CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN – NĂM B
CHÚA GIÊSU,
ĐẤNG ĐEM LẠI TỰ DO CHO CON NGƯỜI
Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
***
Tình cờ tôi đọc được một lời nguyện cho người câm điếc như sau: “Lạy Chúa, người ta thường có thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi xung, bực bội với kẻ điếc, nên người điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn…”. Lời kinh này phần nào cho chúng ta thấy được nỗi khổ tâm của những người câm điếc. Bình thường, chúng ta vẫn nghĩ người mù khổ hơn người điếc, nên chúng ta dễ thông cảm với họ hơn. Nhưng theo Helen Keller, một người vừa bị mù vừa bị điếc, thì bà cho rằng điếc khổ hơn mù nhiều, vì các cánh cửa cuộc đời đều bị khoá chặt lại đối với họ: mở radio vô ích, xem truyền hình chẳng thú vị gì, không thể nói chuyện với ai, không thể diễn tả tâm tư tình cảm của mình… Do đó, họ cảm thấy thật cô đơn chán nản (Minh hoạ lời Chúa, tập 3, trang 70-71). Hay nói một cách khác, những người bị khuyết tật nói chung và câm điếc nói riêng, thường bị mọi người coi thường, khinh rẻ. Họ hầu như bị tách ra khỏi đời sống của cộng đoàn.
Do đó, khi đọc lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc trong bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội, một lần nữa, cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đích thực là Đấng đến để đem lại tự do cho chúng ta, giúp chúng ta hội nhập với cộng đoàn. Hay nói như những người Do thái: “Người làm mọi sự thật tốt đẹp”.
- Nỗi bất hạnh của người câm điếc:
Để có thể thấy rõ hơn tâm tình của Chúa Giêsu khi Ngài chữa lành cho một người câm điếc trong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ chúng ta cần nhìn lại hoàn cảnh của anh ta. Trong tình trạng bị câm điếc, anh ta thật bất hạnh vì tai anh không hề một lần được nghe lời ru ngọt ngào của mẹ, và miệng anh cũng không thể thốt ra lời yêu thương với những người mà anh yêu thương nhất. Lòng anh có tâm sự gì cho dù là vui hay buồn, chuyện lớn hay chuyện nhỏ cũng không thể chia sẻ thành lời với bất cứ ai. Anh cũng không thể lắng nghe để làm vợi đi nỗi buồn của những người thân yêu. Hơn nữa theo quan niệm của nhiều người, thì những tật bệnh chính là hậu quả của tội lỗi. Nhất là hiện nay, anh đang sống ở miền Thập Tỉnh, nghĩa là vùng đất của dân ngoại, một dân tội lỗi và ô uế theo cách nhìn của người Do thái. Do đó, một cách nào đó, anh còn bị coi là những kẻ tội lỗi. Mọi người đều coi thường và không muốn tiếp xúc với anh. Anh quả thật là người bất hạnh trong những người bất hạnh. Cuộc đời của anh tưởng chừng như đi vào con đường cùng. Sinh ra trong câm lặng, và chết đi trong cay đắng âm thầm.
Suy nghĩ một chút như thế, chúng ta mới có thể phần nào nhận ra được lòng khao khát được “nói”, được “nghe”, nghĩa là được hội nhập vào cộng đoàn của anh. Đây có lẽ cũng là tâm trạng của từng người chúng ta. Có lẽ chúng ta không câm, không điếc về mặt thể xác, nhưng một cách nào đó, chúng ta cũng đang câm khi không thể, hoặc không dám nói những điều cần nói. Chúng ta cũng đang điếc khi vì tự ái hay cố chấp, tai chúng ta không thể đón nhận lời Chúa và sự hướng dẫn của những người có trách nhiệm. Và cũng lắm khi, chúng ta cũng đang là những người bị tách lìa ra khỏi cộng đoàn, khi không ai nghe chúng ta nói và cũng chẳng ai thèm nói với chúng ta.
Do đó, lời Chúa nói qua miệng ngôn sứ Isaia: “Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can đảm lên, đừng sợ!… Chính Người sẽ đến cứu thoát các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được” đích thực là một niềm vui và đem lại cho từng người chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời. Đây là lời của niềm vui, và hy vọng vì nó được loan báo ngay lúc dân đang bị lưu đày. Chính trong bối cảnh đau thương đó, vị ngôn sứ đã báo trước cho dân một cảnh thanh bình vào thời của Đấng Thiên Sai: “Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước”.
Tất cả những lời này giờ đây đã thực sự được thực hiện nơi Chúa Giêsu. Ngài chính là Đấng đến để đem lại sự giải thoát, phục hồi sự tự do, xoá đi mọi hận thù, chia rẽ và giúp con người hiệp thông với nhau như lời tác giả Thánh vịnh: “Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục,… Thiên Chúa che chở khách kiều cư”.
- Chúa Giêsu, Đấng đem lại tự do cho con người:
Đọc tiếp Tin mừng, chúng ta thấy ngay khi thấy người ta dẫn đến cho Chúa người bị câm điếc, Chúa Giêsu lập tức thấy được nỗi cô đơn của anh. Ngài đã không bỏ mặc anh, hay chờ anh năn nỉ, cầu xin. Trái lại, Ngài đã nắm lấy tay và dắt anh ra khỏi đám đông, Ngài còn động chạm đến con người của anh khi đặt ngón tay Ngài vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Và quả thực như nhận xét của những người Do thái lúc đó: “Người làm mọi sự thật tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe đựơc và người câm nói được”. Ngài đã cho anh một cơ hội để anh hội nhập với cộng đoàn, để anh có cơ hội sống như một con người bình thường .
Chúa Giêsu đã đến và phục hồi lại phẩm giá của từng người chúng ta bằng cuộc Vượt Qua của Ngài. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi người cho dù là nam hay nữ, giàu sang hay nghèo hèn, người trí thức hay thất học …, tất cả đều có một giá trị tuyệt đối vô song, một giá trị mà cả thế giới cũng không đổi được (x. Mt 16, 26). Do đó thánh Giacôbê trong bài đọc hai nhắn bảo chúng ta: “Anh em là những người tin vào Đức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị”. Chúng ta không được thiên vị, đánh giá người khác qua vẻ bên ngoài theo cách của những người không tin mà thánh Giacôbê đề cập đến: “Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: “xin mời ông ngồi chỗ danh dự nầy”. Còn với người anh em nghèo khó thì anh em lại nói rằng: “Còn anh đứng đó”, hoặc: “Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi”. Và thánh nhân kết luận: “Đó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em sao?”.
Qua một vài chia sẻ trên, chúng ta phần nào thấy được tình trạng khốn khổ của những người câm điếc. Họ không thể nói cũng không thể nghe. Hoàn cảnh của họ thật đáng thương. Tuy nhiên “Nhìn người lại nghĩ đến ta”, mỗi người chúng ta đây, có thể không ai bị câm điếc về thể xác, nhưng chúng ta có thể đang bị câm điếc về tâm linh, khi không thể nói lời chân thật, không thể nói lời yêu thương, và cũng không thể lắng nghe lời Chúa và sự chỉ dạy của người khác. Chúng ta cũng có thể trở thành câm điếc, khi sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình mà quên mất việc chia sẻ, lắng nghe những thao thức của tha nhân. Chúng ta sẽ trở nên câm điếc khi tự mình tách ra khỏi cộng đoàn bởi những tự ái cá nhân vô lối của chúng ta. Để khỏi rơi vào tình trạng câm điếc tâm linh như thế, giờ đây với cả tấm lòng thành, chúng ta cùng hiệp ý với trẻ Samuel và tông đồ Phêrô để thưa với Chúa: “Lạy Chúa xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời”.
Chúa Giêsu đã tỏ rõ lòng nhân hậu của Ngài khi chữa lành cho người bị câm điếc để anh được hội nhập với cộng đoàn. Giờ đây, mỗi người chúng ta cũng hãy thành tâm, mở rộng tâm hồn, sẵn sàng đón Chúa vào lòng nhờ việc hiệp lễ, để Ngài chữa lành những tật bệnh thiêng liêng trong tâm hồn chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên những con người mạnh khoẻ trong tình yêu của Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN – NĂM B
Bài đọc 1: Is 35, 4-7a
Bài đọc 2: Gc 2, 1-5
Tin mừng: Mc 7, 31-37
DẤU CHỈ NƯỚC THIÊN CHÚA
Sau kỳ thi tuyển sinh Đại Học năm nay, tác giả Lê Minh Tiến trong bài viết nói về “Câu chuyện giáo dục”, đăng trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật số ra ngày 31/8/2003, có ghi lại kết quả chung như sau: 85% thí sinh dưới Trung bình, và 10.000 thí sinh có điểm liệt. Dựa vào đó, tác giả nhận xét: “Tuy đó chỉ là những con số vô tri vô giác, nhưng lại là một triệu chứng (trong nhiều triệu chứng) cho thấy rằng nền giáo dục của chúng ta đang bị bệnh rất nặng và càng ngày càng trầm trọng theo thời gian”. Kế đó, tác giả bài báo đã nêu lên nhiều bằng chứng và lý luận để cho thấy rằng: những con số “vô tri vô giác” trên chính là một dấu chỉ cho thấy rằng “nền giáo dục của chúng ta đang bệnh rất nặng”.
Nếu chỉ với một vài “con số vô tri vô giác”, tác giả Lê Minh Tiến đã nhận ra đó chính dấu chỉ cho thấy “nền giáo dục của chúng ta đang bệnh rất nặng”, thì qua câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc trong bài Tin mừng mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Marcô đã nhận ra Dấu chỉ của Nước Thiên Chúa đã đến trong trần gian mà ngôn sứ Isaia đã loan báo. Để thấy rõ hơn dấu chỉ này, chúng ta cùng đọc lại các bài đọc lời Chúa hôm nay.
- “Can đảm lên, đừng sợ!”:
Trước hết là bài đọc một được trích từ sách ngôn sứ Isaia. Đoạn sách này được viết trong bối cảnh dân Chúa đang hoang mang vì đất nước bị dân ngoại xâm chiếm. Quê hương, Đền thờ đã bị tàn phá, dân bị lưu đày. Chính trong bối cảnh xem như cùng cực đó, vị ngôn sứ đã nói lên lời yên ủi dân Chúa, những người còn sót lại, những người vẫn còn đặt niềm trông cậy ở nơi Chúa. Ông đã động viên họ: “Can đảm lên, đừng sợ!”. Họ không phải sợ vì Thiên Chúa vẫn luôn ở với họ. Lưu đày không phải là một bước đường cùng. Nếu họ quay trở lại với Thiên Chúa, thì Ngài sẽ cứu thoát họ, như lời vị ngôn sứ mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi”.
Không chỉ giải thoát dân khỏi ách lưu đày, vị ngôn sứ còn hé mở cho thấy Đấng Messia của Thiên Chúa sẽ thiết lập một triều đại mới, một triều đại trong an bình và hân hoan. Lúc đó “mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ, người què sẽ nhảy nót như nai, và người câm sẽ nói được”. Điều đó cho thấy, trong Nước Thiên Chúa, mọi người đều có thể nói và được nói lên những tâm tư, ước vọng của mình và nhất là luôn được lắng nghe, bởi lẽ không còn người câm và người điếc trong Nước của Ngài. Không những người với người sống an bình, nhưng giữa người với thiên nhiên cũng có sự hoà hợp “vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước”. Với lời hứa đó, dân Chúa tiếp tục sống trong niềm hy vọng về một ngày mai tươi sáng hơn. Và quả thật, năm 587 trước Công Nguyên, họ đã được hồi hương trở về tái thiết lại quê hương, xây dựng lại Đền Thờ Giêrusalem.
Thế nhưng, thực tế, triều đại hoà bình mà vị ngôn sứ loan báo hình như vẫn chưa được hoàn tất, bởi lẽ trên vai dân Chúa vẫn còn đó ách thống trị của đế quốc La Mã. Chính vì thế, trong lòng mỗi người dân vẫn còn thao thức đón chờ ngày Nước Thiên Chúa thực sự xuất hiện.
- Chúa Giêsu, dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã đến:
Hiểu rõ được lòng khao khát, mong chờ Nước Thiên Chúa của dân Do thái như thế, chúng ta mới có thể thấy hết được sự bỡ ngỡ và niềm hân hoan vui mừng của họ khi chứng kiến việc Chúa Giêsu chữa lành cho người câm điếc hôm nay. Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu, lời vị ngôn sứ loan báo năm xưa nay đã được ứng nghiệm. Vì thế, trong niềm hân hoan trào dâng, họ đã phải thốt lên: “Người làm mọi sự đều tốt đẹp…”.
Chúa Giêsu đã làm cho người câm điếc này nói và nghe được. Ngài đã giúp anh tạo được mối dây liên kết mật thiết hơn với cộng đoàn. Từ đây, anh không còn là một kẻ đứng ở bên lề, nhưng là một thành viên thực sự của cộng đoàn, có quyền dùng lời nói của mình để chia sẻ những suy nghĩ của mình với mọi người. Đồng thời, anh cũng có thể lắng nghe để cảm thông với người khác.
Hơn nữa, việc làm này, còn có một ý nghĩa đặc biệt hơn khi nó được thực hiện tại miền “Thập Tỉnh”, nghĩa là tại một vùng đất coi như thuộc về “dân ngoại”. Như thế, Chúa Giêsu không chỉ tái lập sự hiệp thông giữa người câm điếc với cộng đoàn của mình, nhưng Ngài còn đi xa hơn, đó là thiết lập sự hiệp nhất giữa dân ngoại và dân Do Thái, hay nói một cách khác, Chúa Giêsu đến để quy tụ muôn dân nên một trong Nước của Thiên Chúa.
Từ đây, Nước Thiên Chúa không còn bị giới hạn bởi một dân tộc, một thành phần nào trong xã hội, nhưng được mở ra cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc, mọi màu da, mọi ngôn ngữ, mọi lứa tuổi. Trong Nước của Thiên Chúa không còn sự phân biệt người giàu hay nghèo, sang hay hèn, nhưng tất cả mọi người đều có một giá trị, một phẩm giá như nhau. Mỗi người đều mang hình ảnh Thiên Chúa, và là con Chúa. Ý thức điều đó, thánh Giacôbê trong bài đọc hai nhắc bảo chúng ta: “Anh em là những người tin vào Đức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị”.
Tóm lại, với việc chữa lành người câm điếc hôm nay, Chúa Giêsu đã thực sự cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến, như lời loan báo từ buổi đầu rao giảng của Ngài: “Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã gần bên” (Mc 1, 15a). Ngài đến để thiết lập Nước Thiên Chúa. Trong Nước ấy, mọi người đều là anh em với nhau và có cùng một phẩm giá như nhau trước mặt Thiên Chúa.
Tuy nhiên, đã hơn 2000 năm kể từ khi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người, giữa chúng ta vẫn còn đó những bất công, chia rẽ. Chúng ta còn đánh giá người khác dựa vào dáng vẻ bên ngoài. Chúng ta vẫn còn “trọng phú, khinh bần”. Giữa chúng ta có lẽ không ai bị câm điếc về thể lý, nhưng vẫn còn đó những người bị “câm điếc” về mặt thiêng liêng. Chúng ta có thể đang bị câm về mặt thiêng liêng khi không thể nói, hay không dám nói lên những lời bênh vực sự thật, xây dựng hoà bình. Chúng ta cũng có thể đang làm cho anh chị em chúng ta bị câm, khi chúng ta “cả vú lấp miệng em” không tạo cơ hội cho những người khác trình bày những ý kiến của họ. Chúng ta cũng có thể đang bị điếc khi vì tự ái, kiêu căng, chúng ta không thể lắng nghe và đón nhận lời chân lý đến từ những người khác. Chúng ta còn bị điếc khi không biết lắng nghe người khác nói, để cảm thông và chia sẻ.
Chớ gì sau Thánh lễ này, khi trở về với cuộc sống thường ngày của mình, mỗi người chúng ta luôn biết mở rộng tâm hồn, để lắng nghe tâm tư của người khác. Vợ chồng, cha mẹ con cái luôn sẵn sàng lắng nghe, để thông cảm với nhau. Đồng thời, chúng ta cũng hãy can đảm nói lên những lời bênh vực sự thật, đem lại sự hiệp nhất và bình an trong gia đình và cộng đoàn. Nhờ đó, gia đình và cộng đoàn chúng ta sẽ không còn sự bất hoà, chia rẽ, mọi người đều cảm thấy mình đang được yêu thương. Sống được như vậy, gia đình và cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ thực sự trở thành một dấu chỉ cho mọi người thấy rằng: Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Amen.