hợp thời. Ông được đời sau đánh giá là lương tâm của thời đại ông, một thời đại đầy dẫy bất công xã hội và người nghèo bị bóc lột đến tận xương tủy. Ông lên án những tội của người giầu :
– Ngay những ngày lễ cũng bị sử dụng cho việc buôn bán để kiếm lời.
– Họ gian lận bằng cách thu hẹp đấu lại và làm nặng thêm quả cân.
– Khai thác và bóc lột những người nghèo khó.
Nhà tiên tri đã cảnh cáo:”Chẳng bao giờ Ta sẽ quên một hành vi nào của chúng”(Am 8.7).
+ Bài đọc 2 : 1Tm 2,1-8.
Thánh Phaolô chỉ dẫn choTimôthêô tổ chức lời kinh cho mọi người trong cộng đoàn phụng vụ. Phải có tinh thần liên đới trong khi cầu nguyện, nghĩa là Kitô hữu đại diện cho nhân lọai, liên kết với nhân lọai trước mặt Thiên Chúa.
Khi cầu nguyện người Kitô hữu mở rộng lòng ra ôm lấy thế giới để tạ ơn, để cầu xin với mọi người và cho mọi người. Tại sao lại có nhiệm vụ ấy ? Bởi vì Thiên Chúa của người Kitô hữu là Thiên Chúa của tất cả mọi người và Ngài muốn tất cả được ơn cứu rỗi. Riêng vị sứ giả Tin mừng càng phải làm chứng về điều này cách hăng say hơn.
+ Bài Tin mừng : Lc 16,1-13.
Truyện người quản gia bất trung ta gặp thấy hằng ngày trong cuộc sống . Đối với dân Do thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý, miễn sao có lợi cho chủ thôi. Quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
Đức Giêsu không khen cái hành vi bất chính của anh ta , nhưng khen cái sự khôn khéo biết lo cho tương lai. Bài học rút ra cho người Kitô hữu là khi phải lo phần rỗi linh hồn thì phải làm mọi chuyện để được cứu rỗi. Bằng cách nào ? Bằng cách chia sẻ với người nghèo. Không có cách nào giữ của chắc chắn hơn.
Trong khi xử dụng tiền của phải rất khôn ngoan, phải biến nó thành tôi tớ trung thành, đừng để nó trở thành ông chủ khắc nghiệt vì “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,13).
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Cách dùng tiền của đời này.
DỤ NGÔN NGƯỜI QUẢN GIA BẤT LƯƠNG.
Để dạy ta phải biết lo xa cho đời sống tương lai của linh hồn mình, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn nói về một người quản gia biết lo xa cho đời sống vật chất của mình.
Người quản gia ở Palestine.
Tại Palestine có nhiều địa chủ vắng mặt ở lãnh địa của mình nên tất cả công việc của ông được trao vào tay người quản gia của ông. Theo luật Do thái, người quản gia không phải là một nhân viên được trả công, nhưng toàn quyền thay mặt chủ và chủ phải tôn trọng những dịch vụ buôn bán của người quản gia.
Trong trường hợp người quản gia bất trung phung phí của chủ, luật pháp cũng không có biện pháp nào bắt buộc ông phải hoàn lại của đã mất, chỉ có cách là sa thải. Sau khi nhận được giấy sa thải, người quản gia phải tính sổ liệt kê tài sản, việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện của chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ. Ở đây, người quản gia bị ông chủ là nhà phú hộ khiển trách, vì đã phung phí của chủ và đó là hành vi bất lương và gian dối của người quản gia, khiến ông chủ sa thải.
Kế họach của người quản gia.
Ở trong tình tình trạng này, người quản gia phải suy nghĩ về số phận tương lai của mình sau khi bị sa thải. Làm việc bằng chân tay thì không quen vì xưa nay chuyên ăn trên ngồi trốc rồi. Phải liệu cách nào để sau khi mất chức quản gia, thì sẽ có người đón tiếp mình về nhà họ.
Thế là không chút chần chừ, ông cho gọi “từng con nợ”của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng là dịp may hiếm có, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 thùng dầu xuống chỉ còn 50 (bớt khỏang 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt khoảng 6000 ký).
Từ nay mọi người đều đồng lõa với nhau giữ kín bí mật : đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng một vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm “sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ”.
Dụ ngôn người quản gia bất lương là một trong những đoạn Tin mừng từng bị hiểu sai nhiều nhất : bao nhiêu người đã xem đây như bằng chứng Đức Giêsu cho phép làm điều bất lương. Thọat nghe ta lấy làm vấp phạm khi Đức Giêsu lên tiếng khen người quản lý bất lương đã hành động cách tinh quái. Lẽ ra thì Ngài phải kết án việc làm gian lận của người quản lý hay ít ra cũng chỉ trích cái hành động cướp gạt của anh ta như tiên tri Amos đã tố cáo những tệ đoan xã hội thời bấy giờ. Amos mô tả việc người giầu có nóng lòng chờ đợi cho qua ngày lễ nghỉ để họ có thể lường gạt và bóc lột người nghèo (Am 8,5-6).
Tuy nhiên, đi sâu vào vấn đề ta thấy Đức Giêsu không khích lệ việc người quản gia phung phí tài sản của chủ. Thực ra, Ngài chỉ khen cái mánh lới của anh ta mà thôi. Ngài khen người quản gia có khả năng hành động kịp thời và quyết liệt khi bị giồn vào thế chân tường. Rồi từ đó Ngài kết luận : “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn hơn con cái ánh sáng” (Lc 16,8). Và rồi Đức Giêsu thách thức ta : Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước các con vào nơi ở vĩnh cửu (Lc 16,9). Nghĩa là con cái ánh sáng cần phải xử sự cách khôn khéo để làm sao tiền bạc không trở nên một thế lực thống trị và biến chúng ta thành nô lệ; trái lại, cần phải biến nó thành phương tiện phục vụ con người thông qua làm phúc bố thí chứ không phải bo bo giữ cho riêng mình. Người Kitô hữu nhớ rằng, tiền bạc không phải là cùng đích mà chỉ là phương tiện. Chúng ta xử sự thế nào để tiền của không cản trở bước đường đi đến đời sống vĩnh cửu khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay.
NÓI VỀ TIỀN CỦA.
Tiền của là những gì ?
Tiền của đây nói chung là gia tài hay tài sản, là tất cả những gì mình có. Gia tài vật chất là của cải, là thân xác, là địa lợi chung quanh. Gia tài tinh thần là tài năng, tâm trí, đức hạnh, linh hồn. Gia tài vô cùng quí giá là nguồn sống vô biên tuôn trào từ các bí tích, từ lời hằng sống , từ trái tim và thần khí của Đức Giêsu… Tất cả những cái đó ta phải “quản lý”. Chúa sẽ yêu cầu chúng ta phải phúc trình về chúng. Ta không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã trao cho chúng ta. Ai là người quản lý trung tín và khôn ngoan thì biết khôn khéo dùng những gia tài ấy để kinh doanh, phát triển, đầu tư vào những công trình chân chính mà mua lấy bạn bè, sắm lấy những kho tàng, sắm lấy những viên ngọc qúi trong Nước Thiên Chúa. Đó là cách xử sự khôn khéo của con cái sự sáng.
Sức mạnh của tiền bạc.
Người đời thường nói :”Có tiền mua tiên cũng được, không tiền mua lược không xong”.
Tiên là bà tiên, cô tiên, một hạng người đẹp cả người lẫn nết, không bao giờ chết, lúc biến lúc hiện do trí tượng tượng người ta hình dung ra. Tiên là một hạng người không có thực, vậy có tiền cũng không có thể mua.
Câu này cực tả cái giá trị của đồng tiền, đại ý nói rằng có tiền thì việc khó đến đâu , cũng làm được, của hiếm đến đâu cũng mua được. Không tiền thì cái tầm thường nhất cũng không mua được. Có câu tục ngữ tiếp theo câu trên :”Không tiền mua lược không xong”.
Người có tiền thì có thế, được nhiều người kiêng nể, có thể sai khiến được nhiều người, khiến họ phải hầu hạ, đưa rước và tạo thêm được nhiều kẻ nịnh hót :
Có tiền chán vạn người hầu,
Có bấc có dầu chán vạn người khêu.
(Ca dao)
Đồng tiền cũng có sức mạnh phi thường, nó có thể đổi trắng thay đen lòng người, nó có thể biến những con người lương thiện thành con người bất lương, mà nhiều người không thể cưỡng lại được :
Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô lòng người.
(Ca dao)
Cổ nhân cũng đã có kinh nghiệm nên đã từng nói :”Hoàng kim hắc thế tâm”.
Hành động của Giuđa đã nói lên kinh nghiệm đó. Giuđa là một trong 12 tông đồ thân tín của Đức Giêsu, được Ngài yêu thương tận tình, nhưng vì tham tiền, anh ta đã bán rẻ lương tâm, không còn nghĩ gì đến tình nghĩa thầy trò,sẵn sàng bán Ngài cho người Do thái với giá 30 đồng bạc. Quá rẻ ! Anh ta đã bị đồng tiền chi phối, không thể chống lại được.
Nguy hiểm của tiền bạc.
Có phải “Tiền là Tiên là Phật, là sức bật của lò so, là thước đo lòng người “ chăng ?
Qua tin tức báo chí và kinh nghiệm thực tế, có lẽ ta phải nhìn nhận sức mạnh của tiền tài quả là đáng sợ. Nó có thể làm mờ lương tri, biến chất lòng người, sụp đổ ý chí, lụi bại thanh danh, tiêu tan trách nhiệm… Thế nên có tiền tài và sử dụng làm sao cho tốt đẹp không phải là chuyện dễ.
Biết bao câu tục ngữ :”Tiền bạc là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu”. Tiền tài vừa nguy hiểm vừa đáng sợ mà ai cũng thích có nhiều, chỉ vì cái sức mạnh của nó, như câu tục ngữ của nước Nga :”Với một túi tiền treo nơi cổ, không ai có thể bị chết treo”.
Nhà thơ Tú Xương còn mỉa mai :
Ví thử trong tay tiền bạc có,
Nói dối như cuội chán người nghe.
Có thể nói tiền bạc là con dao hai lưỡi. Theo đó, càng nhiều tiền thì con dao hai lưỡi càng khó sử dụng.
Truyện : Lời khuyên của vị giáo trưởng.
Một lần kia, có một người giầu có nhưng keo kiệt đến gặp vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giầu một cách thân thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói :”Ông hãy nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy cái gì” ?
“Tôi thấy người ta đi qua, đi lại,” ông nhà giầu đáp.
Rồi giáo trưởng đưa ông ra khỏi cửa sổ, dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói:”Ông hãy nhìn vào tấm gương này và nói ông thấy gi”.
“Tôi thấy chính tôi”, ông nhà giầu đáp.
“Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có trát lên một lớp bạc. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông” (McCarthy).
Tiền của và hạnh phúc.
Tiền của là phương tiện chứ không phải là mục đích, nhưng có nhiều người coi đó là mục đích, là chúa tể. Càng có nhiều tiền của càng muốn có nhiều hơn. Họ theo đạo thờ thần Mammon. Tiếng Mammon chỉ chung những gì nghịch với Thiên Chúa, mà tiền của đứng hàng đầu.
Nhiều tiền bạc chưa chắc đã sung sướng, chưa chắc đã hạnh phúc. Có những trường hợp con người sa đọa, tội lỗi, hư hỏng, vì dư thừa tiền bạc, phủ phê vật chất thì sao ? Hoặc những gia đình giầu có nhưng sống ngột ngạt, bất hòa thường xuyên, chúng ta giải thích thế nào ? Bởi vì tiền là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng.
Thi sĩ Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận :
Trong tay đã có đồng tiền
Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.
Nhà thơ Nguyễn bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng :
Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử,
Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi.
Chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn và ý nghĩa cuộc sống trong của cải. Nhưng khi chúng ta sốt sắng phục vụ người khác, điều này đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Cho người khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình sống mãi.
Henrik Ibsen nói:”Tiền bạc có thể mua vỏ ngoài của sự vật nhưng không thể mua cái lõi của chúng. Nó đem đến cho bạn thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng; thuốc men nhưng không phải sức khỏe, sự quen biết nhưng không phải bạn bè, tôi tớ nhưng không phải lòng trung tín, những ngày đầy lạc thú nhưng không phải sự bình an và hạnh phúc”.
Đúng là :
An cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy,
An cơm với cáy thì ngáy o o.
III. NGƯỜI QUẢN GIA TRUNG TÍN.
Người giầu có là quản gia của Thiên Chúa.
Có lẽ một phần do ảnh hưởng của cuộc sống khó khăn, phần khác do quá tham lam mù quáng mà chúng ta đã có một suy nghĩ lệch lạc về của cải, đó là chúng ta cứ tưởng mình luôn làm chủ của cải. Nhưng nếu biết suy xét cẩn thận, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra của cải vật chất mà chúng ta đang có đều thuộc về Thiên Chúa, vì chính Ngài mới là Chủ vật chất và Đấng sở hữu đích thực; còn chúng ta , nói một cách trung thực, chỉ là những người quản lý, coi sóc tạm thời. Cho nên, nếu chúng ta cứ tưởng lầm mình là chủ, tất nhiên chúng ta sẽ không tránh khỏi sự lạm dụng quyền hành hoặc bo bo giữ lấy của cải như lẽ sống đời mình để rồi dùng nó theo ý ngông cuồng của mình, sẽ dẫn tới sai trái.
Và một ngộ nhận nữa là chúng ta cứ nghĩ của cải mãi mãi thuộc về mình. Đây là một ngộ nhận tai hại vì không những chúng ta giả điếc làm ngơ trước bao cảnh tay trắng hoàn tay trắng xẩy ra hằng ngày do nhiều nguyên nhân như cháy nhà, bị trộm cướp, bị tai họa, bị tù tội, nhất là bị chết, mà còn cố tình đâm đầu vào làm giầu, tham lam vơ vét của cải như là cùng đích của đời mình. Do đó, kẻ khôn ngoan không phải là kẻ giữ của mà là kẻ biết dùng của cho thật hữu ích vì chúng ta chỉ được phép giữ và sử dụng của cải trong thời hạn nào đó mà thôi.
Người quản gia biết chia sẻ.
Nếu người giầu có là quản gia của Thiên Chúa thì không có quyền giữ bo bo cho mình hoặc sử dụng một cách hoang phí. Họ phải biết chia sẻ nữa. Theo ông Robert Karris:”Tiền bạc (mammon) đều thuộc về thế hệ xấu xa này. Môn đệ phải chuyển mammon thành kho tàng trên trời bằng cách chia sẻ của cải với những người khác, đặc biệt những người túng thiếu. Như thế, tiền của có thể mở lối vào Nước Trời, và lúc ấy tiền của là tên đầy tớ tốt cho ta. Phải biết trung tín khi dùng của cải đời này để có thể được trao phó của đời sau, nghĩa là biết xử dụng của cải như phương tiện chứ không phải như mục đích và xử dụng theo ý Chúa”.
Các rabbi Do thái có câu :”Kẻ giầu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Khi chú giải truyện người giầu ngu dại xây kho vựa lớn hơn để tích trữ của cải, thánh Ambrôsiô có nói :”Bụng của người nghèo, nhà của bà góa, miệng của trẻ nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời”.
Người Do thái tin rằng của bố thí cho kẻ nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Sự giầu có thật của con người không tùy những gì mình nắm giữ, nhưng ở những gì mình cho đi. “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17).
Truyện: Mạnh Thường Quân.
Mạnh Thường Quân nhà giầu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi :
– Ngài có định mua gì về không?
– Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng:”Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng :
– Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên :
– Đó hẳn là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước .
Người quản gia phải trung tín.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đã khẳng định :”Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,16).
Ngày xưa, chủ chiếm hữu nô lệ cách tuyệt đối. Ngày nay thì đầy tớ hay lao công có thể làm công việc cách dễ dàng và có thể làm việc cho hai chủ. Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong giờ bình thường và một công tác khác trong giờ rảnh rỗi. Tỷ như có người làm thơ ký ban ngày và làm nhạc sĩ ban đêm. Nhiều người làm thêm để kiếm tiền hay làm theo sở thích trong những giờ tự do. Thế nhưng một nô lệâ không có giờ tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức lực của anh ta thuộc về chủ. Anh ta không có thời giờ riêng nào. Cũng vậy, phục vụ Thiên Chúa không thể nào là một công việc làm bán thời gian hay công việc của giờ rảnh rỗi. Ai đã chọn sự phục vụ Chúa thì tất cả thời giờ, sức lực của người ấy đều thuộc về Chúa trọn vẹn. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc thuộc trọn về Chúa hay không thuộc về Ngài chút nào.
Sách có chữ rằng :”Trung thần bất sự nhị quân” : Tôi trung không thể làm tôi hai chúa. Đức Giêsu cũng đồng ý như vậy khi đem ra dụ ngôn người quản gia bất lương và kết luận:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”.
Người ta thường nói :”Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là ông chủ rất xấu”, nghĩa là khi chúng ta dùng tiền của như một phương tiện mưu sống, thì lúc ấy tiền bạc rất tốt cho chúng ta. Trái lại, khi chúng ta tôn thờ tiền bạc như một ông Chúa, thì lúc ấy tiền bạc là một điều tai hại; do đó, chúng ta phải dùng tiền bạc như một tên đầy tớ, còn việc tôn thờ thì chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi.
Người quản gia phải biết dừng lại.
Thái độ của người quản gia khôn ngoan là phải biết dừng lại và bằng lòng với những cái mình đang có và cố gắng làm cho tốt hơn, nếu không thì lòng tham vô đáy sẽ đòi hỏi mãi, có thể làm cho chúng ta trở nên mù quáng mà trở thành một quản gia bất lương. Nhà hiền triết Seneca ngày xưa nói rất đúng :”Nếu bạn không coi những gì bạn đang có thì dù bạn có cả thế giới bạn vẫn cảm thấy thiếu”.
Tư tưởng này đông tây gặp nhau :
Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ?
Biết đủ ấy là đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ,
Biết nhàn ấy là nhàn, đợi nhàn bao giờ mới nhàn.
(Cổ ngạn)
Người quản gia biết lo cho tương lai.
Đức Giêsu so sánh :”Con cái đời này đối xử với đồng lọai thì khôn hơn con cái ánh sáng”(Lc 16,8). Rồi từ đó Ngài kết luận :”Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”(Lc 16,9).
Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang xây dựng Nước Chúa. Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang, xây dựng Nước Chúa.
Bài học Chúa muốn dạy ta hôm nay là phải khôn khéo và mạo hiểm, phải dùng óc sáng kiến và tài sáng nghiệp để tạo cho ta một tương lai trong Nước Chúa, như người quản gia bất lương sửa sọan cho tương lai của mình trong nước trần gian. Tại sao ta sẵn sàng mạo hiểm trong những lãnh vực khác của cuộc sống và cảm phục người khác làm như vậy ? Nhưng còn việc liên hệ với Chúa ta lại thường đắn đo và dè dặt. Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn so sánh cái cách thế người ta dùng trong những trường hợp có liên can đến những sự vật trần thế với những cách thế mà người ta dùng để đương đầu với những sự vật thiêng liêng.
Truyện : Đồng tiền trên trời.
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giầu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán :
– Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu ?
– Chỉ một đồng thôi.
– Còn tô lớn kia ?
– Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
– Ở đây chỉ xài lọai tiền-cho-đi thôi. Ông có không ?
Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói :
– Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
– Thế tiền-cho-đi là tiền gì ?
– Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng lọai tiền-cho-đi.
Ông nhà giầu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc lọai tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiều đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
————————————————————–
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
KHÔNG THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa đã thề rằng: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng”. Có gì khiến Chúa phẫn nộ đây! Mấy người buôn bán chỉ tìm lợi nhuận để làm giầu, đến nỗi ngày sabbát trở nên một rào cản đối với công việc kinh doanh của họ trên lưng những người nghèo. Tuy nhiên, họ không thể viện dẫn khủng hoảng để bảo đảm cho công việc của mình. Vào thời bình an, kinh tế thịnh vượng; người ta tin vào những người tín hữu sống gương mẫu để diệt trừ tận gốc việc tôn thờ ngẫu tượng trong đất nước, chấm dứt sự tôn thờ các thần Baal.
Nguồn gốc của tội lỗi thể hiện trong tương quan giữa con người với ngày của Chúa, ngày sabbát. Ai không biết ngày sabbát là người không biết, không tin vào Thiên Chúa, người đó phục vụ một ông chủ khác là: Tiền bạc. Sự bất chính làm cho cán cân công lý bị sai lệch để sống ngày sabbát.
“Ta sẽ không bao giờ lãng quên”, Thiên Chúa tuyên bố một cách trang trọng như thế. Con người có thể làm quen với sự bất chính và biện minh cho tội lỗi của mình, nhưng thực ra lại chộp lấy một ngày khác. Một xã hội được xây dựng trên sự bất công là xúc phạm tới Thiên Chúa. Vì sự tôn thờ ngẫu tượng còn nguy hại hơn tôn thờ thần Baal: Tiền bạc làm cho lòng người tham lam vô độ và biến tha nhân thành nô lệ;
Vũ khí đầu tiên để chống lại sự tha hóa này là cầu nguyện. Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch”. Ngài giải thích: “Đó là điều tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu Độ chúng ta là Thiên Chúa.” Ý Chúa “muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý”, có nghĩa là, để ra khỏi chốn tù đầy bất công, con người cần phải biết đến Thiên Chúa tình yêu, Ngài đã yêu thương họ và sống cho tình yêu ấy. Chính vì vậy, mỗi Thánh lễ, lời cầu nguyện của chúng ta là phổ quát. Khi xin Thiên Chúa cho chúng ta ơn nhận biết tình yêu của Ngài
đối với nhân loại, chúng ta xin Ngài chỉ cho chúng ta biết hành động thế nào để xây dựng một thế giới công bằng và văn minh hơn.
Trong một thế giới như thế, tương quan hỗ tương là cần thiết: người ta sẽ gọi nhau là anh em. Để minh họa, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn. Khung cảnh diễn ra nơi nhà người giầu, có một viên quản lý, khi thấy anh ta lừa đảo, dối trá. Chủ liền cách chức và bắt tính sổ, không ai hay biết việc anh quản lý nghĩ gì. Chỉ thấy anh giảm nợ cho các con nợ của ông chủ. Anh ta dễ dàng hào hiệp với sự giầu có của người khác!
Thật là lạ, ông chủ khen anh…không phải vì anh lương thiện, cho bằng anh đã khôn khéo trong cách đối xử với đồng loại. Đây là điểm sáng cho tất cả người kitô hữu chúng ta. Đức Giêsu cũng bảo chúng ta: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.” Thật vậy, toàn bộ đời sống ta hướng về Chúa, và chúng ta được mời gọi nhìn mọi sự trên thế gian này như là phương tiện để lắm bắt lấy. Tiền bạc là một phương tiện, người quản lý gian dối đã dùng. Chúng ta sử dụng tiền bạc với tinh thần siêu nhiên như Thiên Chúa mời gọi. Vậy, hãy làm phúc hoặc ký gửi sinh lời để giúp đỡ, hoặc tha nợ cho những người nghèo mà, chính họ mai sau sẽ đón tiếp
chúng ta vào nhà của họ, ngày mà thần chết sẽ đến để chia rẽ chúng ta với của cải tiền bạc. Nhà của người nghèo như Đức Giêsu dạy chúng ta, chính là Nước Thiên Chúa! Vậy hôm nay, hãy cho đi để mai sau được nhận lãnh nơi nhà Cha trên trời.
Tất cả chúng ta, những người đã chịu phép Rửa tôi, đều được đặt làm người quản lý các ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại ích kỷ, khép kín lòng mình trước sự độ lượng của Chúa Thánh Thần? Tại sao ta lại dập tắt lòng trắc ẩn của Chúa Thánh Thần, và mua anh với sự nghèo hèn của họ? Hãy sẻ chia, hãy phân phát tất cả những gì chúng ta đã nhận lãnh, như người quản lý khôn khéo. Đây là thái độ làm hài lòng ông chủ và bảo đảm cho chúng ta có một chỗ trong nhà Cha trên Trời.
Đây là sứ điệp trung tâm của đoạn Tin Mừng: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”. Chúng ta quyết định ung dung “làm tôi Tiền của”, trong khi chúng ta là con cái Thiên Chúa và hạnh phúc vì làm con; tại sao lại tôn thờ thần tượng tiền của, cùng với thế gian này sẽ qua đi và cửa Nước Trời sẽ đóng lại? “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ.” Chỉ có một chủ chứ không có hai chủ. Ai làm đầy tớ cho tiền bạc, người ấy đương nhiên không có quyền làm ông chủ; chính họ mang trên mình cái ách nô lệ này. Sự giầu có không sinh ra với chúng ta, không theo chúng ta đến cùng đích của cuộc đời. Trái lại, Đức Kitô, ở với chúng ta vì Ngài là sự sống… Đừng là những tên nô lệ. Quả thật, đồng tiền đúng ra không có quyền, nó là tên nô lệ bất chính (gian dối).
Đức Giêsu cảnh cáo chúng ta, tiền của còn đáng sợ hơn khi nó làm cho chúng ta tin vào sức mạnh của chính mình, tự cho mình là hoàn hảo. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy làm phúc và cho đi. Nếu người nghèo cần đến người giầu, thì người giầu cũng cần đến người nghèo, vì sự chia sẻ là nền tảng của đời sống huynh đệ và hạnh phúc. Người này học người kia sự đón nhận người khác là rất cần thiết cuộc sống, ai cho đi kẻ ấy phải là người khiêm nhường nhất.
Tiền của nguy hại cho tình bằng hữu, nó cũng nguy hiểm cho tương quan của chúng ta với Chúa. Đức nguyên Giáo hoàn Bênêđictô XVI nói: “Tiền bạc cho phép chúng ta hạnh phúc và làm ra của cải trên thế giới, nhưng tiền của mà thôi không đủ mang đến hạnh phúc cho chúng ta. (…) hạnh phúc là một cái gì đó mà tất cả chúng ta đều mong muốn, nhưng một trong những thảm kịch của thế gian này là con người không bao giờ tìm thấy, vì nó không ở chỗ con người tìm kiếm. Chìa khóa hạnh phúc rất đơn giản: hạnh phúc thật chỉ thấy ở nơi Thiên Chúa. Chúng ta phải can đảm đặt hy vọng tuyệt đối ở nơi Thiên Chúa, không phải nơi tiền của, nơi sự thành công thế gian, hay nơi người đời, nhưng là ở nơi Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể lấp đầy những
khát vọng sâu xa nhất của lòng người” (Thư gửi các bạn trẻ trường công giáo Twickenham).
Bây giờ chúng ta tự hỏi: chúng ta đặt hy vọng vào ai? Chúng đã chọn hạnh phúc nào: hư không qua đi với thế gian này hay sự khiêm nhường thật để đến cùng Thiên Chúa?
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con cách sử dụng tiền bạc và của cải ở thế gian này cách tốt nhất để chuẩn bị cho đời sống mai sau. Xin gìn giữ chúng con trong Chúa Thánh Thần, giúp chúng con tôn trọng phẩm giá anh em. Như thế, chúng con sẽ làm vui thỏa lòng Cha trên Trời và góp phần cho triều đại Nước Chúa ở đây và ngay bây giờ. Amen.
————————————————————
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY BIẾT LO CHO TƯƠNG LAI!- Jos. Vinc. Ngọc Biển
Ngày nay, chúng ta nhận thấy rất nhiều người dùng tiền để mua chuộc, để thăng quan tiến chức; hay có những người giàu vì làm ăn bất chính, nên họ thường rửa tiền để tránh sự dòm ngó của người khác. Những người như thế thường bị xã hội lên án vì hành động bất nhân của họ. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn “Người quản gia bất trung” đã làm thiệt hại cho ông chủ, nên đã bị ông chủ thải hồi. Nhưng, mặt khác, Chúa Giêsu lại khuyên họ hãy học theo gương người quản gia, vì ông ta đã biết dùng tiền của bất chính để mua chuộc bạn hữu, đã biết lo cho tương lai vận mệnh của mình. Phải chăng Chúa khen và cổ súy cho hành vi sai trái này của người quản gia? Vậy, nếu điều đó là tốt thì tốt ở chỗ nào? Và, nếu sai thì sai ở đâu? Chúng ta cùng nhau suy niệm.
Người quản gia bất trung là ai?
Thoạt đầu, mới nghe dụ ngôn này, chúng ta rất dễ bị hiểu lầm. Tuy nhiên, chúng ta cần phải đặt mối tương quan của chúng ta vào toàn bộ tổng thể bản văn, cũng như văn hóa của người Dothái thời bấy giờ, thì mới hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta điều gì!
Với người Dothái thời bấy giờ, có nhiều người giàu có, họ thường lắm đồn điền ở nhiều nơi. Ông chủ không thể hiện diện cùng lúc tại nhiều chỗ được, vì thế, họ thường đặt những quản gia để trông nom kho lẫm và thay mặt mình để quản lý, điều hành mọi công việc.
Như vậy, người quản gia có một thế giá rất đặc biệt trong e kíp lãnh đạo. Ông chỉ đứng đằng sau chủ của ông; và có quyền thay mặt cũng như đại diện ông chủ khi ông vắng nhà; đồng thời có toàn quyền sắp xếp công việc cho những người làm công. Tuy nhiên, ông ta không có lương như những người làm công bình thường, ông ta chỉ có quyền thu xếp công việc và tìm cách làm lợi cho ông chủ. Khi không có lương như vậy, ông ta tìm cách cắt xén và ghi tăng thêm số lượng để lấy những nguồn lợi bất chính đó về cho mình. Quả thật, người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay đã tận dụng cơ hội “quyền huynh thế phụ” để làm ăn bất chính, hầu thu tích của cải cho mình. Nhưng thật không may, ông ta đã bị chủ phát hiện và quyết định đuổi việc: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó ? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!” (Lc 16,2).
Trong hoàn cảnh này, ông ta suy tính: “Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16, 3-4). Quả thật, không lẽ từ một người quản gia mà nay lại đi cuốc đất, hay đi ăn mày? Ông ta không thể làm được những chuyện đó vì những mâu thuẫn với con người và vai trò của ông! “Cái khó ló cái khôn”, trước khi bị đuổi chính thức, ông vẫn còn đủ tư cách là đại diện cho ông chủ, và trong thời gian chờ đợi để bàn giao sổ sách, giấy tờ, ông ta tìm cách lấy lòng và tạo bạn hữu bằng việc giảm nợ cho cho những con nợ: “… ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?’ Người ấy đáp : ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.’ Anh ta bảo : ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.’ Rồi anh ta hỏi người khác : ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy ?’ Người ấy đáp : ‘Một ngàn giạ lúa.’ Anh ta bảo : ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi’” (Lc 16, 5-7). Một cách giải quyết hết sức khôn khéo. Ông vừa được tiếng là tốt bụng, lại còn thêm được rất nhiều bạn bè, hòng khi bị đuổi việc, ông được người ta đón rước mình như một vị đại ân nhân của họ. Và cuối cùng, ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó hành động thật khôn ngoan.
Như vậy, Chúa Giêsu có phải khen người quản gia bất lương vì sự bất lương của hắn ta không? Thưa không! Ngài khen là khen cái tài khôn khéo, biết tính trước cho tương lai vận mệnh của mình, và biết dùng tiền của bất chính để tạo nên bạn hữu. Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy biết lo cho tương lai của mình, bởi vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Cuộc sống là một cái gì mong manh, ta có thể ra đi bất cứ lúc nào, nên: “không biết lo xa, ắt phải rầu gần”. Phần cuối của dụ ngôn, như một mệnh lệnh, Chúa Giêsu nói: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16, 9); mặt khác, Ngài cũng dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền của ở đời này, làm sao tiền của trở thành nô lệ, đày tớ cho chúng ta, chứ đừng biến nó thành ông chủ của mình: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
Sứ Điệp Lời Chúa
Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta biết rằng: mọi sự đều là của Chúa, và chúng ta chỉ là người quản lý mà thôi. Mà nếu chỉ là quản lý, thì phải biết giới hạn, phải biết được vai trò của mình đến đâu và phải lo chu toàn trách vụ mà ông chủ trao cho, vì thế, ta phải trung thành và giữ chữ tín trong khi làm việc: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,16).
Cần tránh những hình thức lạm quyền và sa đà vào tình trạng tội lỗi. Hãy biết chia sẻ cho người khác để làm giàu trước mặt Thiên Chúa và có lợi cho phần hồn của mình. Chia sẻ bác ái được ví như một sự cầu lần, nay người, mai ta: “Người giàu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng người nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Thật thế, “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17).
Cuối cùng, ta phải biết lo cho tương lai của chính mình như người quản gia trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9). Hãy mua lấy Nước Trời và làm giàu trước mặt Thiên Chúa là trách nhiệm hàng đầu của chúng ta. Thật vậy, tiền của vật chất rồi sẽ qua đi, nhưng chỉ có Chúa là tồn tại, vì thế hãy tìm mọi cách mà xây dựng, mua lấy Nước Trời cho cuộc sống mai hậu. Hãy biết lo cho tương lai của mình cách cẩn trọng.
Sống Lời Chúa Hôm Nay
Thế nhưng, trong xã hội hôm nay, nhiều người có những tư tưởng tự cao và cho rằng: ta có được như vậy là nhờ công khó của chính chúng ta, mà họ quên mất một điều căn bản rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” ( (Tv 127,1)). Vì vậy, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa khi ta còn có thể tìm được. Hãy nhạy bén và biết hành xử khôn khéo như người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay.
Câu cảm thán của Chúa Giêsu hôm nay đáng làm cho chúng ta suy nghĩ: “…Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8). Đây là câu nói mang tính khiển trách của Chúa Giêsu về thái độ nhạy bén với những giá trị Nước Trời của mỗi chúng ta. Quả thật, nhiều khi chúng ta gặp phải những cám dỗ, thay vì tìm mọi cách để vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi, thì ta lại như “thiêu thân”, cứ muốn lao mình vào. Biết là những tội đó nguy hại cho phần rỗi của mình, nhưng vẫn cứ ung dung tiến đến và muốn ở lại luôn trong đó, bởi vì nơi đó là vũng lầy, nhưng lại là “vũng lầy êm ái”.
Lý do: vì chúng ta không tha thiết gì đến cuộc sống mai hậu, thậm chí lại còn tìm mọi cách để thoát ra khỏi sự sống thần linh và thay vào đó là một sự sống thể lý thuần túy. Nhưng dù muốn dù không, chúng ta đều phải chân nhận với nhau rằng: cuộc sống trên trần gian này là cuộc sống tạm bợ, hữu hạn. Cuộc sống mai sau mới là cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, ngay lúc này, hãy biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái; đồng thời biết sử dụng tiền của là những vật hư nát để mua lấy Nước Trời, và, ”Trong mọi sự phải nhắm chắc cái cùng đích” hầu chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra sự yếu hèn của mình, hầu thoát ra khỏi những sự chóng qua ở đời này mà biết lo tìm phần rỗi cho mình trong cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con biết chọn Chúa và những giá trị tốt trong cuộc đời. Amen.
———————————————————-
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
ĐẤT CÀNG PHÌ NHIÊU, TƯỢNG THẦN CÀNG NHIỀU- Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Những ngày qua, trên mạng viết rất nhiều bài về Anh Đặng Ngọc Viết: Hai giờ chiều ngày 11-9, Anh Viết vào tòa nhà Ủy ban Nhân dân thành phố Thái Bình, gởi xe rồi đi tìm Văn phòng của “Trung tâm Phát triển Quỹ đất”, lấy ra khẩu súng Anh bắn thẳng vào 5 cán bộ. Sau đó, Anh trở ra lấy xe và đi mất, để lại đằng sau một hiện trường tang tóc.
Buổi chiều cùng ngày, Anh Viết về quê nhà ở xã Trà Giang, huyện Kế Xương, tỉnh Thái Bình. Anh đi bộ ra chùa Đông Sơn và đến hơn 6 giờ, Anh tự kết liễu đời mình bằng hai phát súng tự bắn vào ngực mình. Bảy phát súng nổ, tuy diễn ra ngắn ngủi nhưng có vọng âm xa, sâu lắng, làm cho lương tâm con người trở nên ray rứt. Ranh giới rất là mong manh giữa trái và phải, giữa lương thiện và bất lương, gây nên những cảm xúc nhiều chiều, trái ngược.
Nhà báo Minh Diện đã điểm lại sự kiện và phân tích nguyên nhân của vụ án đau thương này. (x. Ai cho tôi lương thiện, http://bolapquechoa.blogspot.com).
Ngôn sứ Hôsê nhận định về tình trạng xã hội của Israel vào thế kỷ VIII tcn: “Israel vốn là một cây nho sum sê, trái trăng thật dồi dào phong phú; nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng; đất nước càng giàu sang, chúng càng dựng thêm những cột thần lộng lẫy” (Hs 10, 1). Đất càng phì nhiêu, tượng thần càng nhiều, nhận định này của vị Ngôn sứ thế kỷ thứ VIII tcn vẫn đúng cho con người mọi nơi mọi thời, đặc biệt là chính sách đất đai hiện nay ở Việt Nam đã tạo quá nhiều thuận lợi cho tham nhũng trục lợi và bất công tràn lan.
Các Ngôn sứ thời Cựu ước vẫn thường chỉ trích những thói tham lam, lọc lừa và nặng lời kết án những người giàu bất công, áp bức, khinh dễ kẻ nghèo, những người chỉ nghĩ đến tiền bạc lợi lộc.
Vào thế kỷ VIII tcn, Israel sống thời kỳ thịnh vượng dưới triều Giêrôbôam II. Do sự phồn thịnh ấy mà người ta sinh hư đốn: bon chen, tham lam, tranh giành tiền bạc của cải bằng đủ mọi hình thức bất công: giàu hiếp đáp nghèo, dùng tiền mua lương tâm mua địa vị chức tước; người giàu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ mặc cho dân nghèo đói rách cơ cực… Trong bài đọc 1 hôm nay, Ngôn sứ Amos đã nghiêm khắc cảnh cáo họ: Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo khó và muốn hủy diệt hết những người bần cùng trong cả nước. Các ngươi giảm đấu đong, tăng giá bán và làm nên những chiếc cân non. Các ngươi lấy tiền mua người nghèo khó, lấy đôi dép mà đổi lấy người túng thiếu. Các ngươi bán lúa mục nát. Thế nhưng, Thiên Chúa sẽ không quên lãng và những hình phạt khủng khiếp sẽ được giáng xuống trên các ngươi.
Trong Cựu Ước, giàu có thịnh vượng thường được xem như một sự chúc lành của Thiên Chúa. Nhưng dân Ítraen lại suy nghĩ theo cách của các dân ngoại chung quanh, họ coi sự thịnh vượng của mình là ơn lành của các sức mạnh thiên nhiên mà dân ngoại tôn thờ như những thần linh, thần mưa, thần gió, thần đất. Cho nên vật chất càng phát triển họ càng sùng bái ngẫu tượng nhiều hơn. Đó là một sự phản bội không thể tha thứ: “Chúng là thứ người lòng một dạ hai, rồi đây chúng sẽ phải đền tội” (Hs 10, 2). Thiên Chúa đã kết ước với họ nhưng họ đã thất trung bội tín, lòng họ đã bị chia sẻ. Thay vì tôn thờ một mình Thiên Chúa, nghe theo lời Người dạy bảo và trông cậy vào một mình Người, họ lại chạy theo những thần linh giả dối. Con tim họ đã bị chia sẻ. Ngôn sứ Hô sê mạnh mẽ cảnh cáo Ítraen: “Rồi đây chúng sẽ phải đền tội; bàn thờ của chúng, Đức Chúa sẽ đập tan, cột thờ của chúng, Người cũng sẽ phá đổ” (Hs 10, 2). Cái gì giả trá thì vẫn là giả trá. Đặt tin tưởng vào nó, tất chẳng thể bền. Rồi đây Ítraen sẽ thấy các thần tượng mình sụp đổ, “bấy giờ họ sẽ nói với núi đồi: ‘Phủ lấp chúng tôi đi!’ và với gò nổng: ‘Hãy đổ xuống trên chúng tôi!'” (Hs 10, 8).
Chính kinh nghiệm cho thấy rằng của cải giàu sang thường đưa người ta đi xa Chúa. Sự sung túc mang tới cho người ta nhiều thứ có khả năng cạnh tranh với Thiên Chúa, và thậm chí thay thế Thiên Chúa, ví dụ như địa vị, quyền thế, danh vọng, tình yêu, tiện nghi, lạc thú. Tục ngữ ta đã chẳng nói “có tiền mua tiên cũng được” hay “đồng bạc đâm toạc tờ giấy” đó sao? Của cải làm cho người chiếm hữu nó có cảm thức mãnh liệt rằng mình “toàn năng”, muốn gì cũng được! (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay sẽ thấy, người ta thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền. Trong cuộc chạy đua đó, con người đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ, hướng dẫn và quy định cả cách sống và tâm tình của họ. Khi đó Thiên Chúa, lương tâm, nhân cách bị gạt ra khỏi tâm hồn họ. Tiền của, danh vọng là thần tượng của họ và khi đó làm bất cứ việc gì dù trái với lương tâm, với luân thường đạo lý, với công bình bác ái miễn là càng ngày họ càng giàu có càng thăng chức. Lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Tham vọng của con người không bao giờ cùng.
Cùng một tiếng chuông cảnh tỉnh của các Ngôn sứ, Chúa Giêsu đã dạy: Các con không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được.
Chúa Giêsu không phi bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo, phê phán những người giàu trong việc sử dụng tiền của.
Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả lương tri, phẩm giá con người. Tiền của trở thành thần tượng và chiếm chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và nhân phẩm người khác. Ngài còn phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích kỷ hưởng thụ.
Tiền của là phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa ta xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa đã buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của.
Chúa Giêsu luôn đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: “Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Lc 6,20; Mt 5,3). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu có đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực (x. Lc 16,19-31), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh dễ kẻ khác.
Ưu tiên hàng đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái Chúa thì sẵn sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã chọn Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến cáo “Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tm 6,10). Khi con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó.
Thiên Chúa ban cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ…Giá trị của tiền tài hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc đích thực.
Tiền của là phương tiện để chia sẻ với tha nhân, thánh Phaolô viết cho Timôthêô: “Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm 6,17-18).
Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.
———————————————————-
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – NĂM C
NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN- Trích Logos năm C
Tại Trung Hoa vào thời chiến quốc có ông Phùng Huyên giúp việc cho ông Mạnh Thường Quân là tướng của nước Tề.
Một hôm, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên qua đất Tiết để thu các món nợ. Trước khi Phùng Huyên ra đi, Mạnh Thường Quân dặn : “Xem trong nhà còn thiếu gì thì cứ mua về”.
Phùng Huyên đến đất Tiết, cho mời tất cả những con nợ của chủ đến và tuyên bố : “Mạnh Thường Quân ra lệnh xoá bỏ tất cả sổ nợ !”. Sau đó, ông ta đốt hết giấy nợ. Những người thiếu nợ và toàn dân đất Tiết vui mừng tung hô vạn tuế Mạnh Thường Quân.
Khi về nhà, Phùng Huyên tường trình công việc với Mạnh Thường Quân : “Khi đi, tướng quân bảo tôi mua những gì trong nhà còn thiếu. Tôi nghĩ trong nhà tướng quân dư thừa của cải, không thiếu vật gì cả, chỉ thiếu “điều nghĩa”, nên tôi trộm lệnh mua điều nghĩa đem về. Mạnh Thường Quân ngạc nhiên hỏi : “Mua điều nghĩa là thế nào ?”. Họ Phùng đáp : “Tôi tha cho tất cả các con nợ, đốt các văn khế, dân chúng vui mừng tung hô tướng quân, đó là tôi mua điều nghĩa cho tướng quân vậy”.
Năm sau, vua Tề không dùng Mạnh Thường Quân nữa, ông lui về đất Tiết ở. Toàn dân nghe tin, liền ra đón rước và hoan hô ông nhiệt liệt. Khi ấy, Mạnh Thường Quân quay sang Phùng Huyên nói : “Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, ngày nay tôi mới trông thấy”.
Câu chuyện ông Mạnh Thường Quân mua “điều nghĩa” làm nổi bật lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay : “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”.
Chúa kể dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” để giải thích lời dạy đó của Ngài.
Vì thâm lạm tài sản của chủ nên người quản lý đã bị ông chủ cho nghỉ việc. Anh ta đã nghĩ ra cách để có một cuộc sống an nhàn sung sướng sau khi mất việc : anh ta đã lén chủ giảm số nợ của những người mắc nợ để dùng tiền bạc của chủ mà mua lấy ân nghĩa và bạn bè.
Chúa Giêsu khen ngợi người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo. Thật ra, qua dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” Chúa Giêsu có ý dạy hai điều :
Hãy dùng tiền bạc trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu.
Trong thời buổi “kinh tế thị trường” hôm nay, người ta rất chú trọng đến việc “đầu tư” nghĩa là bỏ vốn để sinh lời. Đồng tiền được “xoay vòng” là đồng tiền sinh lợi nhuận. Đó là định luật của kinh tế. Vì thế, nếu biết tính toán khôn ngoan thì nhờ vốn liếng bỏ ra, người ta có thể trở nên giàu có. Cũng vậy, với “định luật Nước Trời”, người ta có thể dùng của cải trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Nghĩa là, người ta có thể dùng tiền bạc phi nghĩa ở đời này để mua lấy kho tàng hạnh phúc Nước Trời. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể mua được hạnh phúc Nước Trời bằng những “đồng bạc biết cho đi”. Chúa ban cho chúng ta của cải đời này dùng làm phương tiện giúp ta nên thánh và chia sẻ cho tha nhân. Hơn nữa, tiền bạc của cải không phải là cứu cách cuộc đời chúng ta. Chính Thiên Chúa mới là gia nghiệp mà chúng ta hướng tới như cùng đích cuộc đời mình, như lời Chúa dạy : “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.
Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn.
Người quản lý trong dụ ngôn hôm nay tỏ ra là người khôn ngoan. Anh ta đã ranh mãnh trong việc dùng tiền bạc của chủ để mua lấy một tương lai an nhàn sung sướng. Thật ra, anh ta “khôn” nhưng không “ngoan”, vì anh ta đã làm một việc gian dối để thu lợi một cách bất chính cho mình. Có lẽ vì anh ta đã “không trung tín trong việc nhỏ nên cũng không trung tín trong việc lớn”, vì vậy anh ta đã bị chủ đuổi việc. Sau này, nếu anh ta cứ sống trong sự gian dối và bất trung, anh ta cũng không thể tìm được hạnh phúc chân thật.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để trở thành người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Chúa đã trao cho chúng ta biết bao ân huệ để chúng ta biết sinh lợi cho phần rỗi đời mình, cũng như làm lợi cho anh em. Nếu chúng ta biết quản lý cuộc đời mình một cách trung thành và xứng đáng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa trao cho kho tàng hạnh phúc vĩnh cửu. Nếu chúng ta trở thành một người quản lý bất trung, chúng ta sẽ đánh mất chính mình và anh em. Nhưng “cái mất” lớn nhất là “đánh mất Thiên Chúa” là cội nguồn của niềm hạnh phúc mà ta hằng khát khao.
Trong bài đọc I, tiên tri Amos đã mạnh mẽ lên án tội lỗi của những người giàu : vì mải mê kiếm tiền nên họ bỏ bê những bổn phận đạo đức, gian lận “giảm đấu đong, tăng giá và làm cân giả”, thậm chí bóc lột cả người nghèo.
Đó chính là lời nhắc nhở để hôm nay chúng ta biết đồng cảm với những người nghèo khó, chia sẻ tình thương với họ và tránh xa lòng ganh tỵ, oán hờn và tranh chấp, nhưng biết xây dựng hòa bình (bài đọc II, trích thư gửi Timôthêô).
Vào một đêm giông bão, có hai vợ chồng đã lớn tuổi đến một khách sạn ở vùng Philadelphia, nước Mỹ để thuê phòng trọ qua đêm. Nhưng đáng tiếc, khách sạn hết phòng. Cảm thương hai vợ chồng không có chỗ nghỉ đêm trong một đêm mưa gió như thế, người quản lý khách sạn nói :
– Tôi sẽ nhường phòng của tôi cho ông bà.
– Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu ?
– Đừng lo cho tôi, tôi có thể kiếm được chỗ.
Sáng hôm sau lúc trả tiền phòng, người chồng nói với viên quản lý :
– Quả thật, anh xứng đáng làm chủ một khách sạn lớn nhất nước Mỹ !
Hai năm sau, người quản lý nhận được một bức thư kèm theo một vé máy bay đi New York và một tấm danh thiếp của ông khách trọ hai năm trước.
Đến New York, người quản lý được ông khách trọ dẫn đến đại lộ số 5, đường 34, chỉ một tòa nhà cao tầng nguy nga đồ sộ mới xây và nói :
– Đây là khách sạn tôi tặng cho anh.
Ông khách trọ đó chính là tỷ phú William Wadorf Astoria. Ông đã thực hiện lời đã hứa trước đó 2 năm.
Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa đặt làm quản lý trong cuộc sống. Nếu chúng ta trung tín gìn giữ cuộc đời mình trong ơn thánh Chúa và biết chia sẻ những ân huệ Chúa ban cho tha nhân, chúng ta sẽ làm giàu cho chính mình trong cuộc sống mai sau.
—————————————–
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN C
NGƯỜI QUẢN LÝ- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn
Bài đọc 1: Am 8, 4-7
Bài đọc 2: 1 Tm 2, 1-8
Tin mừng: Lc 16, 1-13
Tôi còn nhớ vào ngày 19.9.2007 trong giờ giải lao tại phiên họp của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội, báo chí có phỏng vấn bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng Bộ Thương binh Xã hội về Đề án 112. Trước đây, khi còn là Thứ trưởng Bộ Tài chính, bà đã từng là Ủy viên Ban Điều hành của Đề án 112. Vậy mà khi được phỏng vấn, bà đã trả lời một cách rất “vô tư” rằng: “Thú thật là chỉ trước khi báo chí đăng, tôi mới nhớ ra mình từng làm ở Ban Điều hành”. Rồi sau đó, bà còn nói tiếp “Tôi chẳng biết gì về 112” (Mạnh Quân ghi, Chính trị – Xã hội, Thanh niên online, ngày 20.9.2007).
Dự án 112 là một dự án rất lớn. Mục tiêu của dự án này là “Tin học hóa quản lý hành chánh Nhà nước”. Theo báo cáo của Ủy ban Khoa học – Công nghệ và Môi trường của Quốc hội thì từ chỉ từ năm 2000 đến 9.2003, dự án này đã tiêu tốn hết 3.730 tỉ đồng của ngân sách Nhà nước, hay đúng hơn là những đồng tiền thuế của nhân dân. Và bây giờ khi dự án thất bại, cơ quan công an đang điều tra để làm rõ sai phạm, thì một người từng giữ chức Ủy viên Ban Điều hành lại nói là: “Tôi chẳng biết gì”. Nghe những lời này của bà, không biết mọi người nghĩ thế nào. Còn riêng tôi, tôi cảm thấy ở đây có một sự “tắc trách”, “lạnh lùng, vô cảm” đến ghê sợ Giả sử như dự án trên thành công vang dội, không biết bà Bộ trưởng này sẽ nói thế nào, khi nhắc đến dự án này.
Người làm công tác quản lý mà không biết việc mình đảm nhận, không chu toàn bổn phận của mình, thì dù muốn hay không, cũng là một thiếu sót. Và công việc càng lớn, thì thiếu sót đó càng trở nên trầm trọng hơn. Họ sẽ bị đình chỉ công tác. Thậm chí còn bị khởi tố trước pháp luật. Tương tự như vậy, người quản lý trong bài Tin mừng hôm nay, bị chủ cho nghỉ việc cũng chỉ vì anh ta đã không làm đúng chức năng quản lý mà chủ đã giao cho anh.
Chính vì thế, trong giờ này tôi muốn được chia sẻ cùng quý OBACE một vài suy nghĩ về những bổn phận của người quản lý, bởi lẽ, xét cho cùng mỗi người chúng ta đều là một người quản lý trước mặt Thiên Chúa.
Mỗi người là một quản lý:
Khi nói đến hai chữ “quản lý”, có thể nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng: nó chẳng liên quan gì đến mình. Hiện tại, tôi đang làm chủ. Tôi đâu có làm công cho ai, hay lệ thuộc ai đâu. Tuy nhiên, nếu nghĩ kỹ, chúng ta sẽ thấy cho dù hiện giờ hoàn cảnh sống của mỗi người đều khác nhau. Có người giàu, người nghèo. Thế nhưng, nhớ lại lúc mới chào đời, mỗi người trong chúng ta đều giống nhau. Cho dù là con vua, cháu chúa, hay là con nhà thường dân, mỗi người chúng ta đều vào đời với hai bàn tay trắng. Chúng ta chẳng đem bất cứ thứ gì vào đời. Nếu có chăng, thì đó chỉ là những tiếng khóc chào đời.
Mọi sự chúng ta có đều do nhận lãnh. Trước hết, chúng ta nhận lãnh từ nơi vòng tay yêu thương của cha mẹ một tấm khăn để bao bọc tấm thân. Rồi theo dòng thời gian, chúng ta còn tiếp tục nhận lãnh từ nơi cha mẹ công lao dưỡng dục mỗi ngày “chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm”. Lớn lên, chúng ta lại tiếp tục nhận được từ nơi nhà trường và xã hội một vốn tri thức của nhân loại đã được tích góp từ hàng ngàn năm qua bao thế hệ. Và cùng với vốn tri thức nhân loại, chúng ta còn nhận được một gia sản đức tin từ bao thế hệ cha anh trong Giáo Hội để lại cho chúng ta.
Tất cả những điều đó, cho thấy tất cả những gì chúng ta có đều do người khác trao ban. Và ước mơ của những người này không gì khác hơn là chúng ta lại tiếp tục trao ban những điều đó cho những thế hệ kế tiếp. Như thế, nếu mọi sự chúng ta đều do nhận lãnh được, thì thực sự chúng ta chỉ là người quản lý, mọi sự được giao cho chúng ta không phải để chúng ta sỡ hữu một mình, nhưng là để chúng ta chia sẻ lại cho người khác.
Lời mời gọi chia sẻ:
Người quản lý tốt là người thay mặt chủ để trông coi mọi tài sản của chủ, và sử dụng chúng theo ý chủ, chứ không phải theo ý của anh ta. Đặc biệt những người quản lý khôn ngoan theo ý của Thiên Chúa là những người biết “phân phát phần thực phẩm (cho anh em) cho phải thời” (Lc 12, 42).
Do đó, trong tư cách là người quản lý, chúng ta có nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chúng ta là chia sẻ cho anh chị em những gì mình đã nhận lãnh. Chính vì thế, khi thấy những người đồng thời với mình sống bất công, bóc lột của người khác để làm giàu cho chính mình. Ngôn sứ Amos đã mạnh mẽ lên tiếng tố cáo: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp kẻ nghèo khó và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong cả nước”. Và vị ngôn sứ đã chỉ rõ cách sống bất công của hạng người này: “Các ngươi bảo: “Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát”. Đối với những người này, đồng tiền là trên hết. Họ giữ ngày Sabbat vì sợ phạm luật chứ không phải vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Bên ngoài họ giữ ngày Sabat, nhưng bên trong lại không muốn có ngày Sabat, vì theo luật, ngày Sabat họ không được phép buôn bán, và dĩ nhiên họ cũng không thu được lợi nhuận. Nghe những lời này, có lẽ nhiều người trong chúng ta có suy nghĩ, đúng là đồ đạo đức giả “miệng Nam mô”, mà bụng thì “một bồ dao găm”. Họ tìm mọi cách để tích góp cho mình, như thể họ là những người chủ, mà quên mất rằng: họ chỉ là người quản lý, chứ không phải là những ông chủ.
Thế nhưng “trông người lại nghĩ đến mình”. Nhiều người trong chúng ta bình thường vẫn đi lễ ngày Chúa Nhật, nhưng chỉ cần một cơn mưa, một lời rủ rê của bạn bè, một bữa nhậu, hay có một vụ làm ăn nào đó… là chúng ta cũng dễ dàng bỏ ngay việc dâng lễ ngày Chúa Nhật. Nếu như vậy, thì chúng ta cũng đâu có gì khá hơn những người Do Thái thời ngôn sứ Amos đâu.
Trong cuộc sống đời thường, có lẽ ai trong chúng ta cũng tính toán thật kỹ lưỡng, nên làm gì, và làm như thế nào để có lợi nhiều nhất. Hơn nữa để có thể thu được lợi nhuận nhiều nhất, chúng ta có thể thức khuya, dậy sớm, làm việc vất vả không quản ngày đêm, sẵn sàng bỏ cả quê cha đất tổ để đi “tha phương cầu thực” nơi đất khách quê người.
Đành rằng, “có thực mới vực được đạo”, trong thân phận của một con người mỗi người chúng ta cần phải làm việc để nuôi sống thân xác mình cùng với những người mình chịu trách nhiệm, nhưng chúng ta cũng cần ý thức rằng: sự sống thân xác không phải là tất cả. Chúng ta không thực sự làm chủ bất cứ điều gì, vì ngay cả sự sống thân xác là cột trụ cuối cùng của mình, chúng ta cũng không làm chủ được.
Do đó, để khỏi rơi vào tình trạng của người quản lý trong bài Tin mừng hôm nay, bị chủ gọi đến cho thôi việc, mỗi người chúng ta hãy chu toàn bổn phận quản lý của mình. Chúng ta hãy sử dụng thời giờ, cơ hội, phương tiện và tài năng của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Chúng ta hãy sẵn sàng chia sẻ với anh chị em những gì mà chúng ta đã được nhận lãnh từ nơi Thiên Chúa “để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch”. Nhờ đó, vào ngày sau hết, chúng ta sẽ được họ “đón tiếp vào chốn an nghỉ đời đời”. Amen.