CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
KHÔNG THỂ VÀO NƯỚC TRỜI(*)– Chú giải của Noel Quession. 7
SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông. 15
NGUY HIỂM CỦA SỰ GIÀU SANG- Chúa giải của Fiches Dominicales 28
ĐIỀU CẦN PHẢI BỎ TRÊN ĐƯỜNG THEO GIÊSU- Suy niệm chú giải của Lm. Nguyễn Ngọc Thế 38
NGUY HIỂM CỦA TIỀN BẠC CỦA CẢI- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái 65
PHẢI BIẾT LỰA CHỌN– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 81
KHÔN NGOAN- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 98
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B.. 101
NGƯỜI CÔNG CHÍNH TÂN ƯỚC – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 101
THANH NIÊN GIÀU CÓ– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 109
NGƯỜI TỰ DO- Lm. Hồng Phúc. 113
SỰ GIÀU CÓ ĐÍCH THỰC- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 117
NGƯỜI GIÀU KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ 122
CUỘC GẶP GỠ GIỮA NGƯỜI THANH NIÊN VỚI CHÚA GIÊSU- Lm Giuse Nguyễn Thành Long 128
PHÚC CHO NHỮNG AI CÓ TINH THẦN NGHÈO KHÓ- Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân 132
TIỀN CỦA, CHIA SẺ – Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.. 135
LẤY CỦA CẢI TẠM THỜI ĐỔI LẤY KHO TÀNG BỀN VỮNG- Lm Inhaxiô Trần Ngà 140
PHẦN THƯỞNG- Lm. Vũ Đình Tường. 143
HÃY THEO TÔI- Lm. Giuse Đỗ Vân Lực. 146
SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI LÀ MỤC TIÊU TỐI HẬU- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 151
TỐT LÀNH VÀ NHÂN LÀNH- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB.. 156
LỜI MỜI GỌI THEO CHÚA – Lm. Phêrô Lê Văn Chính. 160
KHO BÁU TRÊN TRỜI- Trích Logos B.. 165
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ðem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không”.
Bài trích sách Khôn Ngoan.
Tôi đã ước ao được ban sự hiểu biết, tôi cầu khẩn được thần trí khôn ngoan đến cùng tôi. Tôi lấy sự khôn ngoan làm hơn vương quốc và ngai vàng: Ðem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không. Tôi cũng không so sánh nó với kim cương, vì mọi thứ vàng đem so sánh với nó thì kể như hạt cát nhỏ bé, và bạc đem để trước nó thì kể như đất bùn. Tôi yêu quý sự khôn ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, tôi lấy nó làm hơn được sự sáng, vì sự sáng của nó không hề tắt. Tất cả mọi sự tốt lành đều đến cùng tôi làm một với nó, và nhờ tay của nó, tôi được đoan chính không kể xiết.
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 89, 12-13. 14-15. 16-17
Ðáp: Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan (c. 14).
1) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chứ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.
2) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin ban niềm vui thế cho những ngày Chúa hạ nhục chúng con, thế cho những năm chúng con mục kích nạn tai.
3) Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố; xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.
BÀI ĐỌC II: Dt 4, 12-13
“Lời của Chúa phân tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn”.
Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, thấu suốt đến nỗi phân rẽ linh hồn với thần trí, gân cốt với tuỷ não, phân tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn. Không một tạo vật nào ẩn khuất được trước mặt Chúa; tất cả mọi sự đều phơi trần và tỏ ra trước mắt của Ðấng mà chúng ta phải trả lẽ.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 19, 38
All. All. – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời! – All.
PHÚC ÂM: Mc 10, 17-30
“Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu trả lời: “Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ”. Người ấy thưa: “Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”. Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”. Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: “Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!” Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: “Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa”. Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Như vậy thì ai có thể được cứu độ?” Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: “Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”. Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”. Chúa Giêsu trả lời rằng: “Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
KHÔNG THỂ VÀO NƯỚC TRỜI(*)– Chú giải của Noel Quession
Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
Đây là một cảnh sống động. Một người đầy ham muốn: Người ấy chạy đến và sụp quỳ dưới chân Đức Giêsu, vừa thở hổn hển, người ấy vừa đặt câu hỏi.
Khi ta biết người này là ai (nhờ đoạn tiếp sau của trình thuật ta sẽ ngạc nhiên, vì đây là một người có đầy đủ mọi thứ để được hạnh phúc theo tiêu chuẩn thông thường: Anh ta giàu sang, có nhiều “của cải lớn”, hơn nữa, cuộc sống anh ta ngay thẳng, anh tuân giữ những giới răn từ thuở còn nhỏ. Trong mọi tương quan với người khác. Chắc hẳn anh ta được kính nể. Vậy anh ta còn thiếu điều gì? Anh ta còn cần gì nữa? Tại sao anh ta lại mong ước điều gì khác?
Đức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”.
Đó là câu trả lời sắc bén như dao. Con người giàu có này đã quen với những “tước vị”. Vì quá hâm mộ, anh ta nói thêm. Thường thường người ta chỉ gọi Đức Giêsu bằng “Thầy”, còn anh ta quen giao thiệp rộng nên đã thêm từ “nhân lành”. Đức Giêsu không thích những kiểu nói tâng bốc đó. Người thích sự đơn giản hơn, Người khước từ những tước vị mang tính khoe khoang. Hơn nữa, Đức Giêsu là Người luôn nói về Thiên Chúa. Người luôn hướng về Chúa. Ở đây chúng ta nghe người thốt lên một lời dễ gây ngạc nhiên: Dường như Đức Giêsu không biết Người là Thiên Chúa! Người khước từ chữ “nhân lành”. Đây không phải là trường hợp – duy nhất mà Đức Giêsu khiêm tốn tự cho mình là “thấp kém” hơn Chúa Cha, hơn Thiên Chúa: Một hôm khác người còn dám quả quyết, Người “không biết ngày chung thẩm, mà chỉ có mình Chúa Cha mới biết” (Mc 13,32).
Đức Giêsu nói chỉ có một mình Thiên Chúa mà thôi. Tôi cầu nguyện từ lời quả quyết triệt để này.
“Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”.
Danh sách và thứ tự các giới răn làm cho ta ngạc nhiên. Trước tiên, Đức Giêsu không nêu những giới răn “đối với Thiên Chúa” như là giới răn đầu tiên. Hình như qua tình yêu tha nhân, ta chứng tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa. Thông thường tự nhiên ta dễ nghĩ đến những “bổn phận” về tôn giáo hơn, để đạt đến sự sống đời đời. Một lần nữa, Đức Giêsu hướng chúng ta thiết thân gắn bó với những người anh em của mình, với những mối tương quan nhân bản.
Hơn nữa, Đức Giêsu đã thêm một điều răn mới rất ý nghĩa vào mười giới răn cố hữu: “Chớ làm thiệt hại ai” như thể điều răn này tóm tắt các điều khác. Chúng ta cũng nên để ý rằng, “bổn phận đối với cha mẹ” được kể cuối cùng. “Điều răn thứ bốn” được đời ra sau chót, như Đức Giêsu đã muốn đặt lên hàng đầu những cám dỗ đối với người có tiền của: Lấy của kẻ khác, làm thiệt hại kẻ khác, làm giàu cách bất chính…
Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”.
Quả thật đây là một người ngay thẳng, có hướng tâm.
Anh ta tuân giữ lề luật. Anh ta sống có kỷ cương. Đức Giêsu không phủ nhận sự thành thực của những lời anh ta nói. Người ta tưởng câu chuyện sẽ kết thúc ở đây. Đây là một người có quyền hưởng sự sống đời đời! Chúng ta hãy nghe đoạn sau.
Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến.
Đó là cái nhìn của Đức Giêsu. Tôi cố tưởng tượng lại: Một cái nhìn đầy thương yêu. Đức Giêsu tỏ vẻ trìu mến. Người đang yêu thương. Người cảm động.
Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi.”
Vậy sống lương thiện và tuân giữ mọi giới răn cũng chưa đủ sao?
Ta tưởng rằng con người này trung thành không có gì chê trách được, thế mà bây giờ lại gặp một đòi hỏi mới, sẽ rọi chiếu vào tận đáy lòng anh: Anh có tự do không hay chỉ là nô lệ? Thái độ của anh đứng trước tiền bạc của cải vật chất như thế nào?
Thật lạ lùng và đáng ngạc nhiên khi ta liên tục gặp thấy đòi hỏi trên đây của Đức Giêsu. Người không ngớt nhắc lại điều này. Đó là lời kêu gọi đầu tiên của Người: “Hãy theo Ta”, tức khắc họ bỏ lưới và cha của mình dưới thuyền… (Mc 1,18-19). Đó cũng là chỉ thị đầu tiên của Đức Giêsu đối với các môn đệ Người sai các ông đi thi hành sứ vụ,Người truyền cho họ không được đem gì đi đường, không bánh, không bị, không tiền trong thắt lưng! (Mc 6,8).
Đó còn là hệ luận đầu tiên phải rút ra từ lời loan báo cuộc thương khó của Chúa: “Kẻ nào muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình” (Mc 8,34). Đức Giêsu đã không bao giờ nói khác Người có những ý nghĩ theo nhau rõ ràng. Người yêu cầu một sự lựa chọn dứt khoát. Người đòi hỏi “trọn vẹn”. Muốn theo Người, phải bỏ tất cả. Đây là một đòi hỏi vô biên. Tin Mừng không phải là một cách giải quyết dễ dàng cho mọi vấn đề, mà là một cuộc phiêu lưu vĩ đại, đầy nguy cơ liều lĩnh tối đa. Thật là một tham vọng quá lớn.
Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải
Đây là một người cũng giống chúng ta thôi. Chúng ta chớ nên lên án anh ta. Chúng ta cũng không thường mong muốn nếp sống hoàn hảo và sự sống đời đời sao?
Thế mà lại không nhất quyết trả giá cho những điều đó Trình thuật về ơn gọi lúc này, nhắc chúng ta rằng chính chúng ta cũng đã từng khước từ những lời mời gọi của Thiên Chúa tới hưởng nguồn vui, mặc dầu bề ngoài chúng ta phải dứt bỏ nhiều thứ sự “buồn bã” của người này rất có ý nghĩa: Anh ta có nhiều tiền, có nhiều của cải lớn, và với sự sung túc này anh ta vẫn không được hạnh phúc. Đó không phải là hình ảnh của phương Tây quá tràn đầy của cải vật chất sao? Nhưng chúng ta hãy đi xa hơn, và hãy can đảm nhìn nỗi đau buồn đang làm tối sắm khuôn mặt của anh. Đấy phải chăng là dấu hiệu hồng ân đầu tiên đã bắt đầu đến với anh sao? Cho đến lúc đó, anh không ý thức được điều cốt yếu mà anh còn thiếu. Anh vẫn tưởng rằng, của cải là đủ. Bây giờ anh mới biết, anh còn có một định mệnh khác.
Lạy Chúa xin biến những nỗi buồn của chúng con trở nên tích cực, có thể đánh thức chúng con ra khỏi không ảo ảnh và ngủ mê. Chúng con đã được tạo dựng cho Chúa. Tâm hồn chúng con, ước muốn của chúng con quá cao không thể chỉ thỏa mãn những của cải hữu hạn trần gian: “Lạy Chúa, xin hãy đến, vì chỉ có Chúa mới làm cho chúng con được no thỏa”.
Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ
Một lần nữa, Thánh sử Máccô ghi nhận ánh mắt của Đức Giêsu. Chúa nhìn tôi. Chúa nhìn những người mà tôi thương yêu. Chúa nhìn thế giới của chúng ta. Chúa nhìn những đám đông ở những siêu thị. Chúa nhìn dân chúng trong những nước thuộc thế giới thứ ba. Và cái nhìn này không thể lãnh đạm Người bắt đầu nói:
Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Một lần nữa Đức Giêsu tố cáo quyền lực ghê gớm của tiền tài. Đây là một sự cảnh giác thường xuyên trong suốt thời gian rao giảng của Đức Giêsu: “Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và Mammon cùng một lúc” (Lc 16, 13).
Người giàu trở nên điên rồ và phi lý. Người ấy tưởng mình không cần gì đến Thiên Chúa nữa (Lc 12,16-20). Người giàu từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy người anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giàu sang bóp nghẹt Lời Chúa (Mt 13,22).
Một lần nữa, chúng ta không nên lên án kẻ khác. Hãy nhận mình cũng là những người giàu: Số tiền trợ cấp thất nghiệp của một người Pháp là cả một sản nghiệp đối với một người châu Phi hay châu Á.
Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ.
Sự kinh ngạc của những môn đệ không phải là không có ý nghĩa. Tâm trạng người Do Thái đinh ninh rằng, sự giàu sang là một ân huệ của Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa sáng tạo không phải là để giao cho con người quyền sở hữu và thống trị thế gian này, nhằm xây dựng và làm cho thế gian thêm giá trị sao? (St 1,27-31). Nhưng phải thú nhận rằng, chính chúng ta cũng không chấp nhận lời này của Chúa Kitô. Thế kỷ 20 càng sẵn sàng hơn để đón nhận luân lý cách mạng sau đây:
– Phải chăng chúng ta làm việc để “kiếm tiền”, càng nhiều càng tốt.
– Phải chăng chúng ta mong cho con cái chúng ta làm một nghề “có nhiều tiền”.
– Phải chăng hàng ngày chúng ta thường bị sự quảng cáo tấn công, thúc đẩy chúng ta tiêu thụ ngày càng nhiều hơn và ám chỉ rằng, càng có nhiều, càng hạnh phúc.
Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”
Thay vì rút lại sự cứng rắn trong lời vừa nói, Đức Giêsu lại tăng cường một hình ảnh không thể quên được. Đức Giêsu nhà thuyết giảng nổi tiếng, đã có nghệ thuật dùng những kiểu nói gây ấn tượng mạnh và dễ nhớ: Chúng ta không nên làm nhẹ những câu nói này, nại cớ là chúng nghịch lý. Thực sự, chúng nói lên mạnh mẽ rằng, giữa giàu sang và sự cứu rỗi, luôn có tình trạng xung khắc nhau: Chúng ta phải chọn lựa giữa hai kho tàng này, kho tàng trần gian, kho tàng trên trời. Tiền của là cần thiết. Đức Giêsu không phủ nhận điều đó. Tiền của phục vụ chúng ta, Đức Giêsu đồng ý. Nhưng nếu tiền của thống trị chúng ta, và chúng ta trở nên nô lệ của nó, thì Đức Giêsu không thể chịu đựng nổi.
Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”
Lại một lần nữa, cái nhìn của Đức Giêsu, được ghi nhận lần thứ ba trong cùng một trang Tin Mừng. Ở đây Đức Giêsu trích một lời trong Thánh Kinh dành cho Abraham (St 15,14). Mặc dầu tuổi cao, không đủ điều kiện thể lý. Bà Xara sẽ sinh ra một con trai, vì tất cả có thể được đối với Thiên Chúa. Thiên Thần Gabriel cũng đã nói điều này với Mẹ Maria (Lc 1,37). Vậy sau khi lên án khắt khe thái độ chiếm hữu của chúng ta, Đức Giêsu đã mở ra cho chúng ta một niềm hy vọng.
Lạy Chúa, là Chúa tể càn khôn, Chúa đòi hỏi điều không thể làm được. Xin hãy đến giải thoát chúng con! Và tay chúng con sẽ mở ra trước Chúa, để đón nhận những gì còn thiếu trong tình thương của chúng con.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVIII Thường Niên năm B này mời gọi chúng ta suy gẫm về vấn đề vinh hoa phú quý trần thế so sánh với Đức Khôn Ngoan (Bài Đọc I) hay Lời Chúa (Bài Đọc II) mà Đức Giê-su là hiện thân: “vì Thầy và vì Tin Mừng” (Tin Mừng).
Kn 7: 7-11
Bài Đọc I, trích từ sách Khôn Ngoan, ca ngợi giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan, còn quý hơn mọi vinh hoa phú quý trần thế.
Dt 4: 12-13
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái, Lời Chúa được gợi lên với tất cả quyền năng của nó: ban sự sống, xét xử, xuyên thấu tận cõi thâm sâu nhất của con người.
Mc 10: 17-30
Tin Mừng Mác-cô thuật lại câu chuyện về một người giàu có. Đức Giê-su đề nghị anh từ bỏ của cải mà theo Ngài, nhưng anh không thể. Đức Giê-su nêu lên vấn đề về sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ.
BÀI ĐỌC I (Kn 7: 7-11)
Một hiền nhân Do thái sinh trưởng ở A-lê-xan-ri-a đã viết sách Khôn Ngoan bằng Hy-ngữ vào khoảng giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Để đối lại với mối hiểm nguy của việc Hy lạp hóa đang đe dọa Do thái giáo, tác giả tôn vinh những giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan Kinh Thánh.
Tác phẩm gồm có 19 chương được chia thành ba phần: phần thứ nhất nói về Đức Khôn Ngoan và số phận con người (ch. 1-5), phần thứ hai nói về bản chất và nguồn gốc của Đức Khôn Ngoan (ch. 6-9) và phần thứ ba nói về hành động của Đức Khôn Ngoan trong lịch sử (ch. 10-19). Trong phần thứ hai tác phẩm của mình, bằng hư cấu văn chương, tác giả đặt lời trên môi miệng của vua Sa-lô-mon, vị vua được truyền tụng là người khôn ngoan bậc nhất. Đoạn văn chúng ta đang đọc được trích dẫn từ diễn từ của vua Sa-lô-mon. Vị quân vương vừa mới nhắc nhở rằng ông không khác với những con người khác, ông chia sẻ thân phận phàm nhân như bao nhiêu người khác. Đức Khôn Ngoan mà vua có được không là một đặc sủng tự nhiên được ban cho vua khi trở thành quân vương, nhưng là thiên ân do vua thành tâm cầu nguyện.
Lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon:
“Tôi đã nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết; tôi đã kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi”. Việc vua Sa-lô-mon cầu xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan là một sự kiện truyền thống được kể ra trong sách Các Vua quyển thứ nhất (1V 3: 4-14), được nhắc lại trong sách Sử Biên quyển thứ hai (2Sb 1: 1-12), và từ câu chuyện này tác giả sách Khôn Ngoan sáng tác một đoạn văn (Kn 9: 1-18). Vua Sa-lô-mon cảm kích vì được kế nghiệp thân phụ của mình là vua Đa-vít khi tuổi đời còn quá trẻ; vì thế, nhà vua còn trẻ người non dạ này cầu xin Đức Chúa ban cho mình những đức tính cần thiết để có thể cai trị dân Chúa chọn, một dân tộc quan trọng như thế.
Tác giả sách Khôn Ngoan trình bày lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon không có trong nguyên bản, nhưng theo cách riêng của mình để đánh động độc giả thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Vua Sa-lô-mon biết rõ chẳng có gì phải tự hào tự phụ vì những gì vua có đều là những ân ban của Thiên Chúa. Vua phó thác sự yếu đuối của mình vào chỉ một mình Thiên Chúa đích thật, Đấng phân phát sự khôn ngoan; thái độ này ngược hẳn với các bậc quân vương Hy lạp.
Lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan:
Vua Sa-lô-mon công bố lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan của mình. Bản văn nhắc lại câu trả lời của Đức Chúa cho vị vua trẻ theo 1V 3: 11, được tô điểm bằng những chủ đề truyền thống minh triết.
“Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọngcòn hơn cả vương trượng, ngai vàng” (7:8).
Nói như thế, không có nghĩa vua Sa-lô-mon đã muốn từ chối ngai vàng của vua Đa-vít, nhưng “vì Đức Khôn Ngoan đưa ông lên hàng vương đế”. Tác giả đã khai triển chủ đề nầy ở trên khi để cho vua Sa-lô-môn ngỏ lời với các bậc đế vương:
“Như vậy, chính lòng khao khát Đức Khôn Ngoanđưa chúng ta lên hàng vương giả.Thế nên, hỡi chư vị lãnh đạo các dân,nếu chư vị quý chuộng ngai báu và vương trượng,thì hãy tôn trọng Đức Khôn Ngoan,để chư vị được trị vì mãi mãi ” (Kn 6: 20-21).
Những châm ngôn theo sau là di sản chung mà chúng ta gặp lại trong sách Châm Ngôn, sách Huấn Ca, vân vân, chưa nói đến các Thánh Vịnh.
Ví dụ như:
“Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,không bảo vật nào của con so sánh nổi” (Cn 3: 15).
Hay còn:
“Hãy đón nhận lời nghiêm huấn của ta quý hơn cả bạc, hãy đón nhận tri thức quý hơn cả vàng ròng.Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,không báu vật nào so sánh nổi” (Cn 8: 10-11).
“Tôi đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng”. Với lời nầy, vua Sa-lô-môn nhắc nhớ rằng ông đã không cầu xin Thiên Chúa một cuộc sống trường thọ hay sự giàu sang phú quý, nhưng chỉ xin cho mình được khôn ngoan.
Thành quả của Đức Khôn Ngoan:
Trong sách Các Vua, Đức Chúa ca ngợi phẩm chất lời nguyện xin của vua Sa-lô-mon. Để tưởng thưởng cho vua, Đức Chúa ban cho ông không chỉ Đức Khôn Ngoan, nhưng còn mọi vinh hoa phú quý mà nhà vua đã không xin.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một bài học gần như thế. Mến chuộng Đức Giê-su hơn sự giàu sang phú quý là con đường dẫn đến Nước Trời: Những ai từ bỏ mọi sự “vì Đức Ki-tô và vì Tin Mừng”, thì ngay ở đời nầy sẽ nhận được gấp trăm và ở đời sau sẽ được hưởng sự sống đời đời (10: 29-30).
BÀI ĐỌC II (Dt 4: 12-13)
Thư gởi tín hữu Do thái được viết cho những người Ki-tô hữu gốc Do thái, họ sống xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và luyến nhớ các nghi lễ Cựu Ước; hơn nữa, vì những bách hại, vài người mất can đảm đã muốn bỏ rơi niềm tin Ki-tô giáo của mình. Bức Thư nầy nhằm an ủi họ và tăng cường đức tin của họ.
Đoạn văn hôm nay được trích dẫn từ những lời khuyến dụ dài mời gọi hãy trung tín và kiên tâm bền chí. Tác giả vừa mới gợi lên tấn thảm kịch dành cho những người bất tuân, họ đã không được chấp nhận vào Đất Hứa, nhưng phải vùi thây trong sa mạc. Vì thế, chúng ta hãy giữ mình khỏi tội bất trung nếu chúng ta muốn đi vào Đất Hứa đích thật, vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa: “Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ nầy, kẻo có ai cũng theo gương bất trung đó mà sa ngã” (4: 11).
Nhân cách hóa Lời Chúa:
“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi”. Đây không là lần đầu tiên Kinh Thánh nhân cách hóa Lời Chúa như vậy. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã mô tả Lời Chúa ngự xuống từ trời để đem lại sự sống cho toàn cõi thế và chỉ trở về với Thiên Chúa một khi sứ mạng đã được hoàn thành (Is 55: 10-11). Sách Đệ Nhị Luật cũng đã trình bày Lời Chúa như một nguồn sống nội tại: “Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh báo anh em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật nầy. Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông để chiếm hữu” (Đnl 32: 46-47).
Chức năng xét xử của Lời Chúa:
Lời Chúa có chức năng xét xử bởi vì Lời Chúa có chức năng giáo huấn. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái chuyển từ Lời Chúa có chức năng giáo huấn sang Lời Chúa có chức năng xét xử. Đây không phải là một ví dụ độc nhất. Thánh Gioan cũng theo cách thức như vậy: “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết” (Ga 12: 48).
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với thanh gươm hai lưỡi; đây không cốt là thanh gươm Công Lý, mà sách Khải Huyền trang bị cho Con Người vào ngày tận thế, vào ngày Chung Thẩm (Kh 1: 16; 19: 15). Tác giả thư gởi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với một con dao mổ sắc bén của một nhà giải phẩu: Lời Chúa “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó là lời phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”. Cuối cùng, tác giả đồng hóa Lời Chúa với chính Thiên Chúa: “Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ ra trước lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.
Đây là lời cảnh báo nghiêm khắc được gởi đến các Ki-tô hữu đang chao đảo trong đức tin, nhưng ngay liền sau đó tác giả liên kết vị Thượng Tế biết cảm thương, là Đức Ki-tô, với những nỗi yếu hèn của chúng ta.
TIN MỪNG (Mc 10: 17-30)
Câu chuyện về một người giàu có nầy đều được cả ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật, bởi vì đây là dịp, là cơ hội thuận tiện mà Đức Giê-su lợi dụng để minh họa một bài học kiểu mẫu cho những ai muốn trở thành môn đệ của Ngài. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều kể lại câu chuyện này một cách xúc động và thống thiết, nét đặc trưng này rất dễ thấy trong câu chuyện của Tin Mừng Mác-cô.
Đức Giê-su vừa mới cất bước lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem thì “có một người chạy đến”. Thánh Mác-cô thích làm sinh động những bài trình thuật của mình bằng những động từ chỉ sự chuyển động; ở đây, chi tiết nầy có giá trị của nó. Câu chuyện bắt đầu với hành động hối hả đầy thành tâm thiện chí của người này và kết thúc với thái độ tương phản sau cùng của anh: “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chúng ta có thể nói đây là một câu chuyện về ơn gọi kết thúc không có hậu.
Sự sống đời đời:
“Sự sống đời đời” là diễn ngữ then chốt của toàn bộ câu chuyện nầy; nó được nêu lên ngay từ đầu với câu hỏi của chàng thanh niên này và ở cuối câu chuyện qua câu trả lời của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài. Đây không chỉ là một ví dụ điển hình về lối hành văn đóng khung, nhưng còn định vị tấm thảm kịch sắp diễn ra trong chiều kích cốt yếu của nó. Vấn đề về những mối tương quan của người Ki-tô hữu với của cải được đặt ra tùy thuộc vào vấn đề cốt yếu nầy: cuộc sống mai hậu. Vì thế, các môn đệ xao xuyến tận đáy lòng.
Nỗi ưu tư của người này phù hợp với những nỗi bận lòng của những môi trường đạo hạnh Do thái giáo, ở đó người ta tranh luận về những viễn cảnh cánh chung: sự sống đời đời, chính là gia nghiệp mà Thiên Chúa hứa ban vào thời cánh chung. Phải làm gì để đảm bảo cho mình có được sự sống đời đời?
Người nầy ca ngợi Chúa Giê-su: “Thưa Thầy nhân lành” kèm theo một hành vi cử chỉ hết mực cung kính: “quỳ xuống trước mặt Người”. Thái độ nầy làm chứng rằng Đức Giê-su nổi tiếng là một vị kinh sư đặc biệt và người nầy tin rằng chỉ có Ngài mới có thể ban cho anh những lời khuyên có giá trị.
Tại sao Đức Giê-su thoái thác đức tính “nhân lành” nầy cho mình, khi mà lòng nhân lành của Ngài thì hiển nhiên, phải chăng là để hướng tâm trí của người đối thoại về Đấng là nguồn mạch của mọi sự nhân lành? Nếu Đức Giê-su có lòng nhân lành, chính vì Ngài đón nhận lòng nhân lành từ Thiên Chúa. Thánh Mác-cô có mối bận tâm là không quên thân phận làm người của Đức Giê-su.
Sau khi đã hiệu đính lời ca ngợi của chàng thanh niên, Đức Giê-su sắp cho anh ta một câu trả lời tích cực qua đó Ngài ngầm hàm ý rằng “Tôi đến không phải để hủy bỏ nhưng kiện toàn Lề Luật”.
Lời kêu gọi được gởi đến cho người giàu có này:
Thập Giới là nền tảng hàng đầu của Lề Luật. Đức Giê-su chỉ trích dẫn phần thứ hai của Thập Giới, phần liên quan đến những bổn phận của một người với anh em đồng loại của mình. Như thế, đối với Đức Giê-su, thực thi Thập Giới mà Đức Chúa đã truyền dạy là con đường bình thường và đầy đủ để đạt đến “sự sống đời đời”. Chàng thanh niên này mau mắn trả lời: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Câu trả lời nầy chứng tỏ tấm lòng thành tâm thiện chí của anh trên con đường khao khát sự sống đời đời. Câu trả của anh gây ấn tượng mạnh nơi Đức Giê-su. Thánh Mác-cô là thánh ký duy nhất cung cấp chi tiết cảm động nầy: “Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.
Đối với chàng thanh niên đầy thành tâm thiện chí nầy, Đức Giê-su đề nghị anh đi xa hơn trên con đường khao khát sự sống đời đời: “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi”. Đây không chỉ là tinh thần siêu thoát mà Đức Giê-su đòi hỏi anh, nhưng còn là một sự từ bỏ của cải để đạt cho bằng được: “kho tàng trên trời”. Đối với những ai muốn bước đi trên con đường nhân đức, Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi thêm nữa. Đối với những ai Thiên Chúa đem lòng yêu mến, Ngài không để cho kẻ ấy sống một đời sống tầm thường như bao nhiêu người khác. Thiên Chúa đã xử sự với các ngôn sứ của Ngài như thế nào; Đức Giê-su cũng hành xử với các môn đệ của Ngài cũng theo một cách như vậy. Nhưng “nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chỉ mãi đến lúc nầy, chúng ta mới biết được người ấy rất giàu có và chính sự giàu có đã ngăn cản anh tích cực đáp trả tiếng gọi của Đức Giê-su.
Tuy nhiên, lý tưởng của sự nghèo khó không xa lạ gì đối với Do thái giáo. Các ngôn sứ đã ca ngợi lý tưởng nầy. Họ đã công kích những kẻ giàu có; họ đã công bố ơn cứu độ của Ít-ra-en nhờ một nhóm nhỏ còn lại, nhóm người bị tước đoạt tất cả, chỉ còn lại niềm tin tưởng phó thác vào Đức Chúa. Ấy vậy, chúng ta gặp thấy ở nơi những người Do thái đạo hạnh sống theo lý tưởng Do thái giáo, là lấy Lề Luật làm quy luật sống của mình để hướng tới “sự sống đời đời” là gia nghiệp Thiên Chúa hứa ban cho dân Ngài.
Còn ở đây, Chúa Giê-su được trình bày như là Đấng Mê-si-a đến mặc khải một lý tưởng còn cao hơn lý tưởng của dân Ít-ra-en: “Anh chỉ còn thiếu có một điều”: trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa thì chưa đủ, còn phải bước theo Đấng mà Thiên Chúa sai đến. Trọng tâm của câu chuyện nầy không phải hệ tại ở việc từ bỏ của cải nhưng là gắn bó với Đức Giê-su, yêu mến Ngài trên tất cả mọi sự kể cả mạng sống của mình.
Chúng ta đừng quên rằng câu chuyện về ơn gọi bất thành nầy được ghi lại trên con đường Đức Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, tiến đến cuộc khổ nạn của Ngài. Như vậy, đức tin Ki-tô giáo vừa kiện toàn vừa hoàn tất đức tin Do thái giáo. Người ta không thể trở thành người Ki-tô hữu nếu không xem Đức Giê-su là trung tâm và là cứu cánh cuộc đời của mình được. Như một người gặp được viên ngọc quý hay kho tàng chôn dấu trong ruộng, người ta sẵn sàng đánh đổi tất cả để sở hữu cho bằng được Ngài như lời của thánh Phao-lô: “Ai có thể tách tôi ra khỏi lòng mến đối với Đức Ki-tô”.
Lời mời gọi được gởi đến với mọi người:
“Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh”. Đây là một ghi nhận đặc trưng của thánh Mác-cô (3: 5; 5: 32; 9: 8; 10: 23; 11: 11). Đây không là một chi tiết điểm tô cho câu chuyện; ý nghĩa của nó thì rõ ràng: Đức Giê-su ngỏ lời với dân chúng, chắc chắn đám đông đang vây quanh Ngài, nhưng không được kể ra, và cả đám đông vô hình của những Ki-tô hữu thuộc mọi thời: “Những người có của mà vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”. Vì nhận thấy các môn đệ hết sức kinh ngạc, nên Đức Giê-su lập lại đến hai lần lời cảnh giác của Ngài: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”.
Việc sánh ví với con lạc đà chui qua lổ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa là một kiểu nói khoa trương Đông Phương để kích thích sự chú ý: sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ. Đức Giê-su đã nói rồi: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6: 24). Sự kiện các môn đệ vừa mới chứng kiến là một bằng chứng tỏ tường. “Thế thì ai có thể được cứu?”, các môn đệ nêu lên câu hỏi nầy không chỉ vì người gắn bó với của cải thì đầy dẫy chung quanh họ; nhưng còn vì, theo truyền thống của cha ông họ, sự giàu có là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa chúc phúc cho những người trung thành tuân giữ Lề Luật. Đức Giê-su trấn an họ bằng cách khai mở tâm trí của họ để họ thấu hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm ân sủng, mầu nhiệm của lòng xót thương: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì khác, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.
Chúng ta đừng quên thánh Lu-ca tường thuật câu chuyện của ông Da-kêu không xa mấy sau câu chuyện nầy, như vậy cho một ví dụ về ơn cứu độ của một người giàu có. Ông Da-kêu đã không bao giờ nghĩ đến việc bố thí một phần của cải của mình cho những người nghèo, nếu Đức Giê-su đã không viếng thăm gia đình của ông. Vấn đề là con người đáp trả như thế nào trước lời mời gọi chan chứa yêu thương của Thiên Chúa.
Phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự mà theo Chúa Giê-su:
Các tông đồ không thể không so sánh thái độ của họ với thái độ của người giàu có nầy: họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài. Thánh Phê-rô nhân danh tất cả môn đệ nhắc lại điều đó. Đức Giê-su trả lời bằng cách nêu lên hai loại phần thưởng: phần thưởng được ban cho “bây giờ, ngay ở đời nầy” và phần thưởng được ban cho trong thế giới tương lai: “sự sống đời đời”.
Có nên hiểu một chuỗi những phần thưởng đầu tiên theo nghĩa đen? Chắc chắn, ai từ bỏ những người thân yêu và của cải quý giá của mình vì Đức Giê-su, người ấy sẽ gặp thấy ở giữa lòng cộng đoàn Ki-tô hữu, một đại gia đình. Nhưng lời giải thích theo nghĩa tinh thần thì có vẻ thật hơn. Thánh Mác-cô xem ra hiểu như vậy bởi vì thánh ký đặt sự bách hại vào giữa những phần thưởng trần thế. Chính ở nơi những phần thưởng tinh thần nầy mà những Ki-tô hữu đã sở hữu rồi, thánh Phao-lô ám chỉ đến khi thánh nhân viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, kỳ thực chúng tôi vẫn luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2Cr 6: 8-10).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN-Năm B
NGUY HIỂM CỦA SỰ GIÀU SANG- Chúa giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Từ ánh mắt Đức Giêsu nhìn người thanh niên giàu có…
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng này cũng giống như Chúa nhật trước, đó là cuộc hành trình lên Giêrusalem, đây là dịp hai lần, và còn lần thứ ba nữa, Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người. Khi Đức Giêsu vừa lên đường có một người chạy đến trước mặt Người. B.Standaert nhận xét: “Cuộc gặp gỡ với người thanh niên giàu có nêu lên một đề tài quan trọng trong giáo huấn đầu tiên của Kitô giáo: vấn đề giàu có. Thánh sử đạo diễn tấn kịch này hết sức cẩn thận. Từng nấc một, ông đã đưa người ta tiên dần đến điểm giới hạn tột cùng: “Như vậy thì ai có thể được cứu: Có thể nói sự giàu có là một vách đá vững chắc mà mỗi khi vỗ vào các đợt sóng cố gắng của con người đành phải vỡ vụn, cho đến khi Thiên Chúa can thiệp: “Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (10,27)
– Từ lúc đầu của cuộc gặp gỡ, mọi sự báo trước một kết thúc may mắn:
+ Dáng vội vã của người thanh niên “chạy đến” và “quỳ xuống” trước mặt Đức Giêsu, một cử chỉ trong nghi thức phụng vụ.
+ Thái độ sẵn sàng nội tâm ta có thể cảm nhận được qua câu hỏi anh đặt ra: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Trong câu trả lời của Đức Giêsu, Người đã tự xóa nhòa trước Thiên Chúa duy nhất, khi nói chỉ mình Thiên Chúa mới nhân lành, và dành ưu tiên cho mối tương quan với tha nhân, khi Người hướng dẫn người thanh niên về lề luật Thiên Chúa: “Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ”.
+ Lòng ngay thẳng và trung thực của anh được bộc lộ qua câu trả lời Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi tuân giữ từ thuở nhỏ” J.Potin nhận xét: “Đức Giêsu biết mình gặp được một người Do thái sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa và luôn cố gắng tôn trọng tha nhân trong mọi hoàn cảnh. Hẳn người này thuộc hạng người có phẩm chất tốt hơn những người giàu có khác mà Chúa thường gặp” (“Jésus, l’histoire vraie”, Centurion, trang 233).
Bấy giờ Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh (lưu ý là trong vài câu thôi mà Máccô đã nói tới ba lần về điểm này) và Người mời anh. Lời mời gọi này là chóp đỉnh và khúc ngoặc quyết định vì cuộc gặp gỡ này.
+ Đức Giêsu “đưa mắt nhìn anh ta” và “đem lòng yêu mến”.
+ Một ánh mắt đầy âu yếm và quí trọng, được diễn tả ngay thành một lời mời gọi tha thiết: “Anh chỉ còn thiếu có 1 điều là hãy bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”.
Đức Giêsu đề nghị dẫn anh đi xa hơn nữa trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa, con đường tuy gồ ghề, nhưng chỉ là nối tiếp đường anh đã đi từ thuở nhỏ để được sụ sống đời đời làm gia nghiệp; đó là: từ bỏ của cải để cho người nghèo.
Nhưng điều hoàn toàn mới nằm trong lời mời gọi ở câu kết “Rồi hãy đến theo tôi” Đức Giêsu mời gọi người Do thái trung thực này vượt lên khỏi đức tin của cha ông để gắn bó với Người, là trở nên môn đệ của Người.
“ Nghe lời đó”, cuộc gặp gỡ từ đầu đến đây đã diễn tiến đầy hứa hẹn, bỗng đột ngột chấm dứt: “Người thanh niên sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi”, thánh sử cho ta biết, bởi vì “anh ta có nhiều của cải”.
Trên đường đi theo Đức Giêsu, người thanh niên giàu có này gặp phải một chướng ngại, đó là lòng gắn bó với gia tài sản nghiệp. Của cải như tấm kính mờ đã che lấp ánh sáng, lúc ánh sáng muốn thâm nhập vào lòng anh. “Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi”. Đức Giêsu đã đem lòng yêu mến anh. Nếu niềm hy vọng có một con đường dẫn thẳng tới Thiên Chúa đã khơi dậy niềm vui to lớn thế nào thì giờ đây, thay vào đó, là một nỗi buồn sâu xa không kém. (Sđd, trang 234).
Đến mắt Chúa nhìn các môn đệ
– Người thanh niên giàu có vừa đi khỏi, Đức Giêsu liền đưa mắt nhìn các môn đệ đang “ở chung quanh Người”.
+ Người tuyên bố: “những người giàu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”. Người còn làm cho các môn đệ sững sờ hơn khi nhấn mạnh theo kiểu phương Đông: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”.
+ J. Potin giải thích: “Các môn đệ càng cảm thấy sửng sốt hơn nữa vì theo cách giữ đạo thời đó, thì càng giàu càng có nhiều thuận lợi. Có tiền thì người giàu có thể dâng lễ vật cho Thiên Chúa theo Luật buộc để được xá tội, có thể dâng cúng một phần mười tài sản mà các tư tế đòi, hoặc có thể bố thí cho người nghèo. Dường như có một thoả thuận ngầm giữa Thiên Chúa và những người giàu. Như vậy, giàu có của cải không phải là dấu chỉ của người đẹp lòng Thiên Chúa đó sao?” (Sđd, trang 234).
Bởi đó mới có câu hỏi: Thế thì ai có thể được cứu rỗi? Nếu người giàu không được cứu rỗi, thì còn ai có thể được? J. Potin giải thích tiếp: “Nếu họ theo sát lối tư duy của đạo truyền thống, những người không thể có đủ tiền mua những lễ vật dồi dào, không mua được những bộ chén dĩa cần thiết để giữ luật lệ sạch sẽ; còn người giàu, họ có thể mà!” (Sđd, trang 235).
+ Nhìn các môn đệ một lần nữa, Đức Giêsu nói thêm: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. Đây là lời tuyên xưng niềm tin cậy đã ghi một dấu ấn quan trọng trong lịch sử Kitô giáo ngay từ buổi đầu. Thiên thần đã chẳng tuyên bố với Apraham về việc Sara sẽ làm mẹ, dù bà hiếm muộn tuổi già: “Có phép lạ nào mà Chúa không thể thực hiện được?”. Thiên thần đã chẳng tuyên bố với Đức Maria về việc bà Êlisabét sắp sinh con trong lúc tuổi già: “Bởi vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được” đấy sao? Chúng ta không được cứu nhưng việc thực thi các lề luật, hoặc nhờ những của lễ sang quí giá, hay nhờ việc từ bỏ, hy sinh anh hùng; ơn cứu độ là ân huệ cần phải đón nhận, chính Thiên Chúa đưa ta vào Nước Trời, ân sủng cao cả của Người có thể làm nên những việc lạ lùng. Câu nói trên của Đức Giêsu là một lời cổ vũ làm cho cái khó của sứ điệp trước giảm nhẹ đi. Câu chuyện kết thúc khi Phêrô hỏi: “Thầy coi, chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy”? Đức Giêsu hé mở cho thấy niềm vui ‘trăm lần’ những gì đã từ bỏ, niềm vui ấy, bất cứ ai đã bỏ mọi sự vì Người và vì Tin Mừng sẽ cảm nghiệm được ở đời này và đời sau. Nhưng Người cũng không che giấu những cuộc bách hại đang chờ họ. J. Potin kết luận: “Người môn đệ phải tham gia vào việc rao giảng Tin Mừng với Đức Giêsu. Nhưng cũng như Người, giữa niềm vui về những điều thiện hảo của Nước Chúa, họ phải chuẩn bị để chịu đựng những cuộc bách hại. Ngay từ buổi đầu Đức Giêsu đã đào tạo họ theo chiều hướng này! Phạm trù để phán xử đều bị đảo lộn, người giàu mà ta trông thấy đang ở chỗ nhất trong Nước Trời, nay bị đưa xuống chỗ rốt hết. Còn môn đệ và người nghèo được mời lên ngồi vào chỗ nhất, sau khi đã cùng Thầy mình trải qua thử thách của sự bách hại”. (Sđd, trang 235).
BÀI ĐỌC THÊM.
Con đường khó đi
Đức Giêsu lên đường. Ta sẽ biết con đường ấy dẫn đến đâu: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp…”. Ngay lúc ấy, có một người đến tìm Người. Anh ta đi tìm sự sống, sự sống đời đời. Anh ta đã nghiêm túc tìm kiếm bằng con đường tuân giữ các giới răn: “Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Anh ta cảm thấy cần phải tiến xa hơn, nên đến hỏi Chúa: “Tôi phải làm gì?”. Và Đức Giêsu đem lòng yêu mến anh. Người yêu mến sự tìm kiếm và lòng quảng đại của anh. Người chỉ đường cho anh: “Anh chỉ còn thiếu một điều: hãy đi bán những gì anh có…” Nhưng con đường này làm người thanh niên khiếp sợ bởi vì anh ta có nhiều của cải? Con đường này cũng khiến các môn đệ khiếp sợ vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa: “Như vậy thì ai có thể được cứu?” Bấy giờ, Đức Giêsu mời gọi nhìn vào cái vô hình. Người bảo đảm với người thanh niên: “Anh sẽ được kho tàng ở trên trời? Nói với Phêrô, Người hứa ban “gấp trăm lần” và mai sau được sống đời đời. Như Đức Giêsu, số phận của các môn đệ được sắp đặt trên nền tảng của sự vĩnh cửu. Vật đặt cược chính là sự sống đời đời. Và cái khó ở đây là phải ưu tiên cho cái vô hình trước cái hữu hình ta đang có. “Đối với loài người thì không thể được”. Đây là một cuộc Vượt qua của Đức Giêsu. Đức Giêsu sắp hy sinh mạng sống. Người mời gọi ta theo Người, từ bỏ mọi sự vì Người và vì Tin Mừng. Hy sinh mạng sống vì những điều này cũng đáng lắm, nhưng thực hiện cuộc vượt qua này trong đức tin và không có cái hữu hình lôi cuốn mình là điều không phải dễ. Chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới có thể thực hiện điều đó nơi ta: đối Thiên Chúa mọi sự đều có thể được? Nhưng còn cần ta để cho Người thực hiện.
Bước vào con đường khôn ngoan đích thực, khôn ngoan của Thiên Chúa.
Đức Kitô là Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa nhập thể. Ai đặt tin tưởng vào Đức Kitô, thì từ nay sẽ không theo sự khôn ngoan nào ngoài Lời của Đức Kitô. Thư gởi tín hữu Do Thái dạy ta điều này rất rõ. Đối với người Kitô hữu, Đức Kitô, Lời chân thật của Thiên Chúa trở nên một tiêu chuẩn tối hậu để nhận biết sự khôn ngoan đích thực. Bởi vậy, lời của Đức Giêsu tuy có vẻ điên rồ trong cách suy luận của ta, nhưng vẫn là lời khôn ngoan hơn bất cứ danh ngôn phàm trần nào.
Chính điều đó đã thể hiện trong truyện người thanh niên giàu có theo Tin mừng Máccô. Anh chạy đến Đức Giêsu. Anh đi tìm sự khôn ngoan. Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời? Đức Giêsu nói theo lương tâm đạo đức ngay thẳng của ngươi thời đó, Người nhắc nhở anh về những giới răn của luật Môsê. Nhưng tất cả các giới răn đó anh đã giữ cặn kẽ từ nhỏ. Nếu anh đến tìm Chúa, là vì anh khao khát điều gì khác, điều mà việc tuân giữ các giới răn đã không thoả mãn được.
Đức Giêsu chăm chú nhìn anh. Trước khát vọng của anh, Người ban cho anh một thời mới mẻ. Người mở ra trước mắt anh một con đường, mà dù có trung thành cặn kẽ mấy đi nữa, anh cũng không nghĩ ra. Người đề nghị với anh một điều có vẻ điên rồ trước mắt người đời: Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, rồi hãy đến theo Tôi.
Ta chỉ hiểu những lời này qua hệ luỵ chúng gây ra trong cuộc sống của ta thôi. Nào là bỏ tất cả, mất tất cả, bán tất cả, cho tất cả. Nhưng điều quan trọng không ở đó. Điều quan trọng nằm ở phần thứ hai của câu nói: Rồi hãy đến theo Tôi! Theo Đức Giêsu là theo Lời Thiên Chúa, là theo Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa. Theo Đức Giêsu là muốn Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa hơn tất cả mọi sự. Chỉ có lòng yêu mến như vậy, tuy không thấy, không nắm bắt được, mới biện minh cho hành vi từ bỏ tất cả mọi sự được. Khốn nỗi, việc mất đi mọi sự che lấp chân trời rộng mở, cản trở ta cảm nghiệm được Sụ Khôn Ngoan đích thực của Thiên Chúa. Theo Đức Giêsu là dám liều mất tất cả. Và đó là điều Chúa đòi hỏi. Bạn có đủ tin tưởng vào Tôi để nghe theo lời tôi khuyên nhủ không? Thực sự, bạn chỉ cảm nghiệm được giá trị của nó sau này thôi! Còn lúc này, bạn có thể tin tôi không, khi tôi nói rằng bạn sẽ được thoả lòng?
Thật ra, Đức Giêsu đặt người thanh niên vào đúng vị trí của ông Apraham. Cha của Người trong đức tin. Người đề nghị với anh hãy tin và hãy tín nhiệm vào Lời vừa đòi hỏi vừa hứa hẹn.
Tin Mừng thuật rằng: người thanh niên bỏ ra về, bởi vì anh có nhiều của cải. Và Tin Mừng cũng nói rõ thêm: Anh sa sầm nét mặt. Niềm vui đã tan biến. Khát vọng chân thật mà người thanh niên bộc lộ lúc ban đầu gặp Chúa, bây giờ tàn lụi, tắt ngấm. Nó không còn có thể làm nẩy sinh niềm vui đến từ lòng khát vọng sống động.
Trình thuật này được viết ra không phải để chúng ta buồn lòng về trường hợp người thanh niên ấy, nhưng để Lời Chúa đánh động tâm hồn ta. Lời Chúa cũng muốn vươn tới khát vọng chân thật của ta, cũng muốn khát dậy đức tin chân thật nơi ta, Người muốn đưa ta vào con đường khôn ngoan chân thật, là Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐIỀU CẦN PHẢI BỎ TRÊN ĐƯỜNG THEO GIÊSU- Suy niệm chú giải của Lm. Nguyễn Ngọc Thế
Vài hàng sơ lược
– Đoạn phúc âm này là bài giáo huấn thứ 3 trong chương 10, sau lời giáo huấn về hôn nhân (10,2-12) và về tinh thần của trẻ em (10, 13-16). Đề tài chính của đoạn này là câu hỏi về sự sống đời đời làm gia nghiệp trên nước Trời, và tinh thần theo Giêsu.
– Đoạn này có thể chia làm 3 phần: (1) từ câu 17-22 là cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Giêsu và người thanh niên giàu có đi tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp. (2) Từ câu 23-27, Đức Giêsu giáo huấn tinh thần nghèo khó cần có trên đường theo Chúa, và cần có để được vào nước Trời. Và (3) từ 28-31, câu hỏi của Phêrô về phần thưởng khi theo Giêsu, và câu trả lời của Giêsu.
Suy niệm
“17 Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
– “Giêsu lên đường” trong câu này, là đi tới Giê-ru-salem (ss. Mc 10,32), để Ngài sẵn sàng chịu đau khổ, chịu bắt hại và chịu chết. Và trên đường đó, có một người chạy đến gặp Giêsu. Người này, theo Mt 19,22, là người thanh niên. Theo Adolf Pohl, trong xã hội Do-thái, đàn ông đến 40 tuổi vẫn có thể được gọi là thanh niên. Ngoài ra, so sánh với Lc 18,18-23, thì người hỏi Giêsu là một thủ lãnh. Người này có thể là trưởng hội đường, là quan tòa, hay một thành viên trong hội đường. Vì thế, không biết người anh em trong đoạn phúc âm của chúng ta có phải là một thanh niên hay không? Tuy nhiên, thuận theo Mát-thêu chúng ta cứ coi là một thanh niên.
– Anh ta chạy đến và quỳ xuống trước mặt Giêsu và hỏi. Thái độ quỳ xuống ở đây nhắc nhớ chúng ta đến hình ảnh của người phong hủi quỳ xuống xin Giêsu: “Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mc 1,40) Thái độ này còn có ý nghĩa công nhận Giêsu là một vị Thầy. Vì thế, trong câu hỏi, anh ta đã nói rằng: “Thưa Thầy nhân lành”. Tính từ “nhân lành” hay “tốt lành” ở đây được thêm vào, có ý nghĩa chỉ về vị thầy được nhắc trong Mc 12, 14, mà các người Pha-ri-sêu nói về Giêsu: “Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa.” Và “tốt lành” ở đây chỉ vị Thầy khiêm nhường, như Gioan Tẩy Giả nhỏ đi, để Thiên Chúa lớn lên: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Vâng, quên chính bản thân mình, để tất cả chỉ vì vinh danh Thiên Chúa mà thôi.
– “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Câu hỏi của chàng trai trẻ đặt ra cho vị Thầy tốt lành, trở nên một câu hỏi quan trọng cho mỗi con người trong từng thời đại. Một câu hỏi nói lên lòng khao khát của con người về kho tàng quý giá nhất, về hạnh phúc tuyệt vời và vĩnh cửu, hạnh phúc mà con người không thể tìm thấy trong cuộc sống trên trái đất này. Sự khao khát về sự sống vĩnh cửu, sự sống không bao giờ quen tới chữ “hết” và chữ “chết”. Nhưng để cho cuốn phim cuộc đời không “hết” và sự sống con người không “chết”, thì cần phải làm gì đây? Vấn nạn của chàng thanh niên thuở xa xưa cũng là vấn nạn của từng người trẻ thời nay. Trước vấn nạn này, chúng ta hãy lắng nghe Giêsu trả lời.
“18 Đức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.”
– Đúng theo kiểu của Giêsu, Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi cho người đã hỏi. (ss. Mc 10,3). “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.” Ở đây, chúng ta cũng có thể thắc mắc, tại sao Giêsu lại đặt ra câu hỏi đó. Và tiếp đến tại sao Giêsu lại từ chối tính từ “nhân lành hay tốt lành”?
Câu hỏi Giêsu đặt ra và sự từ chối của Ngài như là một cách thức và “phương tiện” Giêsu dùng để hướng về một điều quan trọng trong câu chuyện này. Điều quan trọng đó nằm trong câu trả lời: “Chỉ một mình Thiên Chúa tốt lành” (ss. Mc 12, 29). Câu trả lời này, theo R. Pesch, có ý nghĩa là, Giêsu qua câu hỏi của người thanh niên về điều cần làm, muốn hướng mọi người về giới răn chính yếu của Thiên Chúa tốt lành. Chỉ có giới răn này là quan trọng, là cần được thực thi. Đó chính là giới răn được nhắc trong Đnl 6,4-5: “ Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em).” Điều răn chính yếu này hướng về điều răn khác cũng quan trọng không kém. Đó là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” Và “chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 31).
19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.”
Tiếp đến Giêsu hướng anh chàng thanh niên về các giới răn mang tính cách xã hội, trong tương quan giữa ngưới với người: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” Đây là những giới răn quan trọng được nhắc tới trong Mười điều răn căn bản của Đức Chúa Trời dạy. Mười điều răn này tựu trung lại chính là giới răn: “Yêu người thân cận như chính mình.” Ai thực thi những điều răn này thì đang đi trên con đường công chính, và sự sống đời đời thuộc về người đó. Như vậy, anh chàng thanh niên của chúng ta có sống theo các giới răn đó không?
20 Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.”
Thật tuyệt vời! Còn gì bằng nữa. Từ năm 13 tuổi anh thanh niên đã sống theo các giới răn. Vâng, như các trẻ em Do-thái khác, khi được 13 tuổi anh đã đón nhận trách nhiệm sống tương hợp với những điều Gia-vê truyền. Theo Billebeck, thì Do-thái giáo coi những người, dù ở trong một xã hội sô bồ và tội lỗi, vẫn sống theo lề luật mà Mô-sê truyền là những người công chính. Đó là 365 điều răn cần làm và 248 điều răn cần tránh trong các sách của Mô-sê.
Cuộc gặp gỡ giữa Giêsu và chàng thanh niên có thể chấm dứt ở đây, và anh ta có thể ra về trong hân hoan. Nhưng không, chính Đức Kitô không để cho anh đi dễ dàng như vậy. Ngài lên tiếng và thêm vào một điều quan trọng khác kế bên các giới răn trên. Điều đó người thanh niên cần có để có thể đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
21 Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”
Trước câu trả lời của chàng thanh niên, Giêsu hướng nhìn anh và đem lòng yêu mến. Ở đây, theo R. Pesch, thì đó không phải là kiểu Giêsu biểu lộ cảm tình của mình với anh thanh niên, mà là một thái độ cao thượng của người Thầy có quyền dạy dỗ về giới răn và quyết định giới răn. Sau đó, Giêsu đã chỉ ra một điều thiếu thốn, kế bên những giới răn mà anh thanh niên đã hiểu và sống theo. Đó là: “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Trong Mát-thêu 19, 29 thì: ““Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Điều Giêsu đòi hỏi liên hệ đến chính sự sống và và vệnh mạng của anh thanh niên. Một sự đòi hỏi tận căn cho những con người muốn sống hoàn thiện.
Thực ra, nếu so sánh với kho tàng trên trời mà Giêsu hứa ban, thì của cải tài sản trên trái đất này có là gì đâu. Nói vậy, nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Có biết bao người đã coi của cải trần gian như ông chủ của mình, và bị lệ thuộc vào nó hoàn toàn. Hơn nữa, cái mình đang có trong tay bao giờ cũng quý, và cái mà mình được hứa ban cũng thật quý. Nhưng ai dám đánh đổi hay bỏ hết cái mình đang có trên tay, đề rồi nhận cái mà mình được hứa trong tương lai? Rồi còn cái “lòng tham vô đáy” của con người nữa chứ.
Dù vậy, vẫn có rất nhiều anh chị em trong lịch sử đã thấu hiểu cái giá trị cao quý của Nước Trời, nên chẳng màng tới của cải trần gian. Đó là Phan-xi-cô A-si-si, là Ê-li-sa-bét miền Thue-ring-gen, là I-nhã thành Lô-giô-la, và một vị thánh khác rất gần gũi với người Châu Á, Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Tất cả đều là những con nhà quyền quý và giàu sang, nhưng đã rũ bỏ tất cả những vật hồng trần, để trở nên con người tự do thực sự. Đây chính là điều Giêsu muốn nói trong đoạn phúc âm này. Bỏ hết của cải để được tự do cho Nước Chúa, tự do cho Tin Mừng, tư do theo Đức Kitô, và cùng với Ngài sống hoàn toàn cho tình yêu thương. Chắc chắn phần thưởng của họ không gì khác hơn là kho tàng lớn nhất. Đó là Nước Trời. Về điều này, R. Pesch đã giúp cho chúng ta đọc những tâm tình của các thầy Ráp-bi Do-thái giáo. Dưới đây là một trích dẫn mang suy nghĩ “công trạng và phần thưởng”: “Người công chính rất thích chờ đợi giây phút cuối cùng, họ chẳng sợ gì khi lìa bỏ cuộc đời này. Vì ở nơi Thiên Chúa, họ có một kho tàng từ chính những công trình của mình. Kho tàng đang được giữ gìn cho họ trong phòng cất giữ đồ quý.” Tuy nhiên, kho tàng ở trên trời không phải là thước đo, bắt người có niềm tin phải sống sao cho có hiệu quả, phải sinh ra lợi ích này hoa trái kia. Suy nghĩ của Giêsu không theo suy nghĩ của các Ráp-bi, “công trạng và phần thưởng”. Kho tàng trên trời là một hướng đích, giúp cho người có niềm tin định hướng cho hành động của mình sao cho được tốt, có thái độ hợp tình hợp lý với anh chị em bên cạnh, từ chối những gì mang mùi vị của sự dữ, không làm cho người bên cạnh bị tổn thương. Kho tàng trên trời giúp biết ý thức sống công chính với người nghèo, sẵn sàng chia sẻ và nâng đỡ họ, … Tóm lại, có thể nhắc đến nguyên tắc vàng trong Mt 7,12: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.”
Như vậy, ai nhận ra được giá trị cao quý của Nước Trời, và sống theo tinh thần đó, thì giống như những người được nhắc trong dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý ở Mt 13, 44-46: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”
Và người đó đang bắt chước Đức Kitô, Đấng“vốn dĩ là Thiên Chúamà không nghĩ phải nhất quyết duy trìđịa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).
– Cùng với Đức Kitô, người sống tinh thần từ bỏ tất cả của cải, và chỉ hướng về Nước Trời, đang sống chứng tá giữa lòng thế giới đầy phức tạp, với chủ nghĩa hưởng thụ, đề cao của cải vật chất, tiện nghi hiện đại, đến nỗi chẳng còn màng gì đến nhân phẩm con người, đến lòng bác ái cần có trong xã hội. Trong thế giới này thiếu vắng văn minh của tình thương. Theo Carlo Maria Martini, tinh thần nghèo khó của Kitô giáo cần trở nên dấu chỉ sống động cho sự đoàn kết và tương trợ giữa con người với nhau. Đàng khác, tinh thần sống nghèo khó của người Kitô hữu cần mang một “khuôn mặt” khác nữa. Sự nghèo khó của chúng ta cần phải tự tách biệt ra khỏi thế giới này, trở nên lời phê bình đối với thế giới xung quanh chúng ta. Sự nghèo khó của Kitô giáo cần phải đem lại thước đo giá trị khác về con người và vật chất. Nghĩa là, phẩm giá con người không thể được đo và đánh giá theo chuẩn mực của danh vọng địa vị, của tiền bạc vật chất. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, con đường nghèo khó cũng chính là con đường giải phóng, con đường của niềm vui và mừng rỡ. Kinh nghiệm này nối kết chúng ta với Đức Giêsu Kitô. Con đường nghèo khó này giúp cho chúng ta thấu hiểu và cảm nhận được sức mạnh của Thánh Giá.
Ai đã cảm nhận được phần nào niềm vui này, ai đã tập sống chú ý và sống thật giản dị đơn sơ, sống khiêm nhường và ý thức thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, thì người đó sẽ khám phá nhiều điều mới trong những trang của Tin Mừng. Không có sự cố gắng sống tinh thần nghèo khó này, các trang giấy Tin Mừng luôn là những trang giấy “câm lặng”.
Ai cất bước đi trên con đường nghèo khó của Đức Kitô, thì lời của Đức Kitô sẽ trở nên sống động đối với người đó. Lời của Đức Kitô sẽ bắt đầu ngân vang lên những khúc nhạc thật tuyệt vời, đem lại cho cuộc đời nhiều niềm vui, bình an và cuộc đời thật đáng sống, vì cuộc đời đẹp lắm thay.
– Ngoài ra, liên quan đến câu nói của Đức Kitô, Anselm Grun, một tu sĩ người Đức thuộc tu viện Biển Đức Muensterschwarzach, đã có những suy niệm khá lý thú. Trước hết cha đã trích dẫn lời của Evagrius (346-400), một vị ẩn sĩ khắc khổ, và một nhà văn người Hy-lạp: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, hãy vác lấy thánh giá của anh trên vai anh, để anh có thể cầu nguyện sốt sắng, mà không bị chia trí gì cả.” Tiếp đến, cha Grun đã giải thích lời này như sau.
Evagrius đã thay đổi câu nói của Đức Kitô theo một ý nhất định. Trong phúc âmcủa Mát-thêu Chúa Giêsu nói với người thanh niên: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19,21) Evagrius đã đồng nhất sự theo chân Đức Kitô với việc cầu nguyện thật sốt sắng. Thật là táo bạo, khi thay đổi ý nghĩa lời của Giêsu. Và như vậy, việc theo chân Đức Kitô được hoàn thiện trong cầu nguyện, trong chiêm niệm.
Nhưng điều kiện cho việc cầu nguyện sốt sắng không chia trí là, chúng ta phải bán tất cả những gì mà chúng ta đang bám vào và lệ thuộc vào, và cho người nghèo. Chúng ta cần phải trở nên tự do hoàn toàn, tự do với tất cả những gì chúng ta đang sở hữu. Không chỉ là những vật chất bên ngoài, mà là tất cả những gì mà chúng ta đã đồng nhất hóa với chúng: như thói quen của chúng ta, suy nghĩ của chúng ta, công việc của chúng ta, lo toan của chúng ta, kết quả tốt đẹp và cả tiếng tốt của chúng ta. Sự tự do nội tâm là điều kiện cho việc cầu nguyện, mà trong đó chúng ta được trở nên một với Thiên Chúa.
Evagrius cũng nêu lên một điều kiện khác. Đó là chiêm niệm (contemplation). Chúng ta cần phải đón nhận thánh giá và vác trên vai mình. Thánh giá là sự hiệp nhất của tất cả mọi sự đối lập tương phản. Chúng ta cần phải đón nhận vào trong mình tất cả mọi tương phản, cả cái bóng của chúng ta, cái bóng làm cho hình ảnh lý tưởng của chúng ta bị lu mờ. Đón nhận Thánh Giá cũng còn có ý nghĩa là nói «Vâng» với tất cả những gì đi ngang qua chúng ta, nói «vâng» với đau khổ đến với chúng ta, nói « vâng » với thất bại, nói «vâng» với tương quan đổ vỡ, nói «vâng» với những «vết rách» trong cuốn sách lịch sử cuộc đời của chúng ta.
Chỉ khi chúng ta hòa giải với Thánh Giá đang ở trên cuộc sống của chúng ta, thì chúng ta mới có khả năng cầu nguyện sốt sắng và không chia trí. Chỉ có những người đón nhận tất cả một cách vô điều kiện, thì mới có thể cầu nguyện thực sự. Còn không, thì người đó sẽ bị quấy rầy thường xuyên, bởi những gì khó chịu ở bên trong mà người đó đang chống lại.
22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
– Khi nghe lời của Đức Kitô, anh chàng thanh niên của chúng ta sầm nét mắt lại. Thái độ hăng say đầu tiên đã biến mất. Vâng, đụng tới tiền bạc là thế! Tiền bạc đã làm cho Anh không thể tìm thấy nơi Giêsu ách êm ái và gánh nhẹ nhàng được (ss. Mt 11,30). Vì vậy, anh ta bỏ đi, trở về lại với kho tàng của mình, để tiếp tục gánh cái gánh nặng nề đang đè trên vai mình. Không chỉ thế, bỏ đi nhưng bỏ đi một cách buồn rầu nữa chứ. Anh ta buồn rầu vì suy nghĩ của anh ta về “công trạng và phần thưởng” không được phê chuẩn hoàn toàn? Hay anh ta buồn rầu, vì phải lìa xa Giêsu, sau khi đã nhận được một chút “hơi thở” tốt lành, nhân ái của Giêsu? Nhưng anh ta còn thiếu cái gì để có thể từ bỏ được của cải vật chất? Chắc chắn rằng, anh ta chưa yêu Chúa hơn yêu của cải của mình. Của cải của anh ta nhiều quá, đến nỗi che mắt anh ta, làm cho anh ta không còn thấy Chúa nữa, không còn sáng suốt để nhận định giá trị đích thực của vật chất là gì. Vâng, thật tiếc vì anh ta chưa hiểu được điều: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại.” (1 P 1,18) Hơn nữa, con người như một bình sành dễ vỡ. Một lúc nào đó, bỗng chợt anh ta bị một tai nạn gì hay mang cơn bệnh gì, thì thử hỏi rằng, của cải nhiều vô kể có đi theo với anh ta xuống hầm mộ không? Tất cả những của cải dù có lớn kếch sù đến mấy cũng không thể “mua được chiếc hỏa tiễn chở” anh ta lên Trời.
– Ngoài ra, anh ta còn thiếu thái độ bình tâm. Thái độ bình tâm coi Chúa và thánh ý Chúa là trên hết, đến nỗi: “chúng ta không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả.” (Linh Thao số 23)
– Thái độ bình tâm này giúp chúng ta biết hướng con tim của mình về trời. Hướng con tim về trời nghĩa là chúng ta biết lo lắng những điều lớn hơn cả sự sống của mình, lớn hơn cả của cải, sự nghiệp, gia đình và bạn vè, lớn hơn cả những lời hứa hẹn và dự định tương lai. Theo Henri J. M. Nouwen, các điều đó là những điều thuộc về Thiên Chúa: Sự thật, tình yêu, niềm tin, ánh sáng và thánh ý của Chúa. Chừng nào chúng ta còn hướng con tim mình về những điều này, thì lý trí của chúng ta sẽ không còn nghĩ đến những “chuyện vớ vẩn”, những sự vật hấp dẫn chúng ta, đến nỗi chúng ta luôn muốn có, nhưng thực sự thì chúng ta chẳng cần đến chúng. Chừng nào chúng ta còn hướng về chân lý, ánh sáng và sự sống của Thiên Chúa là tình yêu, cũng như đi tìm thánh ý Ngài, thì chúng ta còn tham dự vào trong cộng đoàn của Thiên Chúa. Đấng luôn hiện diện ở đó ngay trong lúc này. Chính Ngài sẽ ban tặng cho chúng ta những gì chúng ta thực sự cần tới. Như thế, thì những lo lắng cuộc đời của chúng ta trở thành lời cầu nguyện, và những cảm giác bất lực của chúng ta sẽ được biến đổi và thánh hóa trong sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.
– Thực thế, nếu chúng ta hướng lòng mình vào của cải, vào những lo toan làm sao được sung sướng tiện nghi hơn, nhiều tiền của hơn để hưởng thụ, thì chúng ta vẫn không thể làm cho cuộc sống của mình dài thêm một gang tấc nào cả. Vì thế, điều khôn ngoan cần có ở đây, là không chỉ mong sao cho được sống sung sướng trên nhung lụa, mà còn dám bỏ nhung lụa để chạy đến và nép vào lòng của Thiên Chúa; dám bỏ tất cả, để tự do hoàn toàn trên đường làm con trai con gái của Thiên Chúa, Đấng sẽ đem lại cho chúng ta sự sống đời đời làm gia nghiệp.
– Nói thế, nhưng không phải như vậy là chúng ta không còn “tham lam” của cải, và bám chặt vào chúng, và ngày ngày lo toan sao có thêm nhiều hơn nữa. Khuynh hướng này vẫn ở đó trong chúng ta. Như vậy, chúng ta sống trong tình trạng “què quặt”. Một đàng là vậy, đàng khác thì lại mong ước điều khác hẳn. Vâng, chúng ta không bao giờ thoát khỏi cái ước muốn của chúng ta, và thoát khỏi lòng tham muốn có thêm của cải, để trở nên con người tự do thực sự. Có lẽ hiểu được điều đó mà Tagore đã lên tiếng: “Ước muốn trong tôi nhiều vô kể và tiếng nói tôi than nghe não nuột, thảm thương.” (Lời dâng, 14)
Trong tình trạng “què quặt” này, Henri J. M. Nouwen đã khuyên chúng ta biết luôn trở về và biết ý thức hướng trọn tâm hồn mình về với Chúa, Đấng Tốt Lành vô cùng. Ở bên Ngài chứ không phải ở bên cạnh “đống của cải”, chúng ta có thể thảnh thơi và mỉm cười về chính cái ích kỷ của mình, lòng tham vô đáy của mình, và song song luôn mở đôi mắt mình và đôi tai mình cho sự bắt đầu mới, bắt đầu tập sống tinh thần từ bỏ, tinh thần làm con cái Thiên Chúa, những người con thực sự tự do trên đường theo Thầy, và sống tinh thần của Thầy. Và khi đi trên con đường của Đức Kitô, chúng ta không cần phải lo lắng quá đỗi cho chính mình. Vì “Ngày lại ngày người làm tôi xứng đáng với tặng vật lớn lao giản đơn người ban, mà chẳng cần để tôi xin hỏi – này bầu trời, ánh sáng, này xác thần, này trí tuệ, này cuộc đời – cứu tôi khỏi những hiểm nguy của vũng lầy ước muốn.” (Lời dâng, 14)
23 Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! “24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”
– Khi anh chàng thanh niên bỏ đi, Giêsu liền rao mắt nhìn chung quanh và nói với các môn đệ. Cái nhìn chung quanh của Giêsu chính là cái nhìn giáo dục, cái nhìn dạy bảo những môn đệ gần gũi với Ngài nhất. Ngài dạy bảo điều gì? “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” Chắc chắn rằng, việc vào Nước Trời là một quà tặng của Thiên Chúa ban, nhưng không vì thế mà có nghĩa là sẽ dễ dàng nhận được món quà này. Trở về lại với Mc 9, 43.45.47, chúng ta sẽ thấy Giêsu đã nói mạnh bạo như thế nào. Vâng, “thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục.” (Mc 9,47)
Trước những lời của Giêsu, các môn đệ sững sờ. Vâng, không ngạc nhiên sờ sững sao được, khi hiểu được cửa vào Nước Thiên Chúa đâu phải là cánh cửa rộng thênh thang, mà chính là cánh cửa hẹp: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7,13-14)
Trở về với Mác-cô, chúng ta thấy cánh cửa hẹp của Nước Trời Giêsu đã so sánh với cánh cửa “lỗ kim”. Cánh cửa rất nhỏ tại bức tường vào thành Giê-ru-sa-lem. Thật là tương phản biết bao, khi con lạc đà đứng trước “lỗ kim” này.
Nghe tới hình ảnh so sánh rất tương phản của Giêsu, các môn đệ lại sững sỡ hơn nữa, và các ông đã hỏi nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” Câu hỏi này của các môn đệ được Giêsu trả lời như sau:
27 Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”
Câu trả lời của Giêsu có hai vế. Vế đầu tiên là: ““Đối với loài người thì không thể được.” Vế này chỉ là phần phụ. Vế thứ hai chính là điều mà Giêsu muốn nói rõ: “nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.” Ở đây, chúng ta nhớ lại câu chuyện của bà Sa-ra, đã không tin vào lời của Chúa hứa cho bà sẽ sinh con dù tuổi đã cao. Sau đó, Chúa đã hiện ra với bà và ông Áp-ra-ham, và Ngài đã nói rằng: “Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức ĐỨC CHÚA?” (St 18,14). Còn Gióp, dù bị rơi vào trong hoàn cảnh đau khổ, nhưng ông vẫn tin tưởng vào Chúa, Đấng sẽ cứu thoát. Ông đã cầu nguyện như sau: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu.” (G 42,2). Thực vậy, cuối cùng “ ĐỨC CHÚA đã khôi phục tài sản cho ông Gióp…ĐỨC CHÚA đã tăng gấp đôi những gì ông Gióp đã có trước kia.” (G 42, 10)
Chữ “nhưng” nổi tiếng mà Đức Giêsu nhắc đến ở đây thật có ý nghĩa sâu sa. Chữ “nhưng” đó Thiên Chúa đã nói với Sa-ra, khi bà thầm cười, như cười hình ảnh con lạc đà với lỗ kim. Chữ “nhưng” đó Gióp đã hiểu rõ ràng, nên đã không thầm cười, mà đầy tin tưởng cầu nguyện với Gia-vê Thiên Chúa, Đấng chắc chắn sẽ cứu độ ông. Và chữ “nhưng” này còn được làm nổi bật nơi Áp-ra-ham, chồng của bà Sa-ra: “ Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính.” (Rm 4, 18-22)
Trở về lại với cuộc đời thường ngày, nhiều lần tôi cũng đọc được chữ “nhưng” này trong một số cuộc đời. Vâng, có cuộc đời bị thế lực sữ dữ đe dọa và hãm hiếp, nhưng dù vậy người anh chị em đó vẫn luôn bám vào Chúa, vì tin rằng, sự dữ dù lớn đến thế nào, nhưng vẫn không lớn bằng tình yêu của Chúa. Còn cuộc đời khác, bị đồng tiền hãm hại, bóc lột, nhấn chìm xuống vực sâu, nhưng vẫn can đảm vươn lên, không nằm chết dưới bóng đêm trong hố sâu thăm thẳm kia, vì người anh chị em đó tin rằng, đồng tiền dù có giá, dù con người ai ai cũng cần đến, nhưng nó không là ông chủ của mình, mà Ông Chủ đích thực của đời người là Thiên Chúa, đấng mạnh mẽ hơn đồng tiền nhiều lắm. Vâng, dù một số người cứ tưởng rằng: “Có tiền mua tiên cũng được”, nhưng họ đã lầm to, dù trả giá cao đến mấy, họ vẫn không bao giờ mua Chúa được đâu. Còn cuộc đời khác thì đang quằn quại đau đớn, vì bị người thân yêu nhất của mình bỏ rơi, cái đau thê thảm nhất, nhưng dù sao thì người anh chị em đó trong cơn đau vẫn không đánh mất niềm hy vọng, không đánh mất niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vào Thần Khí của Ngài, Đấng có thể thúc đẩy một tâm ác phải lên đường trở về với chính lộ, với chánh niệm, trở về lại với tình yêu nhân từ của Chúa, và từ đó trở về với mái ấm mà mình đã lỡ dại một lần bỏ rơi và đi hoang.
Thực, dù con người và thế giới này có bất lực hoàn toàn, “nhưng” đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.
28 Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!”
Câu 28 này nối tiếp với câu chuyện anh chàng thanh niên hỏi Chúa, và ở đây Phêrô xuất hiện như là người đại diện cho các anh em. Ông lên tiếng hỏi Giêsu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Một cách nào đó, Mác-cô đã đặt câu chuyện của Phêrô ở đây tương phản với câu chuyện của người thanh niên, đã không dám bỏ mọi sự theo Chúa. Song song với Mác-cô, câu hỏi của Phêrô trong phúc âm Mát-thêu rõ hơn một chút: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” Đây là câu hỏi mà các nhà chú giải thường giải thích theo cái nhìn “công trạng và phần thưởng”, tương hợp với suy nghĩ của các Ráp-bi. Theo Adolf Pohl, thì Giêsu đã đón nhận câu hỏi của Phêrô một cách bao dung. Ngài cũng đã trả lời Phêrô rõ ràng, nhưng câu trả lời này không theo suy nghĩ của các thầy Ráp-bi, cũng theo suy nghĩ mang tính cách luân lý, mà là một lời hứa:
29 Đức Giêsu đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
– Trước hết, đọc kỹ hai câu này, chúng ta thấy Mác-cô trong câu 30, đề cập đến những gì các môn đệ nhận được ngay bây giờ, thì lại không nhắc đến cha, mà chỉ là mẹ và anh chị em. Theo Pesch, thì ở đây trong cái nhìn của Giêsu, chỉ có một cha trên trời mà thôi, và Ngài muốn hướng mọi người về Cha: “Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.” (Mt 23,9). Cha trên trời chình là “nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất.” (Ep 3,15) Và trong câu 30, Giêsu nhắc đến sự ngược đãi, có nghĩa là Giêsu hướng về sự bắt bớ mà các môn đệ sẽ hứng chịu, khi thi hành sứ vụ truyền giáo trong thời giáo hội tiên khởi
– Ngoài ra, câu trả lời của Giêsu nhắc nhớ đến sự đòi hỏi của Ngài giành cho những ai muốn theo Ngài: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mc 1, 16), và “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8, 34b-35) Như vậy, động lực đầu tiên thúc đẩy các môn đệ từ bỏ là theo Giêsu, và động lực thứ hai là vì Tin Mừng, Tin Mừng mà Giêsu rao giảng: “Đức Giêsu đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.” Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1,14-15)
Những gì các môn đệ bỏ lại đàng sau đều là những con người gần gũi, và những nhu cầu rất cần thiết cho đời sống thường ngày. Đó là nhà cửa, là gia đình… Nhưng đâu phải vậy mà các ông phải sống vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Cuộc đời của các ông giờ đây là cuộc đời của Đức Kitô, một cuộc đời của người gieo giống đem hạt giống Tin Mừng rải khắp mọi nơi, một cuộc đời đến với những anh chị em nghèo khổ, là cuộc đời luôn cất lời để rao giảng về Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng cứu độ tất cả mọi người. Chính trong sứ vụ cao quý này, mà các ông đã nhận lại được biết bao nhiêu. Vâng, lời nói của Giêsu: “ngay bây giờ” là lời nói rất đúng. Nếu ngồi chiêm ngắm cuộc đời của những người chân tu theo Chúa thực sự, và sống hoàn toàn cho Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra ngay ở đời này họ đã nhận được biết bao nhiêu là nhà cửa, là ruộng đất. Rồi cả cha mẹ, lẫn anh chị em, con cái nữa. Mà tất cả lại là “gấp trăm” nữa chứ! Cái “gấp trăm” này tương hợp với con số tăng trưởng 30, 60 và 100 của dụ ngôn người gieo giống (ss. Mc 4, 1-20)
Những người từ bỏ hoàn toàn giờ đã được lại tất cả và còn nhiều hơn thế nữa. Đó là mẹ Tê-rê-sa, người mẹ có biết bao nhiêu con cái nghèo nàn. Là Frere Roger có biết bao người trẻ là môn đệ, và con mình. Và điều quý báu nhất là Mẹ Tê-rê-sa và Frère Roger trở nên những người anh chị em của Đức Kitô: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3,35).
Cả hai chẳng thiếu thốn nhà cửa và ruộng đất. Nhà cửa ở khắp mọi nơi trên thế giới, ruộng đất tại mọi ngõ nghách của trái đất này. Không chỉ thế, món quà lớn nhất mà Giêsu hứa ban đó là “sự sống vĩnh cửu ở đời sau.” Sự sống mà anh chàng thanh niên đã ao ước. Sự sống ở bên Thiên Chúa, trong tương quan gần gũi với Người, tương quan như cha với con vậy. Sự sống thông hiệp với tất cả các thiên thần, các thánh và các anh chị em, những người con yêu dấu của Chúa ở trên thiên quốc.
Một cách nào đó, Thiên Quốc đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, nơi các môn đệ của Đức Kitô đang sống vì Chúa và vì Tin Mừng. Nơi đó, các ông đã trở nên những người anh em ở bên Đức Kitô.
31 Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”
Câu này thường xuất hiện trong phúc âm nhất lãm. Lúc thì trong bối cảnh này, lúc thì trong bối cảnh khác, và có những chủ đích khác nhau. Như trong dụ ngôn thợ làm vườn nho trong Mt 20, 1-6 hay trong Lc 13,30, khi Đức Giêsu khi lên Giê-ru-salem, đã rao giảng trên đường, và Ngài đã nhắc đến điều này: “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
Còn trong đoạn Tin Mừng của chúng ta, thì lời của Đức Kitô mang âm thanh thật an ủi. Trong sự sụp đổ của ngày cánh chung, tất cả kẻ chết sẽ chỗi dậy, người nghèo khó sẽ được tặng ban, kẻ đói khát sẽ được no thỏa, người buồn sầu sẽ được ủi an, ké bé nhỏ sẽ trở thành “người lớn”, người đau yếu sẽ mạnh khỏe, kẻ bị tù đày sẽ được giải thoát, và người rốt hết sẽ nên trước hết.
Ngoài ra, với câu 31 này, Mác-cô muốn nêu bật chủ đề mà ông muốn nói trong đoạn 10, 17-31. Đó là chủ đề trở về và theo chân Chúa. Vâng, những ai nhờ giàu có, địa vị, và quyền lực mà trở nên những người trước hết, thì họ sẽ trở nên người cuối hết trong ngày cánh chung, vì họ đã không từ bỏ được của cải, địa vị và quyền lực. Còn những ai trong cuộc sống này chẳng có gì cả, và cũng không là ai nổi tiếng và danh giá cả, mà chỉ là người môn đệ đơn sơ của Đức Kitô, những người ngồi ở chỗ cuối cùng trong “căn phòng thế giới” này, thì họ sẽ trở thành những người trước hết trong “căn phòng Thiên Quốc”, với sự sống vĩnh cữu.
Tham khảo
– Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/2, S.135-147
– Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1, S. 376-386
– Hermann L. Strack und Paul Billerbeck, Kommentar zum NT aus Talmud und Midrasch, C.H.Beck Munchen, 8. Aufl., Band III, S. 161.
– Carlo Maria Martini, Mein spirituelles Worterbuch, Pattloch Verlag, Ausburg 1998, Begriff: “Armut”
– Henri J. M. Nouwen, Dem vertrauen, der mich halt. Das Gebet ins Leben nehmen. Herder Verlag, Freiburg Basel Wien 2003
– Anselm Grun, Der Weg durch die Wuste. Vier-Turme-Verlag, Munsterschwarzach 2001.
– Gitanjali RABINDRANATH TAGORE, LỜI DÂNG, Đình Khoan chuyển ngữ, nguồn <www.dunglac.net>
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
NGUY HIỂM CỦA TIỀN BẠC CỦA CẢI- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Kn 7,7-11) : Vàng bạc, trân châu, bảo ngọc chỉ như bùn đất nếu so với sự Khôn ngoan.
– Tin Mừng (Mc 10,17-30) : Đức Giêsu khuyến cáo về sự nguy hiểm của sự giàu sang : “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúng ta thường nghe nói “Có tiền mua tiên cũng được”. Và có lẽ bận tâm lớn nhất của chúng ta trong cuộc sống là kiếm tiền. Quả thực tiền bạc rất cần cho cuộc sống. Tuy nhiên Đức Giêsu cũng khuyến cáo chúng ta rằng tiền bạc rất nguy hiểm, có thể làm cho chúng ta mất Nước thiên đàng.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy xem chúng ta phải có thái độ nào đối với tiền bạc.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Lạy Chúa, lắm khi vì tiền mà chúng con phạm tội làm mất lòng Chúa.
– Lạy Chúa, lắm khi cũng vì tiền mà chúng con làm hại anh em chúng con.
– Lạy Chúa, lắm khi vì mãi lo kiếm tiền mà chúng con quên tìm kiếm Nước Chúa.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Kn 7,7-11)
Trong khi người thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu sang thì Người Công chính coi Đức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả : (1) Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu ; (2) Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp ; (3) Cùng với Đức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.
Đáp ca (Tv 89)
Thánh vịnh này thuộc loại Thánh vịnh minh triết. Mở đầu đoạn này, tác giả nhận định rằng cuộc sống của con người có giới hạn và lại đầy dẫy những ưu phiền. Từ nhận định đó, tác giả không xin Chúa cho mình sống lâu, cũng không xin cho được giàu có, mà chỉ xin cho được no say tình Chúa và vui hưởng lòng nhân hậu của Ngài.
Tin Mừng (Mc 10,17-30)
*1. Nhân vật của câu chuyện này đã gây ra hai tình cảm của Đức Giêsu đối với anh, biểu lộ qua hai ánh mắt Ngài nhìn :
– Khi biết anh đã giữ trọn các điều răn, Ngài “Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương”. Ngài còn mời gọi anh tiến cao thêm một bước nữa là đem hết tài sản bố thí cho người nghèo rồi đi theo làm môn đệ Ngài.
– Khi anh tiếc của bỏ đi, Ngài cũng tiếc anh, Ngài “nhìn chung quanh” (một cái nhìn tiếc rẽ) và thốt lên một chân lý “Những kẻ cậy dựa vào của cải thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”
*2. Sau đó Đức Giêsu dạy về sự từ bỏ :
– Muốn làm môn đệ Đức Giêsu thì phải từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Phần thưởng cho kẻ từ bỏ là :
– được lại gấp trăm ở đời này
– cùng với sự bắt bớ : nghĩa là được chia xẻ số phận của Đức Giêsu.
– và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
* Cần chú ý trong bản văn
So sánh lời Đức Giêsu kể ra những thứ phải từ bỏ (câu 29) với lời Ngài kể ra những thứ sẽ được lại gấp trăm (câu 30), ta thấy có hai điểm khác nhau :
– c 29 nói bỏ cha, mẹ ; câu 30 nói được gấp trăm về mẹ mà không kể Cha ra à Chỉ có một Cha trên trời là đủ tất cả.
– c 30 có kể thêm “cùng với sự bắt bớ” à Cộng đoàn Marcô đang bị bách hại. Trong hoàn cảnh bị bách hại như thế, người môn đệ phải bỏ rất nhiều. Nhưng bù lại họ cảm nghiệm lời Chúa nói rất đúng : dù không có nhà nhưng họ đi đến đâu cũng được đón tiếp như là nhà của mình ; họ xa cách anh chị em và con cái nhưng đi đến đâu cũng được đối xử như anh chị em
Bài đọc II (Dt 4,12-13) (Chủ đề phụ)
Tác giả giải thích giá trị soi sáng của Lời Chúa : “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ ; phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của loài người ; phơi bày tất cả mọi sự.
GỢI Ý GIẢNG
Thập giá và vinh quang
Hai người con ông Zêbêđê, tức là tông đồ Giacôbê và Gioan, đoán rằng CG sắp hoàn thành sự nghiệm của Ngài, nên đã nhờ mẹ mình dẫn đến CG để xin Chúa cho họ được 2 chỗ ưu tiên trong Chính Phủ mà họ tưởng CG sắp thành lập. Điểm đáng lưu ý là họ đến xin như thế ngay sau khi CG loan báo rằng Ngài sắp bước vào con đường Thập Giá, mà đây là lần loan báo thứ ba. Họ cũng nghe những lời loan báo ấy chứ, nhưng họ không thèm hiểu ý nghĩa của Thập Giá là gì. Đầu óc họ cứ bị thôi thúc bởi ham muốn dành cho được những ghế ưu tiên trong Nước Chúa. Thành thử CG phải nhắc họ : “Các con chẳng hiểu điều các con xin. Các con có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống và chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không ?” Họ đáp bừa : “Thưa được”. Họ có nghĩ gì đến chén đắng và đến phép rửa gì đâu. Chỉ vì mong Thầy mau chấp thuận cho nên cứ đáp bừa là Thưa được. Tóm lại họ chỉ muốn Vinh Quang chứ không hiểu Thập Giá. Thái độ ấy của 3 mẹ con khiến cho các tông đồ khác phải bực bội.
Nhưng chúng ta chớ vội trách 3 mẹ con nhà Zêbêđê ấy, bởi vì nhiều khi chúng ta cũng giống như họ thôi :
. Thí dụ như anh chàng trong câu chuyện ở trên đó, chẳng chịu khó học hành mà chỉ muốn có địa vị, có chức quyền trong xã hội, chẳng chịu khó làm việc mà chỉ muốn ăn lương như bộ trưởng.
. Nhiều người trong chúng ta không thích cần cù lao động, không cố gắng tiết kiệm, mà chỉ mơ được trúng số độc đắc. Nhiều người thèm muốn và phân bì với cảnh giàu sang của người khác, nhưng không nhớ rằng trước khi được giàu sang như vậy người ta đã phải cần cù làm ăn biết bao nhiêu năm trời.
. Đó là về việc làm ăn. Còn trong chuyện gia đình cũng vậy. Nhiều người chỉ muốn con mình ngoan, con mình giỏi, con mình tốt nhưng chẳng chịu khó giáo dục con, nhất là chẳng bao giờ để ý làm gương tốt cho con. Thế rồi khi thấy con mình hư, không được như con người khác thì rầy, thì chửi, thì đánh đập. Hết chửi mắng đánh đập con cái rồi quay ra than thân trách phận, than rằng mình vô phước.
. Và trong chuyện đạo cũng vậy. Nhiều người chỉ biết cầu xin Chúa cho mình khá giả nhưng lại không chịu khó làm ăn. Bởi vậy mà có những người ngoại đạo đã mỉa mai rằng mấy người có đạo cứ cắm đầu đọc kinh Lạy Cha xin cho chúng con lương thực hằng ngày mãi, nhưng chờ xem Chúa có cho họ hay không ! Có người chỉ biết có khoanh tay cầu xin như vậy, rồi khi túng thiếu thì cằn nhằn trách móc Chúa sao mình xin mãi mà Chúa không nhậm lời.
Những ước muốn của chúng ta cũng giống như những ước muốn của 3 mẹ con Zêbêđê : những lời cầu nguyện của chúng ta cũng giống như những lời xin của họ. Ước muốn suông, cầu nguyện suông thì không bao giờ đạt được. CG đã từ chối với 3 mẹ con ấy, rằng “Việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì Thầy không có quyền cho”. Nghĩa là CG không muốn ban ơn cho những kẻ làm biếng, những người không dám chịu gian khổ. Ơn Chúa và vinh quang Chúa chỉ ban cho những kẻ trước đó đã can đảm trải qua gian nan thử thách. Chính bản thân của CG, để có thể đến với vinh quang phục sinh thì trước phải trải qua con đường gian khổ của Thánh giá. Chúa mà còn như thế thì huống chi là loài người chúng ta : không bao giờ có con đường tắt để đến vinh quang, cũng như không bao giờ có phép lạ cho những kẻ không chịu khó vác Thánh Giá, nói cách bình dân hơn : không trồng cây thì đừng hòng ăn trái.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm vào một bài học chính : Phải qua Thập Giá thì mới có thể đến Vinh Quang, không thể đốt giai đoạn, không có con đường tắt. Bài Tin Mừng này khiến chúng ta phải xét lại đôi điều trong cuộc sống chúng ta.
Thứ nhất về lời cầu nguyện của chúng ta : Là người có đạo, chắc chắn chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Trong khi cầu nguyện chúng ta xin Chúa rất nhiều thứ : xin cho hằng ngày dùng đủ, xin cho gia đình hạnh phúc, xin cho con cái ngoan ngoãn, xin được khỏi cảnh túng thiếu, xin cho được qua một cơn tai nạn… Những lời cầu xin ấy chắc chắn là rất thành thực, rất tha thiết. Nhưng thành thật và tha thiết lắm thì cũng chỉ bằng lời cầu xin của 3 mẹ con nhà Zêbêđê là cùng. Nhưng Chúa đâu có nhận lời cầu xin của 3 mẹ con ấy. Tại sao vậy ? Đó cũng là thắc mắc mà một vài người đã đặt với tôi. Họ nói : Nhiều người không có đạo chẳng cầu xin gì hết mà vẫn giàu có, vẫn hạnh phúc, vẫn thành công ; trong khi nhiều người có đạo cầu nguyện cầu xin hoài mà cũng chẳng được gì ! Trước khi phàn nàn, trước khi bất mãn, chúng ta phải tự hỏi lại mình : phải chăng mình cũng giống như 3 mẹ con nhà Zêbêđê chỉ muốn vinh quang mà chẳng muốn gian khổ ? Phải chăng mình đã không chịu cố gắng mà chỉ mong Chúa làm phép lạ ? Phải chăng mình không trông cậy mà chỉ muốn ăn trái. Chúa không phải là một Đấng chỉ biết ban ơn, chỉ làm phép lạ, mà Chúa là Đấng vạch đường chỉ lối, đường lối đúng, đường lối tốt để ai biết đi theo thì sẽ đến được hạnh phúc vinh quang.
Và điểm thứ hai : đường lối ấy là gì ? Đó là con đường Thập giá dẫn đến vinh quang. Như vừa nói trên, chúng ta cầu nguyện nhiều, trước mỗi lần cầu nguyện chúng ta đều làm dấu Thánh Giá. Thì xin hãy nhớ trước tiên ý nghĩa của cây Thánh Giá. Trước khi mở miệng xin Chúa một điều gì thì chúng ta hãy xét mình xem chúng ta đã vách Thánh Giá chưa : thánh giá là những nỗ lực làm việc, thánh giá là trách nhiệm hằng ngày, thánh giá là phấn đấu, là mồ hôi, là gian lao cực khổ… Tay chúng ta làm dấu Thánh giá trước khi miệng chúng ta mở lời cầu xin. Nhưng nếu xét thấy chúng ta đã chưa chịu vác Thánh giá thì chúng ta cũng không nên mong những lời cầu xin của chúng ta được chấp nhận.
Hãy cố gắng vác Thánh giá trước đi, nghĩa là hãy cố gắng trước đi với những khả năng của mình – sau đó mới cầu xin, để Chúa thêm ơn bù cho những gì mà sức cố gắng của chúng ta không vươn tới được. Như vậy, mọi việc chúng ta làm đều là hợp tác giữa cố gắng của mình với ơn Chúa giúp. Và có như vậy thì mới có thể thành công.
Kho báu trên trời
Kagawa là một tín hữu Kitô Nhật Bản, khi nghe Lời Chúa phán : “Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”, ông liền bán căn nhà tiện nghi sang trọng của mình, đến khu nhà ổ chuột tồi tàn vùng Tokyo. Nơi đây ông chia sẻ của cải cho bất cứ ai cần trợ giúp, ông đi thăm nuôi tù nhân, an ủi giúp đỡ người bệnh, cấp dưỡng cho kẻ nghèo đói… Có một lần, dù lâm bệnh, ông vẫn tiếp tục rao giảng dưới cơn mưa, miệng không ngừng thốt lên : “Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa”.
Nhà thần học Wiliam Barclay đã trích dẫn những lời đầy sắc bén của Kagawa như sau : “Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Người hiện diện giữa những kẻ ăn xin. Người nằm chung với những ai bệnh hoạn. Người đứng về phía những kẻ thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa hãy đến thăm tù ngục trước khi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi dự lễ, hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh”.
*
Người thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay là một con người đạo đức. Anh đã thưa với Đức Giêsu : “Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ” (Mc.10,20). Người đã chăm chú nhìn anh và đem lòng thương mến. Người mời gọi anh tiến thêm một bước nữa : “Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta” (Mc.10,21) Trong khi người tín hữu Nhật Bản Kagawa mau mắn, vui tươi thực hiện ngay Lời Chúa thì người thanh niên lại sụ nét mặt, buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Quả thật : “Đồng tiền đi liền khúc ruột”. Có thể nói : “Tiền đã thắng tình”. Lòng ham mê của cải đã thắng tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Lòng tham đã bóp nghẹt con tim. Tình yêu của anh chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh làm điều nên làm và phải làm. Thánh Phaolô cũng có cảm nghiệm ấy khi ngài viết : “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. (Rm.7,16). Ngài cho đó là tội lỗi trong ta đã hành động, và chỉ có tin tưởng vào Đức Kitô mới giải thoát ta khỏi tình trạng ù lì đó.
Tình yêu phát sinh sức mạnh. Thánh Augustinô quả quyết : “Cứ yêu rồi làm điều gì mình muốn”. Tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì đó cụ thể cho anh em, một cái gì đó anh em đang thực sự mong đợi. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại làm ngơ trước nhu cầu cấp bách của anh em.
“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa” (Mc.10,25).
Đây là một kiểu nói Á Đông, diễn tả một việc làm rất khó. Đức Giêsu đã từng tham dự những bữa tiệc sang trọng của người biệt phái giàu có, từng ăn uống tại nhà những người thu thuế lắm tiền, từng chịu ơn những phụ nữ nhân đức nhiều của. Vậy Người chỉ lên án những ai ham mê của cải, coi đồng tiền là chúa tể, làm nô lệ cho nó, để không dám mở tay ra với anh em và quảng đại với công việc của Thiên Chúa.
*
Lạy Chúa
Có những lần lẽ ra phải cứu giúp người khác, nhưng vì ích kỷ, nên chúng con đã không làm.
Có những lần lẽ ra phải hy sinh cho anh em, nhưng vì sợ phiền hà, nên chúng con đã làm ngơ.
Có những lần lẽ ra phải bỏ tiền trợ giúp một ai đó, nhưng vì so đo tính toán, nên chúng con lại thôi.
Xin tha thứ cho chúng con, và xin đổ tràn tình yêu Chúa vào lòng chúng con, để chúng con có đủ can đảm bán tất cả những gì mình có mà mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Chuyện minh họa
Đạo một mắt
Bác sĩ A.J. Gordon kể : ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không có nguy cơ bị mù. Ông hỏi :
– Nhưng giá bao nhiêu ?
– Chữa mỗi mắt là 100 đô.
Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù loà. Rồi ông nói với bác sĩ : “Tôi chỉ chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn !”
Nhiều người vẫn cầu nguyện : “Xin mở mắt con để thấy kì công của Chúa…” Nhưng xem ra nhiều Kitô-hữu chỉ muốn Chúa mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để mà trông coi gia sản !
Những thứ tiền không mua được
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết : “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn.”
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được :
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.
Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghĩa Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có : cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã có nhận xét rằng : những người có của cải mà vào được nước Thiên Chúa, thật khó biết bao. Tin tưởng vào trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :
- Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh đừng để mình bị tiền bạc và giàu sang lôi cuốn / mà bỏ quên nhiệm vụ Tin mừng hóa mọi người nhất là những người nghèo.
- Xin cho các nhà cầm quyền trong xã hội / biết dùng tiền của do dân chúng đóng góp / để ưu tiên lo nâng cao đời sống cho phần đa số là dân nghèo.
- Xin cho những người đang lo âu hằng ngày vì phải sống trong nghèo khó túng thiếu / biết làm ăn sinh sống lương thiện / và gặp được người an ủi giúp đỡ.
- Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta, dù giàu có hay không được giàu có / cũng luôn sẵn sàng chia sẻ ít nhiều cho những người cần đến sự giúp đỡ của mình.
Chủ tế : Lạy Chúa, chúng con biết rằng sống đúng theo Lời Chúa dạy là rất khó, nhưng tin tưởng rằng nếu loài người không thể được, thì Chúa lại làm được mọi sự : xin Chúa giúp chúng con luôn sống theo tinh thần nghèo khó của Tin mừng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô…
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi Đức Giêsu dạy chúng ta xin cho có lương thực hằng ngày, điều Ngài nhắm tới không phải là chữ “lương thực”, mà là chữ “hằng ngày”. Nghĩa là chúng ta không xin lương thực cho bằng xin có tâm tình phó thác để Chúa lo cho cuộc sống vật chất của chúng ta.
– Sau Kinh Lạy Cha : “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi tính quá ham mê tiền bạc của cải đến nỗi sao lãng bổn phận với Chúa và với anh chị em…”
GIẢI TÁN
Chúng ta sắp trở về với cuộc sống bình thường. Mặc dù chúng ta phải làm lụng vất vả để kiếm tiền lo cho gia đình, tuy nhiên chúng ta hãy nhớ Lời Chúa dạy hôm nay, đừng để đồng tiền làm mê muội lương tâm chúng ta khiến chúng ta bị mất hạnh phúc Nước Trời.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
PHẢI BIẾT LỰA CHỌN– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
DẪN NHẬP
Theo tâm lý chung của con người, ai cũng thích được giầu sang phú quí, của cải dư dật, có kẻ hầu người hạ, nhưng Hội thánh muốn dùng những bài đọc hôm nay để cảnh giác chúng ta : của cải, sự giầu sang có thể là một trở ngại cho đời môn đệ. Cần phải biết cách làm chủ chúng, và chấp nhận sự hy sinh trong việc sử dụng. Tuy nhiên, so với những hy sinh mà đời môn đệ phải có thì phần thưởng được ban cho đời môn đệ thật vô cùng lớn lao.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc một chàng thanh niên giầu có đến xin Đức Giêsu chỉ bảo cho cách thức để chiếm được gia nghiệp đời đời và đi theo Ngài. Đức Giêsu liền đưa ra cho anh một điều kiện tiên quyết là phải bán hết của cải mà phân phát cho người nghèo khó, rồi đến làm môn đệ Ngài. Nhưng tiếc thay, anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta quá dính bén với của cải vật chất.
Nhân dịp này, Đức Giêsu khuyên các môn đệ phải có tinh thần siêu thoát đối với của cải vật chất. Hãy dùng nó như phương tiện chứ đừng tôn nó lên làm chúa tể vì Chúa nói :”Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan như Salomon để biết quí trọng sự sống đời đời, biết dùng của cải vật chất cho xứng đáng và luôn có tinh thần chia sẻ với người khác.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Kn 7,7-11
Đoạn văn trích sách Khôn ngoan hôm nay ca tụng Đức Khôn ngoan và coi Đức Khôn ngoan là cao trọng hơn hết. Trong khi người thường quí trọng tiền của và sự giầu sang thì người công chính lại coi Đức Khôn ngoan là cao trọng hơn cả. Tác giả cho biết lý do :
– Khôn ngoan quí trọng hơn vàng bạc châu báu.
– Khôn ngoan quí trọng hơn sức khỏe và sắc đẹp.
-Khôn ngoan sẽ đem đến cho người công chính nhiều sự may lành.
Nhưng muốn được Đức Khôn ngoan phải kêu cầu Chúa, Người sẽ ban cho kẻ kêu xin.
+ Bài đọc 2 : Dt 4,12-13
Tác giả thư gửi tín hữu Do thái nói với chúng ta rằng : như lưỡi gươm sắc bén, Lời Chúa thâm nhập tâm can đến những chốn thẳm sâu để soi cho tâm hồn thấy được chính mình, không ảo tưởng. Lời Chúa lột tẩy những sai trái của con người, không phải là để kết án, nhưng là để soi sáng và mời mọi người điều chỉnh lại bước đường của họ.
+ Bài Tin mừng : Mc 10,17-30
Bài Tin mừng được chia thành hai phần :
a) Thiện chí nửa vời: Một thanh niên muốn tiến cao trên đường nhân đức đã đến xin Đức Giêsu chỉ bảo cách thức để có thể tiến tới đường trọn lành của Nước Trời. Đức Giêsu đã chỉ dẫn cho anh :”Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta”. Nghe thế, anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều tiền của. Đức Giêsu tiếc rẻ cho anh ta, nhìn chung quanh và nói :”Những kẻ cậy dựa vào của cải khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”.
b) Bài học về sự từ bỏ : Đức Giêsu đưa ra điều kiện tiên quyết cho những người muốn làm môn đệ của Ngài là phải từ bỏ mọi sự. Ngài cũng lợi dụng hoàn cảnh này để cảnh giác các môn đệ cho khỏi quyền lực của trần gian chế ngự. Chúng kềm hãm và chặn đứng những nhiệt tình cao đẹp nhất. Chúng làm khô héo những hoài bão thanh cao nhất của những người thiện chí.
Tuy nhiên, Ngài cũng hứa phần thưởng cho những ai từ bỏ vì Nước Trời :
-Được lãi gấp trăm ở đời này.
– Cùng với sự bắt bớ : nghĩa là được chia sẻ số phận với Ngài.
– Được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Phải biết lựa chọn
KHÔN NGOAN TRONG VIỆC LỰA CHỌN.
Salomon khôn ngoan lựa chọn.
Bài đọc 1 cho chúng ta biết Salomon là một ông vua có sự khôn ngoan đặc biệt.. Ôâng đã xin Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông, ông cũng biết quí nó hơn hết mọi sự ở trên đời.
Về điểm này, Sách Các Vua quyển I (3,3-14) cho biết : khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ôâng dâng cả ngàn lễ vật lên Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện ra với ông và hỏi ông muốn xin gì ? Ôâng khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân “đông đảo”, nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe Lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi. Điều ông xin đã đẹp lòng Chúa và Chúa ban cho ông theo ý sở nguyện.
Đó mới thật là sự khôn ngoan mà phụng vụ hôm nay mượn lời Salomon khuyên nhủ chúng ta hãy ao ước và cầu xin. Đừng quí gì hơn nó vì chỉ có nó là hạnh phúc đầy đủ cho chúng ta.
Người thanh niên thiếu khôn ngoan.
a) Xin làm môn đệ Đức Giêsu.
Khi Đức Giêsu đi trên đường thì có một anh thanh niên chạy đến và sụp quì dưới chân Ngài. Có lẽ đây là một người giầu sang, có nhiều cuả cải, có địa vị trong xã hội, được nhiều người kính nể. Anh ta có đầy đủ mọi thứ để được hạnh phúc theo tiêu chuẩn thông thường của người đời.
Nhưng anh ta còn có một ước vọng cao quí hơn nữa, đó là phải làm gì để được sống đời đời làm gia nghiệp. Đức Giêsu rất ưng ý và vạch ra một số việc phải làm như “chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”. Anh ta lanh lẹ trả lời :”Tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ từ thưở nhỏ”(Mc 10,20).
Đây quả là một người ngay thẳng, có lương tâm trong sáng. Anh đã tuân giữ lề lật. Anh ta sống có kỷ cương. Đức Giêsu không phủ nhận sự thành thực của những lời anh ta nói. Ngài có cái nhìn yêu thương trìu mến đối với anh, nhưng Đức Giêsu không ngừng ở đây, Ngài nói tiếp làm cho anh ngỡ ngàng:”Anh chỉ còn thiếu có một điều là : “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho trên trời. Rồi hãy đến theo Ta”(Mc 10,21).
b) Từ chối lời mời gọi.
Khi Đức Giêsu nói những lời đó :”Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”(Mc 10,22). Anh ta không ngờ Đức Giêsu đã đưa ra một điều kiện mà anh không thể vượt qua được.
Thái độ này diễn tả rằng lời mời gọi của Đức Giêsu đã khác hẳn với ý nghĩ của anh và vượt quá sức của anh vì anh chưa sẵn sàng từ bỏ của cải, đang khi anh là người giầu có, và vì anh đã không hiểu rằng điều kiện của một cuộc sống theo Chúa là phải có sự độc lập với của cải vật chất và với những trói buộc xã hội. Đàng khác anh cũng chưa nhận ra sự giầu có trói buộc và nô lệ hóa con người cách khắt khe đến như vậy, nên anh “buồn rầu bỏ đi”.
Những khó khăn trong việc theo Chúa.
Sau khi người thanh niên bỏ đi, Đức Giêsu nhìn chung quanh nói với một giọng tiếc rẻ :”Những người giầu có vào Nước Thiên Chúa khó biết bao”(Mc 10,23).
Đây là cái nhìøn tỏ lòng thương tiếc đối với những tâm hồn đang bị của cải vật chất chi phối đến nỗi không thể vươn mình lên để vào Nước Trời được; vì thế, Chúa mới nói với các môn đệ :”Những người giầu có ở đây là những người có tiền tài, có kho tàng bảo vật, của chìm chủa nổi, động sản hay bất động sản…”. Tất cả những cái đó kìm hãm họ, không cho họ có thể vươn lên tới Nước Trời là thiên đàng.
Truyện : Đạo một mắt.
Bác sĩ A.J. Gordon kể : ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không, có nguy cơ bị mù. Ôâng hỏi :
– Nhưng giá bao nhiêu ?
– Chữa mỗi mắt là 100 đô.
Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù lòa. Rồi ông nói với bác sĩ :
– Tôi chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn !
Nhiều người vẫn cầu nguyện :”Xin mở mắt để con thấy kỳ công của Chúa…” Nhưng xem ra nhiều Kitô hữu chỉ muốn mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để trông coi gia sản !
LỰA CHỌN THIÊN CHÚA HAY TIỀN CỦA.
Người giầu có và con lạc đà.
Nghe Đức Giêsu cho biết kẻ giầu có khó vào Nước Thiên Chúa khiến các môn đệ kinh ngạc. Vì sao lại kinh ngạc ? Vì tâm trạng người Do thái đinh ninh rằng sự giầu sang là ân huệ của Thiên Chúa. Ý định của Thiên Chúa sáng tạo không phải là để giao cho con người quyền sở hữu và thống trị thế giới này, nhằm xây dựng và làm cho thế giới thêm giá trị sao (St 1,27-31) ?
Potin giải thích :”Các môn đệ càng cảm thấy sửng sốt hơn nữa vì theo cách giữ đạo thời đó, thì càng giầu càng có nhiều thuận lợi. Có tiền thì người giầu có thể dâng lễ vật cho Thiên Chúa theo Luật buộc để được xá tội, có thể dâng cúng một phần mười tài sản mà các tư tế đòi, hoặc có thể bố thí cho người nghèo… Dường như có một thỏa thuận ngầm giữa Thiên Chúa và những người giầu. Như vậy, giầu có của cải không phải là dấu chỉ của người đẹp lòng Thiên Chúa sao” (Fiches dominicales, tr 298) ?
Đức Giêsu lại bồi thêm một câu nữa làm cho các ông càng kinh ngạc :”Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa”(Mc 10,25) Chúng ta phải hiểu câu nói của Đức Giêsu như thế nào ?
Có những người nghĩ rằng : câu nói phóng đại thái quá, muốn làm dịu bớt. Thay vì chữ lạc đà, có người thay vào chữ “Giây cáp”. Người khác giữ chữ lạc đà, nhưng cho rằng cái lỗ kim phải hiểu là tên một trong các cửa thành Giêrusalem. Thực ra phải giữ nguyên cả con lạc đà lẫn lỗ kim. Trong những sách các thầy rabbi viết, cũng đã có những phóng đại như vậy, thí dụ con voi chui qua lỗ kim (sách Talmud). Đức Giêsu cũng đã có lần nói đến, khi trách người biệt phái :”Quân dẫn đàng mù quáng ! Các ngươi gạn lọc con muỗi, nhưng lại nuốt trửng con lạc đà”(Mt 23,24) ? Thực ra so sánh người giầu vào nước Trời với con lạc đà chui qua lỗ kim, không phải Chúa có ý nói người giầu vào Nước Trời khó mà thôi, mà Chúa có ý nói là việc không thể có (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr 324-325).
Đức Giêsu là một nhà giảng thuyết nổi tiếng, đã có nghệ thuật dùng những kiểu nói gây ấn tượng mạnh để dễ nhớ. Chúng ta không nên làm nhẹ những câu nói này, nại cớ là chúng nghịch lý.
Ngay trong văn chương Việt nam chúng ta, người dân quê cũng dùng những kiểu nói ví von phóng đại và nghịch lý tương tự như Đức Giêsu đã nói. Ví dụ :
Lỗ mũi em thì tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo tơ rồng trời cho.
Hoặc câu khác nhẹ hơn :
Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em sắc như là dao cau.(Ca dao)
Nghe lời Đức Giêsu nói, các môn đệ kinh ngạc và tỏ ra thất vọng, vì sức con người yếu đuối trước sự trói buộc do tiền của vật chất gây ra, nên đã thốt lên :”Vậy thì ai có thể được cứu độ” ?
Nhưng Đức Giêsu đã khích lệ và nâng đỡ các ông đang kinh ngạc trước sự nguy hiểm của vật chất và Ngài trấn an các ông bằng cách chỉ dẫn cho các ông một chân lý căn bản là sự cần thiết của ơn Chúa :”Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”(Mc 10,27).
Chúa không lên án người giầu có.
Thực ra, Đức Giêsu không lên án người giầu co,ù cũng không chúc lành cho người nghèo. Những người “đàn bà thánh thiện”đi theo Chúa, họ là những người giầu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án. Cũng như khi Maria, em của Marta và chị của Lazarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng). Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38; Mc 14,3-9), hay những người thu thuế có tiền (Lc 19,1-10). Vậy Chúa lên án những gì ?
Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ cho tiền của. Thật khó cho người giầu có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
Tiền của cần thiết cho đời sống.
Ai cũng phải công nhận rằng : của cải cần thiết cho đời sống con người. Của cải sẽ đem lại cho con người nhiều hạnh phúc hơn. Cả Tây phươgn lẫn Đông phương đều có chung một quan niệm – “Manducare priusquam philosophare” : ăn đã rồi hãy triết lý,
-“Dĩ thực vi tiên” : cái ăn phải đứng hàng đầu,
– “Có thực mới vực được đạo”.
Tiền của cần thiết như thế nên Đức Giêsu không bao giờ lên án tiền của hay người có tiền của, tức là người giầu. Ngài biết con người phải có tiền của để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Ngài biết “đồng tiền liền khúc ruột”, cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa. Sự túng thiếu bần cùng là một sự dữ, loài người không ai muốn, thì Chúa cũng không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào.
Những nguy hại do tiền của.
Tiền của có thể gây nguy hại cho người giầu có vì tiền của có sức mạnh khống chế con người. Vì thế người ta mới nói :
Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của lò xo,
Là thước đo của lòng người,
Là nụ cười của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của người già
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân.
Người xưa cũng thường nói :”Hoàng kim hắc thế tâm nhân” :
Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm khéo tô mặt người.
Tiền bạc của cải luôn là con dao hai lưỡi : nó có thể trở nên ông chủ khắc nghiệt hay trở nên một đứa đầy tớ trung tín, tùy theo cách người ta sử dụng nó : nếu nó được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với nhân phẩm của mình; trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như cứu cánh của cuộc đời mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, nhất là giá trị thiêng liêng, tinh thần thì nó sẽ làm cho chúng ta bị phá sản về vật chất cũng như tinh thần.
Nói khác đi, tiền của tự nó vẫn tốt và giúp ích cho con người. Nó chỉ xấu và có hại khi đem xử dụng vào những mục tiêu xấu. Đúng vậy, vì tiền của mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời, có thể làm những điều bất chính, tội lỗi, nhất là vì ham mê tiền của mà quên cả Chúa, quên cả anh em, thì đó chính là thứ lạc đà đứng trước lỗ kim, đó chính là người khó vào Nước Trời.
QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA.
Đừng “bắt cá hai tay”.
Đây là một câu tục ngữ người Việt ta thường dùng. Dĩ nhiên, muốn bắt một con cá thì phải dùng cả hai tay thì mới bắt được, nhưng ở đây có ý nói : không phải là hai tay định bắt một con cá mà mỗi tay định bắt một con. Câu này thường dùng để chỉ người mưu một lúc cả hai việc, hy vọng rằng hễ hỏng việc nọ thì được việc kia.
Về vấn đề này, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo trong suốt thời gian rao giảng Tin mừng :”Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền của cùng một lúc”(x.Lc 16,13), hoặc :”Người giầu trở nên điên rồ và phi lý. Người ấy tưởng mình không cần đến Thiên Chúa nữa”(x. Lc 12,16-20). Người giầu từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giầu sang bóp nghẹt Lời Chúa (x. Mt 13,22).
Truyện : Con lừa trước sự lựa chọn.
Ông viện trưởng đại học Paris ở thế kỷ 14 đã làm một thí nghiệm như sau : Ôâng để cho một con lừa nhịn đói, nhịn khát trong mấy ngày. Sau đó, ông đưa nó đến sân ăn, ông đặt nó giữa một thùng nước và một bó cỏ non. Lừa ta tuy đói lắm nhưng hết nhìn đống cỏ này lại ngó thùng nước kia, nó lưỡng lự giữa nước và cỏ, để rồi cuối cùng kiệt lả mà chết (Cử hành Phụng vụ CN, tr 174).
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn và chọn lúc nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Hãy nhớ lại Lời Chúa đã phán :”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6,24).
Phải có tinh thần siêu thoát.
Ai muốn làm môn đệ Chúa phải có tinh thần siêu thoát đối với tiền của. Siêu thoát đây không có nghĩa là phải bỏ hết mọi sự để sống một đời sống nghèo nàn tuyệt đối như thánh Phanxicô Assisi. Phanxicô đã nghe bài giảng trong Thánh lễ có câu :”Anh chỉ còn thiếu một điều : hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta”. Phanxicô lập tức thực hiện câu Tin mừng nên đã bán hết những gì mình có, bố thí cho người nghèo và bắt đầu một đời sống theo Chúa : ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường phố vừa rung chuông vừa rao giảng Tin mừng tình thương của Chúa.
Chúa không đòi chúng ta phải sống nghèo khó tuyệt đối như thánh Phanxicô. Ngài chỉ đòi chúng ta phải có tinh thần siêu thoát đối với tiền của, không để cho của cải vật chất chi phối làm cản bước đường tiến tới sự trọn lành mà chỉ dùng của cải như bàn đạp để tiến lên, tiến tới đỉnh trọn lành và đạt tới hạnh phúc Nước Trời.
Truyện : Đứng trên của cải.
Có một người giầu có kia thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ôâng có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giầu có :”Ôâng là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không”. Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá. Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giầu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ôâng làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông :”Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải”.
Chúa Giêsu bảo chúng ta : hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau nữa.
Một phương thế Chúa dạy chúng ta là : hãy chia sẻ. Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng Chúa đòi chúng ta phải biết chia sẻ : chúng ta chia sẻ cho người khác một, Chúa sẽ trả lại cho chúng ta gấp nhiều lần.Theo kinh Hòa bình của thánh Phanxicô Assisi thì chính lúc cho đi là lúc được nhận lãnh và được lãnh nhận dồi dào, nhất là lãnh nhận ở đời sau.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
KHÔN NGOAN- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Câu chuyện chàng thanh niên giàu có tốt lành có một khởi đầu tốt đẹp. Đẹp cho đến nỗi Chúa nhìn và đem lòng yêu thương anh. Nhưng lại có một kết thúc đáng buồn. Anh thanh niên bỏ đi buồn bã vì không thể theo Chúa. Chúa Giêsu cũng buồn vì anh gắn bó với tiền bạc hơn yêu mến Chúa.
Câu chuyện người thanh niên có thể là câu chuyện của mỗi người. Cũng như chàng thanh niên, bình thường ta giữ đạo rất dễ dàng. Sáng đi lễ, chiều đọc kinh, không làm điều gì gian ác, không bất công tham lam của người khác. Nhưng khi gặp mâu thuẫn giữa cuộc sống với việc đạo, phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những giá trị trần gian, nhiều khi ta nao núng và rất nhiều người đã vì những giá trị trần gian mà bỏ Chúa. Có những người khi còn nghèo túng thì giữ đạo rất tốt. Nhưng khi đứng trước những cám dỗ của tiền của thì vì ham mê tiền của mà sống gian dối, đánh mất lương tâm Công giáo. Có những người khi còn nhỏ thì rất ngoan ngoãn đạo đức, nhưng khi đến tuổi trưởng thành thì vì thú vui mà bỏ quên việc đạo. Nhưng nhất là có những người vốn con nhà đạo gốc rất sốt sắng, nhưng khi gặp cám dỗ về chức quyền thì vì một chút danh vọng, đành bỏ Chúa, bỏ đạo.
Theo suy nghĩ của người đời, những ai tìm được tiền của, đạt được danh vọng, nay lên chức mai lên quyền, là những người tài khéo khôn ngoan. Nhưng đó chỉ là khôn ngoan nhất thời kiểu trần gian. Vì cuộc sống trần gian có hạn. Con người ai cũng phải chết. Chết rồi có ai mang theo được của cải, danh vọng, chức quyền vào thế giới bên kia đâu. Thế mà cuộc sống sau cái chết mới là quan trọng, vì là cuộc sống vĩnh cửu không bao giờ phai tàn.
Chúa muốn ta đừng gắn bó với của cải nhưng phải gắn bó với Chúa, không phải vì Chúa muốn con cái phải khổ sở, hèn hạ. Nhưng vì Chúa muốn cho ta chọn con đường khôn ngoan, để đạt tới hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu.
Ta đi đạo để chọn Chúa. Vì chọn Chúa ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với Chúa. Những cản trở có thể là tiền bạc, danh vọng, chức quyền. Những cản trở cũng có thể là một người mà ta gắn bó, một nơi mà ta không thể dứt bỏ. Những cản trở đó cũng có thể là một lòng tự ái, một sự ghen ghét, bất mãn.
Nếu ta biết bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa ta sẽ đạt được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả. Vì Chúa là hạnh phúc viên mãn. Được Chúa rồi ta sẽ không còn khao khát gì khác nữa.
Vì thế khi thánh Phêrô hỏi Chúa: Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng con sẽ được gì. Chúa đã trả lời: ai bỏ mọi sự mà theo Chúa, sẽ được gấp trăm và được sự sống vĩnh cửu.
Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng. Biết bỏ những mối lợi trước mắt để tìm những giá trị vĩnh cửu.
Như thế yêu mến Chúa là chìa khóa của sự khôn ngoan. Chọn Chúa là chọn giá trị tuyệt đối, vĩnh cửu không gì có thể so sánh được.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa chính là hạnh phúc của con. Amen.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
NGƯỜI CÔNG CHÍNH TÂN ƯỚC – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Anh Giuse Cao Hữu Minh Trí, một dự thính viên trẻ người Việt Nam, 21 tuổi, đã phát biểu trong một cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh, nơi Bộ Trưởng Bộ Truyền Thông của Tòa Thánh, Ông Paolo Ruffini, họp báo lúc 1 giờ 30 trưa ngày 14 tháng Mười để tường trình với các nhà báo về các đề tài của buổi họp sáng nay tại Thượng Hội Đồng về Người Trẻ, Đức Tin và Biện Phân Ơn Gọi.
Khi được hỏi: “Đâu là đam mê của bạn?”. Anh Trí trả lời: “Niềm say mê mang lại ý nghĩa là niềm say mê Thiên Chúa”. “Chính đam mê đối với Chúa” mới làm mọi người no thỏa. (x.Zenit 4.10).
Trang Tin mừng hôm nay kể chuyện một thanh niên đạo đức và có nhiều tiền của mà vẫn thao thức đi tìm hạnh phúc với lý tưởng hằng ấp ủ từ thưở nhỏ “phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Người trẻ khát khao tìm suối nguồn hạnh phúc.
Một thanh niên công chính, ngay thẳng, không dối gian. Một người trẻ tuổi tốt lành có thiện chí, giữ trọn các giới răn của Thiên Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời. Chàng trai thật dễ thương, khao khát muốn vươn lên, băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành. Một thiếu gia có của mà không tìm hưởng thụ, nhưng lại nuôi ước vọng cao xa hơn. Chàng trai trẻ ước mơ một vùng trời lý tưởng. Ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm bậc “Thầy nhân lành”. Gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống và thưa: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với cả tấm lòng chân thành. Người hỏi “anh có giữ các giới răn không?”. Anh đáp dứt khoát và mau lẹ : “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”.
Chúa Giêsu nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Khi biết anh đã giữ trọn các giới răn, Chúa “Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương“. Chúa thương vì thấy chàng trai trẻ thành tâm thiện chí. Chúa muốn giúp anh đi xa hơn trên con đường trọn lành, con đường tìm kiếm, con đường đòi hỏi từ bỏ và quảng đại. Chúa chỉ cho anh thấy con đường: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi“ ( Mc 10, 21 ). Đây là điều duy nhất, căn bản và cốt yếu để anh được hạnh phúc, được sự sống đời đời.
Thánh Máccô kể chuyện cách dí dỏm: “Nghe lời đó, anh ta sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” ( Mc 10, 22 ). Niềm vui lịm tắt, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21). Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời. Anh muốn hạnh phúc, muốn được sự sống đời đời nhưng lòng gắn bó với của cải vật chất đã chặn bước đường đi tới.
Có lẽ các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ ?
Chàng trai trẻ tiếc của nên bỏ đi. Chúa cũng tiếc thanh niên thiện chí. Chúa “nhìn chung quanh” và nói : “Những kẻ cậy dựa vào của cải, thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao“. Theo Chúa Giêsu, người ta không thể thờ hai chủ cùng một lúc. Kẻ có nhiều của cải thì để tâm vào của cải “kho tàng ở đâu thì lòng trí ở đó” (Lc 12,34), cho nên phải chọn: một là Thiên Chúa, hai là tiền tài (x. Lc 16,13). Lời Chúa thật “sắc bén như gươm hai lưỡi”. Người giàu thiện chí cần phải cắt những ràng buộc vật chất để vươn cao lên.
Chàng trai trẻ vui mừng và hy vọng đi tìm con đường trọn lành. Phấn khởi gặp Chúa nhưng trở về với nổi buồn.Chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ. Anh ta chỉ muốn giữ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng anh ta vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với vật chất. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.
Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có. Người trẻ sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu. Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quảng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Người.
Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc.
Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người Công Chính Cựu Ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước : bán gia tài đem bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Ngài. Đó là điều kiện nên người Công Chính Tân Ước.
Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Chúa Giêsu.
Giá trị của con người không hệ tại ở cái mình có, mà ở tại chính cái mình làm. Tất cả sự khôn ngoan và minh triết được đúc kết nới Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu và sống theo giáo huấn của Người là sự khôn ngoan của người Kitô hữu.
Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất làm họ nô lệ cho của cải và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người ta thường nói: Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Đồng tiền liền với khúc ruột. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất. Chúa Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu có như ông phú hộ tích trữ thóc lúa ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ từ bàn ăn rơi xuống mà vẫn không được (Lc 12, 16-21; 16, 19-26).Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó : “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc 12, 20). Khi các phú hộ ở dưới âm phủ, ngước mắt lên kêu : “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm”, Tổ phụ Abraham đáp lại : “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc 16, 23-25).
Con người thường bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần để nó làm chủ mình. Của cải trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.Những tiêu chuẩn mà con người hôm nay đang đặt ra để trói buộc nhau như là tiền tài, địa vị, danh vọng; thực tế, nó không thể làm cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực.
Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biết dừng lại để thưởng thức những niềm vui nhẹ nhàng trong cuộc sống. Gặp một nụ cười, ngắm một bông hoa. Thực thi một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái. Đọc một cuốn sách hay. Một cuộc trò chuyện thân mật. Một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm. Dâng một thánh lễ sốt sắng. Dự một giờ chầu sốt mến…Biết bao niềm vui an hòa mang đến hạnh phúc trong cái bình thường của đời thường. Có những người, giàu tiền bạc mà không biết vui cười, lắm của cải mà không biết yêu thương, sang trọng bề ngoài mà không có niềm vui nội tâm, thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền. Con người còn có rất nhiều niềm vui tinh thần, biết bao hạnh phúc thiêng liêng.
Chúa Giêsu không chọn những thanh niên “học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu”. Chúa chọn những thanh niên, những người lao động xem ra chẳng bảnh trai hay học thức, nhưng Chúa cần nơi họ là có “tấm lòng”, vì “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Người trẻ luôn ước mơ, luôn khao khát, luôn tìm kiếm và luôn có đủ nghị lực để vươn tới Chân Thiện Mỹ. Nhân loại sẽ không tìm thấy giải đáp nào thoả đáng hơn ngoài Chúa Giêsu Kitô, Đấng “là Con Đường, là Chân Lý và là Sự Sống” (Ga 14,6). Trong xã hội ngày nay, có biết bao cuộc vui chơi giải trí, có biết bao phong cách hào hoa, có biết bao chủ thuyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng… đang lôi cuốn giới trẻ. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một sự thật là: con người đứng trước một thế giới tương đối, hữu hạn nhưng tâm hồn lại luôn hướng về những giá trị tuyệt đối, vô biên. Đó là một mâu thuẫn lớn nhất trong con người, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nếu không có một đời sống tâm linh vững vàng thì người trẻ dễ rơi vào tình trạng chán chường, thất vọng và phản ứng nổi loạn. Ý tưởng đó được Thánh Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày Quốc Tế Giới Trẻ 1993 xác nhận: “Chỉ có Đấng tạo dựng nên tâm hồn con người mới có thể đáp ứng cách thích đáng những mong chờ mà con người mang trong mình”.
Vì thế, cần phải cầu xin cho có được sự hiểu biết để “coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan”; “Đức khôn ngoan hơn vương trượng, ngai vàng…của cải bằng không. So với đức khôn ngoan, vàng trân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn”. (Bài đọc 1). Khôn ngoan là sự giàu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Người đời thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu sang, còn người Công chính coi Ðức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả. Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp. Cùng với Ðức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ các giới răn, chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày. Amen.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
THANH NIÊN GIÀU CÓ– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Hình ảnh nổi bật nhất trong Tin mừng hôm nay là anh thanh niên giàu có. Anh rất thán phục Đức Giêsu, nên anh đã chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và thưa nhiều điều:
Điều thứ nhất anh thưa: Thầy là người nhân hậu. Chắc hẳn anh vừa thấy Chúa thương mến các trẻ em rất đặc biệt, và nhiều lần anh đã thấy Chúa cứu chữa bao nhiêu người tàn tật, đau ốm. Lòng nhân hậu của Người khiến anh xúc động cảm phục.
Điều thứ hai anh thưa với Đức Giêsu: Tôi phải làm gì để hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp? Đây là vấn đề làm anh quan tâm lo lắng rất nhiều. Nỗi khắc khoải này, không phải của riêng anh mà của chung cả nhân loại. Trước những cái chết của ông bà, cha mẹ, những người thân yêu, nhất là những cái chết của những bạn trẻ như anh, không ai có thể cầm được nước mắt. Con người đành chịu bó tay, và người ta lo sao cho mau chóng bó xác lại, đóng quan tài cho chặt, đào hố cho sâu, chôn dưới lòng đất cho chắc để khỏi phải ngửi những mùi hôi tanh thối tha. Cuộc đời con người chỉ có thế là hết ư? Thật vô lý bao nhiêu người đã kêu lên: Vô lý! Anh thanh niên đang tuổi thắc mắc, đã không chịu nổi cái vô lý đó, nên anh tìm đến với Đức Giêsu. Anh tin Người sẽ giúp anh thoát khỏi cơn khủng hoảng vô lý này. Người hỏi anh có giữ các điều răn không? Anh mau lẹ dứt khoát đáp: “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”. Anh nghĩ chắc ăn rồi: mình sẽ được sống đời đời và anh vui mừng nhìn cặp mắt đầy yêu thương của Đức Giêsu.
Không ngờ, Người lại bảo: “Anh chỉ còn thiếu một điều là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo Tôi”.
Nghe thế, niềm vui phựt tắt “Anh buồn rầu bỏ đi vì anh có nhiều của cải”.
Thật sững sờ: các môn đệ sững sờ, dân chúng sững sờ. Họ tiếc: Sao Người không chiêu mộ chàng thanh niên giàu đó làm môn đệ có phải sướng không? Còn Đức Giêsu, Người thương tiếc anh và những kẻ giàu có: “Người rảo mắt nhìn chung quanh và nói: Những người có của mà vào nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!… Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa”.
Đức Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu như ông phú hộ tích trữ thóc lúa để ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ rơi từ bàn ăn rơi xuống, vẫn không được (Lc. 12, 16-21. 16, 19-26).
Những hạng phú hộ như thế ngày nay xuất hiện khắp nơi: như Onessis nhà tỷ phú Hy lạp nổi tiếng nhất thế giới, chỉ lo ăn chơi, cưới hai bà vợ, có hai con, cả gia đình sống bất hòa, bất chính, ly dị nhau. Đứa con trai chết vì tai nạn máy bay, con gái ghen ghét bà mẹ ghẻ Jacqueline.
Ông Khasuri, nhà tỷ phú Nhật nổi tiếng thứ nhì thế giới, mỗi ngày tiêu xài 300.000 đôla. Ông mua một bức họa của Van Goh có 7 bông hoa hướng dương với giá 35 triệu đôla. Báo chí thế giới cho là một bỉ ổi đối với người nghèo. Còn bà vợ đã ly dị đòi bồi thường 2 tỷ 500 triệu đôla.
Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc. 12, 20). Khi các ông ấy ở dưới âm phủ, đã ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm” thì Abraham cũng chỉ đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc. 16, 23-25).
Tiếc thay, nếu các ông phú hộ và tỷ phú đó, khi còn sống đã biết chia sẻ cuộc sống giàu có của các ông cho những người nghèo, những người đau khổ, thì khi chết, chắc chắn các ông sẽ được những người hưởng hạnh phúc ngàn thu chia sẻ hạnh phúc của họ cho các ông rồi, đâu còn để các ông cực khổ rên xiết như vậy.
Đoạn Tin mừng Chúa nhật này chỉ cho chúng ta thấy rõ ba điều để được sống đời đời: một là giữ giới răn Chúa, hai là chia sẻ những gì ta có cho người nghèo khổ, ba là hãy đến theo Đức Giêsu.
Chàng thanh niên Phanxicô con nhà thương gia tơ lụa nổi tiếng thành Assisiô nước Ý, đã được Chúa soi sáng và cảm nghiệm sâu xa lời Chúa nói với chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng: “Anh chỉ còn thiếu một điều: Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo Tôi”. Phanxicô đã bán hết những gì mình có bố thí cho người nghèo và bắt đầu một đời sống theo Chúa: Ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường phố vừa rung chuông vừa rao giảng Tin mừng tình thương của Chúa.
Phanxicô lìa trần ngày 04/10/1226, trên môi thì thầm: khó nghèo, hòa bình, tình thương và hát bài Thánh thi ca tụng Chúa: Xin chúc tụng Ngài, Chúa con ơi, với tất cả tạo vật của Ngài …” (Những người lữ hành trên đường hy vọng, số 23.3)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời, xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ giới răn Chúa, thương yêu chia sẻ cho người nghèo khổ hơn con và nhiệt tâm loan báo Tin mừng.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
NGƯỜI TỰ DO- Lm. Hồng Phúc
“Vì anh có nhiều của cải”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai điều. Đó là tình và tiền; tình yêu phụng sự Thiên Chúa và tiền bạc nhiều khi phản lại lý tưởng Chúa.
Một thanh niên được Chúa chú ý và kêu gọi đáp lại tình yêu của Ngài. Anh vốn là người đạo đức từ thuở nhỏ. Anh nói: “Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ”. Nhưng hôm nay, Chúa kêu gọi anh tiến lên một bậc nữa, để đáp lại tình yêu của Ngài, là “bỏ, bán, bố thí” của cải và theo Ngài. Tình yêu đòi hỏi cởi bỏ để đi theo, như người vợ thương chồng, bỏ tất cả để theo chồng, “chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo”. Nhưng người thanh niên này bỏ không đành, “bỏ thì thương vương thì tội”, anh bị chi phối quá nhiều. Phúc Âm nói: “Vì anh có nhiều của cải”. Tiền đã thắng anh.
Nhân cơ hội này Chúa Giêsu đã nói về tiền của. Ngài không lên án người có của. Ngài biết “đồng tiền nối liền khúc ruột”, cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa, “có thực mới vực được đạo”. Nhưng Ngài lên án sự ham mê tiền bạc. Tiền của hay làm người ta ham mê dính bén. Tiền bạc hay làm cho lòng người ta đen bạc, khó vào Nước Thiên Đàng. Chúa phán: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa”. Câu nói ấy có nghĩa làm sao? Đây là một từ ngữ Á đông để chỉ một việc làm rất khó. Sách Talmud của Do thái cũng có một thành ngữ tương tự: “Khó như con voi chui qua lỗ kim!”
Thật ra Chúa Giêsu không lên án người giàu cũng không chúc lành cho người nghèo. Những người “đàn bà thánh thiện” đi theo Chúa, họ là những người giàu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án. Cũng như khi Maria, em của Martha và chị của Lagiarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng), Ngài không chối bỏ cử chỉ yêu mến đó. Cũng như nhiều lần, Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38; Mc 14,3-9), hay những người thâu thuế có tiền (Lc 19,1-10). Vậy, Chúa lên án sự gì?
Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ tiền của. Thật khó cho người giầu, có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó Phúc Âm mới là những người tự do, những chứng chân thật sự và quả cảm. Phaolô nói: “Chúng tôi là những kẻ được coi là không mảy may, nhưng lại được mọi sự làm sở hữu” (IICor 6,10). Và chị Thánh Têrêxa nói: “Từ khi tôi từ bỏ mọi sự, tôi sống thật hạnh phúc, tôi như được sống lại”.
Người từ bỏ tất cả được Chúa cho tất cả.
Thánh Giuse Corrodengo (1786-1842) là gương mẫu từ bỏ mọi sự, sống phó thác vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa. Mỗi ngày, tiền của người ta bố thí, còn dư bao nhiêu, người dạy đem chia sẻ cho người nghèo. Người điều khiển một cô nhi viện với 700 trẻ ở Turin (Ý). Một hôm giờ cơm đã gần đến mà nhà bếp xem ra chưa “động tĩnh” gì cả. vả lại túi tiền đã cạn. Chị nữ tu quản lý chạy vào báo động. Thánh nhân bảo: “Cứ cho các em sắp hàng vào nhà cơm như thường lệ”. Rồi ngài chạy vào nhà thờ cầu nguyện. Bỗng dưng có tiếng chuông nhà khách vang reo. Một tiểu đội lính hớt hải chạy vào thưa: “Lạy cha, tiểu đoàn chúng con đi hành quân, gọi về cho ban ẩm thực biết sẽ không về kịp… Vậy xin cha nhận của ăn chúng con đã nấu sẵn, cho các em cô nhi!”
Thánh nhân qua đời lúc 56 tuổi, sau khi đã lập hai dòng nữ Bác Ái và hai dòng nam để tiếp tục công việc. Ngài được Đức Piô XI tôn phong hiển thánh ngày 19-5-1934.
“Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm… mà không được gấp trăm ở đời này và đời sau được sự sống vĩnh cửu” (Mc 10,29-30).
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
SỰ GIÀU CÓ ĐÍCH THỰC- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã có một lần nói với nhà tỷ phú Bill Gatte rằng: “Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau”. Nhà tỷ phú trả lời rằng: “Sẽ có một ngày tôi trả lại cho thế giới những gì mà tôi đã thu lại hôm nay”. Câu trả lời này xem ra có sự tiến bộ hơn chàng thanh niên trong đoạn Tin mừng hôm nay. Anh thanh niên nghe Chúa nói liền buồn rầu bỏ đi. Nhà tỷ phú khôn ngoan trả lời rồi để đó. Ngày mai sẽ làm nhưng không phải là ngày hôm nay. Ngày mai có thể là một ngày không xa nhưng cũng có thể là một ngày rất xa, xa lắm. Điểm chung của cả hai là: đều “lắm tiền, nhiều của”. Cả hai đều làm ra tiền bằng chính mồ hôi công sức của mình. Có thể nói cả hai đều hoàn hảo về mặt đạo đức. Họ đều thành đạt trong cuộc sống. Họ đều có một vị trí tốt trong xã hội. Họ đều có cố gắng vươn lên bằng chính sức lực, trí tuệ của mình. Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu lại đề nghị anh thanh niên phải bỏ tiền ra cho người nghèo? Tại sao Đức Hồng Y lại nhắc nhở Bill Gatte phải quan tâm tới những người kém cỏi hơn mình? Họ đâu có lỗi với người nghèo? Họ đâu cản trở sự tiến bộ của người khác? Họ đâu lấy chiếc bánh của người nghèo, họ cũng không cản bước con đường thành công của người nghèo hay được lợi từ sự thiếu may mắn của người bất hạnh. Họ đâu phải chịu trách nhiệm về sự nghèo đói của những người chung quanh? Vậy đâu là điểm then chốt mà Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay?
Thưa, bởi vì cả hai đều thiếu sự chia sẻ. Họ có tất cả nhưng không có lòng quảng đại. Họ giầu có về vật chất nhưng không giầu có về tấm lòng. Sống ở đời cần có tình có nghĩa. Nghĩa và tình đều là hoa trái của sự trao ban. Tình yêu cần có sự trao ban. Ân nghĩa cần có sự đền đáp. Dòng sông luôn có bên lở bên bồi mới cải tạo lại ruộng đất, làm phong phú hoa màu. Con người sống ở đời cũng cần có tình có nghĩa mới làm phong phú cho cuộc đời và hữu ích cho tha nhân. Chính Chúa Giêsu đã nói với người thanh niên: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”
Nhưng tiếc thay, sự ích kỷ đã bóp chết con tim của anh. Anh không thể trao ban vì lòng ích kỷ của anh lớn hơn lòng quảng đại. Núi tiền của anh chất quá cao nên anh không thể nhìn thấy sự khốn cùng của tha nhân. Lòng tham của anh quá sâu nên không thể lấy ra để trao ban. Chúa đã đau xót nhìn anh bước đi trong vùng tối của cõi lòng. Anh đã tự đi vào trong sự cô đơn đầy chán chường. Con người sinh ra là để sống với đồng loại. Không ai sống một mình. Cuộc sống chung đòi hỏi phải chia sẻ, phải trao ban mới mang lại những giây phút hạnh phúc trong cuộc đời. Cuộc sống mới thi vị và đầy ý nghĩa. Anh thanh niên giàu có đã không có niềm vui của sự trao ban. Anh có tiền nhưng đồng tiền không sinh lời cho cuộc đời của anh. Anh lo cất giấu đồng tiền như cất giấu cuộc đời anh trong một thế giới rộng lớn bao la mà lòng anh vẫn cô đơn chán chường, bởi thiếu tình liên đới, chia sẻ với tha nhân. Anh không dám dùng đồng tiền mua lấy lòng nhân. Anh đã đánh mất cơ hội dùng của cải Chúa ban để mua lấy bạn hữu nước trời. Cuộc đời anh đã chết bởi thiếu giá trị sự hiện diện hữu ích cho tha nhân.
Đó chính là thảm cảnh của cuộc sống hôm nay. Người ta có tiền nhiều nhưng lại có rất ít bạn thân. Người ta dùng nhiều thời gian cho việc kiếm tiền nhưng lại rất thiếu thời gian cho thân nhân bạn bè. Người ta tìm cách sở hữu thật nhiều của cải nhưng lại ít khi trau dồi nhân cách cho bản thân. Người thời nay giỏi tìm cách mưu sinh nhưng lại không biết tạo dựng cuộc sống cho có giá trị và ý nghĩa. Người thời nay sống thọ hơn nhưng tình người lại mong manh dễ tan vỡ. Con người dường như đang vong thân, đang đánh mất ý nghĩa của cuộc đời, đang giảm dần giá trị sự hiện diện của mình giữa tha nhân, bạn bè.
Vâng, có thể khi nghe đoạn tin mừng hôm nay, nhiều người cho rằng Chúa không nói với tôi, vì tôi vẫn còn nghèo lắm! Tôi đâu có gì để cho! Chúa đang nói với người hàng xóm ích kỷ gần cạnh nhà tôi. Chúa đang nhắc nhở những người giầu có ở trong xứ đạo của tôi. Thế nên, tôi an tâm. Vì Chúa không trách cứ những người nghèo đói như tôi. Vâng, có lẽ nhiều người đã nghĩ như vậy. Có những người cả một đời chưa một lần bố thí cho một ai đó. dù chỉ là một chén cơm, một chút mắm muối gọi là “tối lửa tắt đèn có nhau”. Có những người cả một đời chỉ biết dùng đôi tay để nhận lãnh mà quên rằng đôi tay còn có khả năng để trao ban. Có những người chỉ chờ mong anh em nói tốt về mình, nhưng bản thân lại chưa một lần nói tốt cho anh em. Cuộc đời họ vẫn còn thiếu. Thiếu lòng quảng đại. Thiếu tấm lòng chia sẻ, trao ban. Họ cần phải bán đi cái tôi ích kỷ của mình để mở rộng trái tim đến với anh em. Họ cần bán đi một chút nhu cầu của bản thân để chắt chiu từng nghĩa cử tốt với tha nhân. Họ cần bán đi bản tính tự cao tự đại của mình để sống khiêm nhường với tha nhân. Có như vậy, cuộc đời họ mới thực sự có ý nghĩa. Vì giá trị sống ở đời là trở nên có ích cho đồng loại, nếu cuộc đời của chúng ta thực sự không mang lại ích lợi gì cho gia đình, cho xã hội thì cuộc sống đó có dài đến trăm năm vẫn là con số không, hay chỉ là một đời sống thực vật, vì trái tim đã không đủ cung cấp nhựa sống cho cơ thể của mình.
Ước gì mỗi nguời chúng ta luôn cảm nhận được niềm vui của sự trao ban để luôn trở nên có ích cho gia đình và xã hội. Vì sự khôn ngoan đích thực là hãy Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Amen.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
NGƯỜI GIÀU KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
Hơn gì nhau giữa một người có 30 tỷ dollars và một người có 1 tỷ dollars, khi mỗi người đều chỉ có một bụng để ăn, chỉ có 24 giờ để ăn chơi, cũng không thể ngủ quá 24 giờ một ngày, cũng chẳng thể sống quá 100 năm! “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người hỏi Đức Giêsu câu này quả là người có đầu óc, và cũng có thể được coi là người khôn ngoan.
Khôn ngoan qúy hơn vàng bạc
Đã có thời người Do Thái tự hào với lề luật của mình: thập giới là 10 lời Thiên Chúa ban cho dân, là những lời giúp dân thấy được điều hay lẽ phải để theo, điều dữ phải tránh. Thập giới đã mang lại cho dân bình an. Quả vậy, ba giới răn đầu tiên về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp con người không tin vào bất cứ thần linh nào khác; và điều này giúp con người được tự do không phải sợ hãi bất cứ uy quyền nào, vì Thiên Chúa là Đấng tối cao trổi vượt tất cả thần thánh. Thờ phượng Ngài, được Ngài yêu thương và bảo vệ, thì còn sợ ai nữa?
Tuân giữ ba giới răn về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp người ta sống an bình. Những giới răn tiếp sau, từ giới răn thứ tư đến thứ mười, giúp người ta đối xử công bình với tha nhân: bảo vệ quyền lợi của tha nhân, cũng là bảo vệ quyền lợi của chính mình, cũng là bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người. Con người có một số quyền căn bản mà người khác không được phép tước đoạt, cho dù nhân danh bất cứ điều gì chăng nữa, vì nó gắn liền với phẩm giá con người. Tôn trọng quyền lợi của người khác, và người khác tôn trọng quyền lợi của mình, làm cho xã hội an ninh, và con người sống an bình. Khôn ngoan là tuân giữ luật Thiên Chúa.
Đức Giêsu xuất hiện như một giá trị. Tin Mừng cho thấy người giầu có này truy tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp; anh ta mong muốn điều trường tồn tuy dù anh ta giầu sang nhiều của. Anh ta có mong ước tốt lành; điều này đã làm Đức Giêsu rung động. Ngài nhìn anh đem lòng yêu mến! Ngài nói: anh chỉ thiếu một điều. Đi và bán tất cả những gì anh có mà cho kẻ nghèo, rồi đến theo tôi. Đi theo Đức Giêsu, là điều khôn ngoan và giá trị hơn cả giầu sang.
Bán hết của cải mà cho người nghèo
Để có thể đi theo Đức Giêsu, phải bán những gì mình có mà cho kẻ nghèo. Nếu không dứt khoát đi theo Chúa bằng bán tất cả, thì e rằng sẽ quay đầu trở lại. Nếu không bán tất cả, khi gặp cảnh túng nghèo không có gì để ăn, phải tuốt lúa dọc đường mà ăn cho đỡ đói, anh ta sẽ quay về. Đức Giêsu cũng có lúc đói lúc khát, cũng mong cây vả bên đường cho một trái để ăn mà cũng không có. Bao nhiêu lần trong đời, Đức Giêsu đã ngủ ngoài trời. Đã bao nhiêu lần Đức Giêsu và các tông đồ đã qua đêm ở trên vườn dầu! Nếu không từ bỏ tất cả, nếu không từ bỏ tiền của, làm sao có thể theo Đức Giêsu cho được! Đức Giêsu đã sống nghèo, vì Ngài thấy giá trị của cái nghèo. Ngài cũng muốn người khác chọn lựa như Ngài. Hãy bán hết những gì anh có mà cho kẻ khó, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi đến theo tôi.
Theo Đức Giêsu là một điều gì quý hơn cả vàng bạc, mà anh thanh niên giầu có và nhiều người không hiểu được. Người ta thích tiền, nghĩ rằng tiền của có thể mang lại cho người ta nhiều điều nếu không muốn nói là tất cả: “đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, sức khỏe của tuổi già, cái đà của danh vọng, cái lọng để che thân, cán cân của công lý”. Đức Giêsu không nghĩ như vậy, Ngài lại cho rằng tiền của làm người ta khó vào Nước Trời.
Với Đức Giêsu, điều gì quý hơn tiền của? Tiền của, là điều người ta sở hữu, điều người ta có; còn nghèo là tình trạng một người không có tiền của, không coi tiền của là quan trọng. Không có gì, cũng có thể là tình trạng của một người tự do. Một người đeo đầy vàng trên tay, và một người không có gì trên tay, bàn tay nào thanh thoát và nhanh nhẹn hơn, bàn tay nào tự do hơn? Một người có của, coi trọng tiền của, phải lo giữ tiền, bất quá cũng “thủ tài chi lỗ”. Một người nghèo có cái thú và tự do của người nghèo mà người giầu không thể có được. Nếu người giầu luôn có những người ham tiền mà nghèo đeo bám để xin xỏ, cách này hay cách khác, thì người nghèo quả thật là người có cái thú tự do mà người giầu không có được.
Hãy đến theo tôi
Theo Đức Giêsu, là điều quý: không chỉ là không có gì như một lối sống thanh thoát, mà chính yếu là trở thành một thực tại cao quý hơn. Sống theo Đức Giêsu là một giá trị. Các tông đồ khi theo Chúa vẫn còn ham danh lợi, còn tranh nhau ngồi bên phải bên trái, tranh nhau “làm lớn” ngay khi thầy mới báo tin Ngài sẽ bị bắt bị giết; nhưng các tông đồ đã ra khác vì các ngài được diễm phúc sống với Đức Giêsu, sống bên một người thanh thoát với tất cả, tự do với tất cả, và phó thác tất cả cho Thiên Chúa.
Các tông đồ nhận ra thầy mình thực sự là ai, một khi các ông biết Đức Giêsu đã thực sự sống lại. Ngài là Đấng rất đặc biệt của Thiên Chúa, người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa, người được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngôn từ diễn tả về chân tướng của Đức Giêsu thời các tông đồ chưa rõ ràng; từ ngữ thông dụng để chỉ một người rất đặc biệt là tiên tri, Đấng Kitô (Đấng được xức dầu); cũng có một vài từ ngữ đặc biệt khác như con người, con người ngự bên hữu Thiên Chúa, người tôi tớ của Thiên Chúa, con chí ái của Thiên Chúa; và mãi trễ sau, công đồng chung Nicea (325) dùng từ ngữ triết học diễn tả chân tướng của Đức Giêsu: đồng bản tính với Thiên Chúa: “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”.
Thời Đức Giêsu đang tại thế, người ta khó hiểu tại sao Đức Giêsu lại đòi người nhà giầu này bỏ tất cả để theo Ngài, mặc dù thực tế các tông đồ cũng là những người đã bỏ tất cả mà theo Đức Giêsu. Với các tín hữu ngày nay, điều này dễ hiểu hơn khi người ta biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa làm người. Nếu Đức Giêsu thực là Người từ cõi trên, có nguồn gốc thần linh, thì việc đòi người ta bỏ tất cả để đi theo Ngài là điều có thể hiểu được. Các tông đồ cũng chỉ hiểu về chân tướng của Đức Giêsu khi Ngài đã từ cõi chết sống lại, khi các ngài đã được ơn Thánh Thần, và được dẫn vào sự thật trọn vẹn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tại sao con người của mọi thời đại ham thích có nhiều tiền của?
Tiền của quan trọng đến mức nào để giúp con người hạnh phúc?
Tại sao theo Đức Giêsu lại có thể giúp con người sống hạnh phúc?
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CUỘC GẶP GỠ GIỮA NGƯỜI THANH NIÊN VỚI CHÚA GIÊSU- Lm Giuse Nguyễn Thành Long
Tin mừng thuật lại nhiều cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Chúa Giêsu với một số người; nhưng có lẽ cuộc gặp gỡ với người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay để lại nhiều ấn tượng nhất nơi lòng các môn đệ và đám đông dân chúng. Vì gắn liền với lời mời gọi nên hoàn thiện của Chúa Giêsu, lời mời gọi vốn làm nên linh đạo cho nhiều dòng khổ tu và đan tu sau này.
Vậy người thanh niên trong Tin mừng là ai? Là một người giàu có, nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì anh ta là một đại gia. Là một đại gia nhưng có lối sống gương mẫu, không bồ bịch lăng nhăng, không đua đòi chưng diện. Anh rất thành tâm thiện chí tuân giữ cả 10 Giới Răn một cách nghiêm túc, không ai chê trách được điều gì. Tắt một lời, anh là người hết sức gương mẫu trong việc chu toàn các đòi hỏi của luân lý Thập Giới. Hơn thế, anh còn là một người nhiệt huyết và cầu tiến, không bằng lòng với cuộc sống hiện tại nên anh thao thức đi tìm kiếm con đường trọn lành, con đường hoàn thiện. Chính vì những đức tính đó mà anh được Chúa Giêsu đem lòng thương mến. Ngài còn muốn mời gọi anh tiến xa thêm một bước nữa trên đường hoàn thiện. Đó là đem bán tất cả của cải và đem bố thí cho người nghèo để được kho tàng trên trời, rồi đến theo Chúa Giêsu làm môn đệ của Ngài. Một lời đề nghị kép.
Thái độ đáp trả của anh trước lời mời gọi của Chúa Giêsu ra sao? Tin Mừng cho biết: “Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi”. Nếu Chúa Giêsu chỉ đề nghị anh vế sau, tức là chỉ đi theo Chúa, có lẽ anh dễ dàng quyết định được ngay. Thế nhưng vế trước mới là vấn đề đối với anh, nếu không muốn nói là vấn đề quá khó đối với anh, khó hơn cả việc giữ 10 Giới Răn. Phải chi Chúa bảo bán gia tài đem gởi ngân hàng, hoặc mua cổ phần cổ phiếu hoặc kinh doanh, hoặc là cho Chúa Giêsu mượn, hoặc là bán từ từ; hay chỉ bố thí cho người nghèo 1 phần 10 thôi như những người đạo đức Do thái, hoặc là 1 phần 2 như Giakêu, như ông bà Gioakim và Anna… rất có thể anh ta còn thực hiện được. Đàng này Chúa Giêsu lại bảo anh bán tất cả tài sản mà cha mẹ anh và chính anh đã vất vả tích lũy một đời bằng mồ hôi nước mắt, đã thế còn đem cho người nghèo hết. Một lời mời gọi mới khó làm sao!
Bởi thế, trước lời đề nghị đó, lòng nhiệt huyết và cầu tiến của anh dường như đã hoàn toàn biến mất. Và anh đã bỏ lỡ cơ hội trở thành môn đệ Chúa Giêsu, cơ hội để nên hoàn thiện. Cũng lời mời gọi đó nhưng các Tông Đồ dễ dàng bỏ mọi sự để đi theo Chúa, vì các ông thanh thoát hơn đối với những thực tại đời này. Nguyên nhân khiến anh chấp nhận mãi mãi “thiếu một điều”, đó là do chính của cải, tài sản mà anh đang có. Nói cách khác của cải vật chất đã là cản trở lớn đối với anh trên đường nên hoàn thiện. Sự cậy dựa, bám víu của anh vào của cải đã làm cho anh không dám từ bỏ để đi theo Chúa.
Chàng thanh niên ngày xưa là thế, còn con người ngày hôm nay thì sao? Giả như ngày hôm nay Chúa Giêsu đi một vòng và ngõ với các nhà tỉ phú, triệu phú, hay các đại gia một lời mời gọi tương tự như lời mà ngài đã ngõ với người thanh niên ngày xưa, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ phải hát bài “cô đơn một cõi đi về” thôi. Vì chẳng ai dám mạo hiểm làm theo lời đề nghị của Chúa đâu. Bởi lẽ chủ nghĩa hưởng thụ ngày nay còn trói buộc con người ghê gớm hơn ngày xưa nhiều nhiều lần. Từ bỏ là cả một hy sinh vô cùng khó cho con người thời đại ngày hôm nay. Thế mới hay người “giàu có” (giàu có ở đây thiết nghĩ nên hiểu là quá “ham hố”, quá “dính bén” với của cải thì đúng hơn) lọt được vào vòng chung kết trong cuộc đua dành chiếc cúp “sự sống đời đời” thì khó biết bao, như lời quả quyết của Chúa Giêsu.
Chúa biết khó, nhưng Ngài vẫn mời gọi chúng ta từ bỏ, vì Nước Trời có giá trị lớn lao vô cùng, đòi hỏi con người phải trả giá. Ngài muốn chúng ta mỗi ngày hãy sống triệt để hơn đòi hỏi của Tin mừng.
Vì chưng giữ đạo không chỉ dừng lại ở chỗ ăn ngay ở lành, chu toàn các đòi hỏi của luân lý, không làm điều xấu này điều xấu kia…mà quan trọng hơn, đó còn là tin nhận và dấn bước theo một con người, người đó là Đức Giêsu Kitô. Nói khác đi, sự hoàn thiện theo Tin Mừng hệ tại ở điều này: bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ của Ngài. Mà để theo Chúa, thì cần phải dứt khoát sống tinh thần từ bỏ, nhất là từ bỏ cái tôi ích kỷ hẹp hòi, cái tôi dính bén của mình.
Vậy câu hỏi đặt ra thay cho lời kết đó là, sự thành tâm thiện chí và lòng nhiệt huyết cầu tiến sống đời hoàn thiện nơi tôi thế nào? Đâu là những trở ngại chính khiến tôi chưa sống từ bỏ và phó thác hoàn toàn để đi theo Chúa? Người thanh niên trong Tin mừng chỉ còn thiếu một điều; còn tôi, tôi còn thiếu bao nhiêu điều nữa trên đường hoàn thiện?
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
PHÚC CHO NHỮNG AI CÓ TINH THẦN NGHÈO KHÓ- Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân
Chúng ta chú ý đoạn đầu bài Phúc Âm hôm nay là “cái ông giàu có” tới hỏi Chúa Giêsu xem phải làm gì để được sống đời đời này, đã thực hiện cặn kẽ từ nhỏ tất cả những việc tiêu cực phải giữ như: không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không chứng gian, không quịt người khác… Nhưng về phương diện tích cực chỉ có một điều duy nhất phải làm là “bán hết của cải giúp người nghèo khó rồi tới theo Chúa” (Mc 10,21) thì người ấy đã và vẫn không muốn làm. Do đó Chúa Giêsu mới tiếc cho ông ta: “Người giàu có khó vào nước thiên đàng biết bao” (Mc 10,23). Sau đó Ngài còn nói mạnh thêm: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên đàng” (Mc 10,25).
Vậy kể như là người giàu có thì không thể vào nước thiên đàng được. Điều đó đúng. Nhưng phải hiểu thế nào là giàu có? Giàu có là những người có nhiều của cải tài sản vật chất, đó là dĩ nhiên. Nhưng điều quan trọng Chúa Giêsu có ý nhấn mạnh là lòng ham ước của cải. Nói khác là sự ham hố say mê vật chất mà quên phụng sự Chúa, là sự nô lệ của cải, coi của cải vật chất là cùng đích là chúa tể. Chính tinh thần nô lệ và coi của cải vật chất là chúa tể này làm ta không còn tìm Chúa, không còn tìm hạnh phúc thiên đàng thì làm sao ta có thể được Chúa, được hạnh phúc thiên đàng. Không thể vào nước thiên đàng được, như vậy là tất nhiên, bởi không tìm không muốn chứ không phải tại Chúa không muốn cho họ vào.
Vì thế không phải chỉ những ai giàu có mà cả những kẻ nghèo xác xơ nhưng để tinh thần ham mê của cải vật chất làm quên Chúa, quên hạnh phúc thiên đàng thì cũng vẫn không thể vào nước thiên đàng được. Trái lại những ai tuy giàu có vật chất nhưng không để lòng ham hố của cải cản trở việc tìm Chúa, tìm hạnh phúc thiên đàng mà chỉ dùng của cải như phương tiện để làm những việc đó thì vẫn vào thiên đàng được. Đó chính là cái chìa khóa để người giàu vào thiên đàng. Đó chính là bí quyết làm cho người giàu có thành nghèo khó trước mặt Chúa. Đó cũng chính là điều mà Chúa Giêsu nói: “Điều loài người không làm được thì Thiên Chúa làm được” (c. 27): Sự giàu có mà trong đó con người làm chủ thì không thể, nhưng để Thiên Chúa làm chủ thì lại có thể được. Vì thế Chúa mới nói “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì nước Trời là của họ” (Mt 5,3).
Ở đây chúng ta cũng lại cần lưu ý: Việc từ bỏ của cải, nếu cần, luôn là một chứng minh của tinh thần nghèo khó bên trong. Đó cũng là cái trắc nghiệm mà Chúa Giêsu đã thử đối với cái ông giàu có trên kia: ông ta không muốn bỏ của cải gia tài mình, vậy ông không có tinh thần nghèo khó thực. Của cải giàu sang vật chất tự nó không xấu, không đáng trách. Cái xấu, cái đáng trách chính là tính ham mê, đến nô lệ của cải mà quên Chúa.
Lạy Chúa, con quyết dùng của cải vật chất mà, “mua lấy nước thiên đàng” (Lc 16,9) vì “Được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì!” (Mt 16,26)
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
TIỀN CỦA, CHIA SẺ – Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Có một người giàu có kia thường đến xưng tội với thánh Phi-líp-phê Nê-ri. Ông có nhiều tiển của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò chuyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá treo trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giàu có: “Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không?”. Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá. Bấy giờ thánh Phi-lip-phê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giàu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: “Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải”.
Câu truyện trên phần nào tương tự như câu truyện trong bài Tin Mừng. Một thanh niên giàu có đến hỏi Chúa Giêsu: làm sao vừa có được đời sống giàu sang sung sướng lại vừa được sống đời đời? Chúa thông cảm, nhìn anh một cách trìu mến, vì thấy anh là một thanh niên mà đã biết nghĩ đến đời sống trọn lành, đã biết lo lắng cho cuộc đời mai sau.
Sở dĩ anh hỏi Chúa Giêsu như vậy là vì anh muốn làm môn đệ của Chúa. Anh nghĩ anh đã giữ được sáu điều răn của Chúa rồi: không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Vậy anh còn thiếu điều gì nữa? Chúa bảo anh hãy về bán hết của cải, không phải để cất giấu dành dụm, nhưng là đem chia sẻ cho người nghèo. Đối với Chúa, đó là điều kiện cho riêng anh để được trọn lành và làm môn đệ của Ngài. Nhưng điều kiện này anh lại không chấp nhận được vì anh có nhiều của cải, nên anh buồn bã rút lui. Đại bàng muốn cất cánh lên mây xanh, nhưng đã bị xiềng xích. Của cải vật chất đã xiềng anh ta lại mất rồi. Rõ ràng giữa Chúa và của cải, giữa đời sống trọn lành và tiền của, anh đã chọn của cải, chọn tiền của.
Qua trường hợp anh thanh niên này, Chúa Giêsu nghĩ tới tất cả những người bị xiềng xích như anh, nên Chúa nói với các môn đệ: “Các con ơi, vào được nước Thiên Chúa thật khó biết bao ! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Chúa nói đến nỗi khó chung của mọi người để vào nước Thiên Chúa rồi mới nói đến nỗi khó đặc biệt của người giàu. Đây chỉ là một kiểu nói sánh ví thôi, để chỉ một việc rất khó thực hiện, như những câu nói của Việt nam: “Lấy đá vá trời”, “Tát bể đông cũng cạn”. Đây là kiểu nói nhấn mạnh để in sâu vào tâm trí người nghe và làm nổi bật nỗi khó của người giàu. Tại sao có nhiều của cải, có nhiều tiền của lại khó vào nước trời?
Ai ai cũng công nhận rằng: của cải cần thiết cho đời sống con người. Của cải sẽ đem lại cho con người nhiều hạnh phúc hơn. Cả tây phương lẫn đông phương đều có chung quan niệm: bao tử đi trước, đầu óc theo sau; có thực mới vực được đạo; hoặc cần phải ăn trước đã, kế đến mới suy tư, triết lý. Tiền của cần thiết như thế nên Chúa Giêsu không bao giờ lên án tiền của hay người có tiền của, tức là người giàu. Ngài biết con người cần phải có tiền của để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Ngài biết “đồng liền liền khúc ruột”, cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa. Sự túng thiều, bần cùng là một sự dữ, loài người không ai muốn, thì Chúa cũng không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào. Tuy nhiên, tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi: được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá của mình hơn. Trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như cứu cánh cho cuộc đời mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, nhất là những giá trị thiêng liêng, tinh thần thì nó sẽ làm cho chúng ta bị phá sản về vật chất cũng như tinh thần. Sự ham mê tiền của dễ làm cho người ta ra đen bạc, khó vào nước trời.
Nói rõ hơn, tiền của tự nó tốt và giúp ích cho con người. Nó chỉ xấu và có hại khi đem sử dụng vào những mục tiêu xấu. Đúng vậy, vì tiền của, người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền của, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác. Vì tiền của, người ta có thể chối bỏ niềm tin. Vì tiền của, người ta có thể phớt lờ luôn cả tiếng lương tâm. Vì tiền của, người ta có thể làm những điều bất chính, tội lỗi… Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào. Và người nào ham mê tiền của đến quên cả Chúa và quên cả anh em, thì đó chính là thứ lạc đà đứng trước lỗ kim, đó chính là người khó vào nước trời.
Anh thanh niên giàu có đã từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Anh không dám từ bỏ mọi sự để đi theo làm môn đệ Chúa. Tin Mừng lại cho biết: các tông đồ chính là những người đã đáp lại lời mời gọi ấy. Ông Phêrô đã nói lên điều đó như một niềm hãnh diện: “Còn chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”. Theo bản văn Tin Mừng Mác-cô thì ông Phêrô chỉ nêu lên thực trạng đó thôi, ông không đòi hỏi gì và cũng không xin xỏ gì. Nhưng trong Tin Mừng Mát-thêu thì lại cho biết ý của ông Phêrô muốn hỏi: “Vậy chúng con sẽ được cái gì?”. Vì thế, nhân dịp này Chúa đã giải đáp một thắc mắc ngấm ngầm trong lòng các môn đệ. Việc các ông tranh giành ngôi thứ với nhau chứng tỏ các ông vẫn băn khoăn về chuyện các ông sẽ được cái gì. Không riêng gì ông Phêrô hay các môn đệ mà người tín hữu nào cũng có lúc thắc mắc như thế: chúng ta đi đạo, chúng ta tin Chúa, chúng ta sẽ được cái gì?
Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cữu mai sau nữa. Một phương thế Chúa dạy là: hãy chia sẻ. Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng Chúa đòi chúng ta phải biết chia sẻ: chúng ta chia sẻ cho người khác một, Chúa sẽ trả lại cho chúng ta gấp nhiều lần hơn. Bởi vì một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa tỏa lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng. Về mặt thiêng liêng cũng thế, chúng ta cho đi chúng ta sẽ được nhận lại. Chúng ta càng chia sẻ, chúng ta càng nhận lãnh trở lại nhiều hơn, nhất là Chúa sẻ trả lại nhiều hơn cho chúng ta ở đời sau.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LẤY CỦA CẢI TẠM THỜI ĐỔI LẤY KHO TÀNG BỀN VỮNG- Lm Inhaxiô Trần Ngà
Chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay là người nhìn xa thấy rộng. Tuy có đầy đủ tiền bạc của cải nhưng tâm hồn anh luôn khắc khoải vì có một khao khát chưa được lấp đầy: khao khát được sống đời đời. Vì thế anh tìm đến với Chúa Giê-su mà anh xem như một bậc Tôn Sư lỗi lạc, “quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
Chúa Giê-su dạy anh phải giữ các giới răn. Anh đáp: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã giữ từ thuở nhỏ.
“Bấy giờ Đức Giê-su nhìn anh và đem lòng yêu mến, Ngài bảo: “Anh chỉ còn thiếu có một điều: là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi.”
Qua lời dạy nầy, Chúa Giê-su đề nghị anh đánh đổi của cải phù du đời nầy để chiếm hữu kho tàng vô giá đời sau, nhưng khi “nghe lời đó, anh sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải” (Mc 10, 17-30).
Lời đề nghị với người thanh niên giàu có năm xưa lại được Chúa Giê-su gửi đến mỗi người chúng ta hôm nay. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta phải khôn ngoan đem những của cải tạm bợ đời nầy đổi lấy kho tàng vững bền trên thiên quốc; hay nói một cách bình dân là hãy “bỏ con tép bắt con cá”, mà cá đây lại là cá voi, vì phần bỏ ra rất nhỏ nhưng phần thu lại thật lớn lao.
Phần thu lớn lao nầy đã được Chúa Giê-su xác nhận với thánh Phê-rô và các tông đồ: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng ai từ bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà không được gấp trăm và được sống đời đời” (Mc10, 29-30).
Đổi tiền giấy lấy vàng
Vào khoảng năm 1975-80, kinh tế Việt Nam gặp khủng hoảng trầm trọng, vật giá leo thang từng ngày, giá vàng nhích lên liên tục, đồng tiền mỗi ngày một mất giá. Vì thế, không ai dại dột giữ tiền trong tủ. Khi có chút ít tiền dư, người ta đua nhau sắm vàng. Kẻ có nhiều tiền thì sắm cả lượng vàng, người ít tiền thì sắm nửa chỉ hoặc một hai phân. Thế mới an lòng chắc dạ.
Đổi vàng và của cải để lấy công phúc
Những người khôn lúc đó đều có một chọn lựa sáng suốt là đổi tiền giấy lấy vàng. Thế nhưng vàng cũng không còn giá trị đối với người đã nhắm mắt xuôi tay, chẳng còn ích chi cho người đã lìa cõi thế. Do đó, một chọn lựa cũng rất sáng suốt cho chúng ta hôm nay là phải đổi tiền, đổi vàng, đổi tất cả của cải ta có đời nầy để lấy thứ “quý kim” muôn đời có giá, đó là công phúc. Ai có nhiều công phúc là có cả một kho báu trên trời không bao giờ mai một, hư hao.
Mai đây, cái chết sẽ thình lình chụp xuống. Nếu hôm nay không kịp chuyển đổi những gì ta có thành công phúc, thì lúc đó ta sẽ trở thành người tay trắng, chẳng còn gì tồn tại với mình khi bước qua thế giới bên kia. Đến lúc ấy, có hối tiếc thì cũng đã quá muộn màng!
Xét về một vài khía cạnh nào đó, mỗi người chúng ta đều là những người giàu có, không giàu của cải thì cũng giàu thời giờ, giàu sức lực, hay giàu khả năng, trí tuệ…
Thời giờ ta đang có sẽ trôi qua nhanh chóng như nước chảy qua cầu, hết phút nầy đến phút khác; Sức khỏe ta đang hưởng hôm nay cũng sẽ hao mòn theo năm tháng;
Của cải tiền bạc rồi cũng sẽ không cánh mà bay;
Khả năng làm việc cũng suy giảm dần dần…
Thế thì, tại sao ta không nhanh chóng đem những thứ “của cải tạm bợ” nầy đổi lấy thứ tài sản không bao giờ hao vơi trước khi chúng kịp bốc hơi?
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để tôn vinh Chúa và phục vụ con người. Đó là cách chuyển của cải phù du thành công đức bền vững cho mai sau.
Xin cho chúng con biết cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ… để gánh vác việc đời, để góp phần xây dựng xã hội và phục vụ mọi người. Đó là những cách biến gia sản chóng qua đời nầy thành công phúc, thành của cải không bao giờ hư nát dành cho mai sau.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
PHẦN THƯỞNG- Lm. Vũ Đình Tường
Ngày nay làm bất cứ công việc gì cũng có thưởng, kể cả đi mua hàng hóa ngoài chợ cũng có thưởng. Phần thưởng núp bóng dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở trường đơn giản đóng dấu vào tay học sinh, ở nhà thưởng cái kẹo, cuối năm tên trên bảng danh dự. Ngoài xã hội thưởng cho vé bớt giá xăng dầu, mua đủ số lần được bớt dăm ba phần trăm. Phần thưởng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta làm vì thưởng, vui nhờ được thưởng. Phần thưởng khuyến khích làm việc tích cực hơn với mục đích rõ ràng. Chúng ảnh hưởng đến tâm lí con người và thúc đẩy con người làm công việc đó. Thành công thì vui, thất bại thì buồn như thế phần hưởng ảnh hưởng đến tình cảm vui buồn của cuộc sống hàng ngày. Người giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay cũng mong được thưởng. Anh giầu có trọng luật lệ nên anh giữ trọn lề luật và hãnh diện về việc không phạm luật của mình.
Giầu có trần thế anh cảm thấy không yên tâm, vẫn thấy thiếu sao đó nên anh đến gặp Đức Kitô hỏi Ngài làm cách nào để anh được cảm thấy ấm lòng, bình yên trong tâm hồn. Đức Kitô vạch cho anh con đường bảo đảm phần thưởng trường sinh. Nghe xong anh không vui, buồn rầu bỏ đi. Đối với anh cái giá cho phần thưởng trường sinh quá lớn, lớn hơn cả gia tài. Chúng ta không biết rõ gia tài của anh giá trị ra sao, Phúc âm cho biết anh rất giầu và không muốn mất cái giầu có đó nên anh buồn rầu bỏ đi.
Trọng luật cùng nghĩa với trọng tình nghĩa. Đức Kitô có lần cho biết tất cả mọi lề luật tóm gọn trong hai điều răn đó là mến Chúa và yêu người. Người ta có thể giữ kĩ các luật, mến Chúa hết lòng nhưng lại coi thường anh em, coi nhẹ luật yêu thương. Trọng Thiên Chúa nhưng lại khinh người có khác nào tử tế với cha và xử tệ với con. Đối với Thiên Chúa ngoài mến Chúa ra luật yêu thương là luật quan trọng nhất, con người lại bỏ qua hay coi nhẹ. Anh nhà giầu coi trọng luật lệ nhưng coi nhẹ việc giúp người nghèo túng. Đức Kitô nhắc anh cần làm tốt điều đó, luật yêu thương.
Ngày nay nhiều thương gia sống theo cách thức anh nhà giầu. Thành công, nổi tiếng, tự làm chủ, không bị lệ thuộc ai là điều các thương gia đang nhắm đến. Thành công và thành danh thì cứ tiếp tục tiến bước, dại gì mà thay đổi. Con người kinh tế muốn hoàn toàn tự lập và độc lập, không muốn dưới quyền ai và không muốn bắt chước ai và cũng không cho ai bắt chước cách thức dẫn họ đến thành công. Họ có thể gia nhập nhóm thành công để tạo thêm thế lực, nhưng họ vẫn độc lập làm ăn riêng rẽ và sống cho mình. Lối suy nghĩ này trái với đường lối Phúc Âm là chung sống, chia sẽ và hỗ trợ nhau. Phúc âm kêu gọi sinh hoạt cộng đồng, cùng hy sinh, cùng nhau phục vụ bởi tất cả đều là anh chị em, đều là con cái Thiên Chúa.
Cuộc sống ảnh hưởng bởi văn hoá ta đang sống và văn hoá đó thể hiện qua cuộc sống. Anh nhà giầu sống trong văn hoá của người giầu và anh quen với lối sống đó. Bán cả gia tài phân phát cho người nghèo để sống cuộc sống nay đói, mai khát là điều anh không thể làm, không hiểu. Anh thiếu văn hoá Phúc Âm trong cuộc sống bởi văn hoá đó kêu gọi đặt trọn niềm tin vào Chúa, sống hy sinh và phục vụ. Bởi thiếu văn hoá này mà anh không thể đáp lại điều Đức Kitô mời gọi. Muốn có loại văn hoá này anh cần để Phúc âm thấm nhập vào tâm hồn và muốn được thấm nhập thì phải từ bỏ văn hoá giầu sang để chung sống, cảm thông và hiểu như cầu người mình đang phục vụ.
Đức Kitô cho biết ai trọng của cải hơn con người thì không thể làm môn đệ Ngài. Ai trọng của cải hơn sự sống thì chưa sẵn sàng phục vụ nước Trời.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÃY THEO TÔI- Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Tiền bạc có một sức mạnh kinh hồn. “Có tiền mua tiên cũng được.” Ai có thể thoát được ma lực của đồng tiền? Nhưng Đức Giêsu sẽ cho thấy có những giá trị không thể mua bằng tiền. Những giá trị cao vượt đó chỉ có thể tạo được khi thoát khỏi mọi ma lực của đồng tiền. Đó là điều rất khó hiểu. Nhưng đó cũng là sự thật.
Đồng tiền liền khúc ruột
Một hôm, có chàng thanh niên con nhà giàu đến gặp Đức Giêsu. Chàng có nhiều đức tính thật dễ thương. Khác với những bạn đồng lứa ăn chơi xa xỉ, chàng cố giữ những điều luật luân lý nghiêm nhặt. Mọi người đều nhìn vào anh như mẫu người lý tưởng. Chính Đức Giêsu cũng “đem lòng yêu mến.”(Mc 10,21) Anh chẳng thiếu thứ gì trên đời. Nhưng anh vẫn không hoàn toàn hạnh phúc. Anh thấy còn thiếu một cái gì trong cuộc đời. Anh ưu tư, khắc khoải. Bởi đó nêu thắc mắc với Đức Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10,17) Có mấy công tử bột có thể nêu được câu hỏi sâu sắc đó? Anh đã bị dằn vặt rất nhiều vì không thấy thỏa mãn hoàn toàn với những hứa hẹn vật chất. Anh tin Đức Giêsu sẽ trả lời dứt khoát và rõ ràng về vấn đề quan trọng cho cuộc đời anh.
Xưa nay anh cứ tưởng một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức. Tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất. Đời sống như thế đã quá đủ tiêu chuẩn đạt hạnh phúc. Nhưng anh không thể ngờ hạnh phúc lại vượt lên trên những tiêu chuẩn tầm thường đó. Hạnh phúc là quan tâm tới người nghèo. Quan tâm tới độ “bán những gì anh có mà cho người nghèo.” (Mc 10,21) Bán sạch. Trở nên nghèo vì người nghèo. Chính lúc nghèo như thế, “anh sẽ được một kho tàng trên trời.” (Mc 10,21) Kho tàng đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Bởi đó Đức Giêsu mới nói: “Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc 10,21) Đức Giêsu là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.” (1 Cr 1,24) “Trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết.” (Cl 2,3) Gia tài của chàng thanh niên đó là cái gì so với Đức Khôn Ngoan? Nếu biết Đức Giêsu là Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói: “Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan.” (Kn 7,8)
Chàng thanh niên là người có thiện chí, nhưng vì chưa ý thức được kho tàng khôn ngoan nơi Đức Giêsu, nên đã không thể có một lựa chọn đúng. Có lẽ anh kinh ngạc về đề nghị và mời gọi của Đức Giêsu. Anh không thể tưởng tượng có một thứ hạnh phúc ngoài tiền bạc. Để theo đuổi hạnh phúc đó, Đức Giêsu đề nghị anh dấn thân cho ngươì nghèo và mạo hiểm theo Người đi rao giảng Tin Mừng. Nhưng “nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi,” (Mc 10,22) vì trong anh đang nổi lên một cơn thất vọng và cuộc xung đột giữa hai tiêu chuẩn hạnh phúc: hạnh phúc do tiền bạc và bổn phận, hạnh phúc do từ bỏ và dấn thân.
Trước khi nói tới lời mời gọi tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cho mọi người thấy mối nguy hiểm của tiền bạc hay của cải: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10,23) Thực ra, tiền bạc không phải là một sự dữ. “Có của” không đương nhiên là xấu. Thái độ khi “có của” mới xác định giá trị con người. Giáo Hội từng có những vị thánh xuất thân tự ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stephan nước Hung. Giữa đống tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho ngươì nghèo.
Của cải chính một phúc lành của Thiên Chúa. Thực vậy, “chính phúc lành của ĐỨC CHÚA cho ta được giàu sang.” (Cn 10,22) “ĐỨC CHÚA bắt phải nghèo và cho giàu có.” (1 Sm 2,7) Người giàu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền của. Chính Đức Giêsu cũng giao du với những người giàu sang quyền quí, như Giakêu, Nicôđêmô, Máthêu v.v. Như vậy cả tiền bạc lẫn người giầu có đều không phải là đối tượng của lời nguyền rủa. Đức Giêsu muốn cho thấy cái đáng quan tâm là mối tương quan giữa con người và tiền bạc. Ưu tư quá về tiền của đến nỗi không thể dấn thân cho người nghèo và Tin Mừng là đánh mất cơ hội lớn nhất cuộc đời: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10,23)
Đòi hỏi gắt gao
Đầu óc bình thường coi đạo nào cũng như đạo nào. Nhưng Đức Giêsu muốn môn đệ phải sống trên mức đạo đức bình thường, không thể thỏa mãn với những đòi hỏi luân lý mà thôi. Chính khi vượt lên trên hạnh phúc bình thường, họ mới thấy rõ giá trị tiền bạc. Chính tiền bạc sẽ trở thành phương tiện giúp đỡ và cứu thoát những người anh em nghèo khổ khỏi cơn túng quẫn. Nếu “từ bỏ mọi sự” một cách tuyệt đối, sẽ chẳng còn phương tiện nào để làm việc bác ái. Bởi đó, đúng hơn phải nói về “tinh thần khó nghèo,” (Mt 5,3) một tinh thần cần thiết để sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, chấp nhận mọi thử thách thương đau vì hạnh phúc đồng loại. Đó là con đường làm vinh danh Thiên Chúa.
Mặc dù đã “bỏ mọi sự” theo Chúa, Phêrô cũng không chấm dứt mọi tương quan với bên nhà vợ. Chính ông đã mời Đức Giêsu vào nhà mình và xin Người chữa bà mẹ vợ mình khỏi cơn sốt (Lc 4,38-39; Mt 8,14; Mc 1,30). Mối liên hệ vẫn còn đó. Phải chăng Phêrô chưa “bỏ mọi sự”? Vậy làm sao hưởng gấp trăm? Phải chăng lời Chúa mâu thuẫn với thực tế? Mâu thuẫn vì có nhiều nhà truyền giáo sống rất nghèo khổ, bị tù đầy, đói khát, chết chóc vì Chúa thì sao? Suốt đời họ chẳng được gấp trăm, mà chỉ toàn bị “ngược đãi” (Mc 10,30). Lời Chúa được thực hiện ở đâu? Vả lại có những người không hề biết đến từ bỏ, lại được hưởng gấp trăm ngàn lần những người đã hiến thân theo Chúa.
Đúng hơn, Đức Giêsu muốn so sánh hạnh phúc tự nhiên với siêu nhiên. Thực vậy, “đời sống cộng đoàn Kitô hữu sẽ thay thế cho sự hỗ trợ và hạnh phúc gia đình cũng như của cải đã từ bỏ. Đời sống Kitô hữu “ở đời này” tràn đầy niềm vui.” (Faley 1994,661) Ngay trong bắt bớ, niềm vui đó vẫn không chấm dứt, vì phát xuất tự Thiên Chúa. Niềm vui từ của cải hay huyết tộc làm sao so sánh với niềm vui là chính Chúa? Cuộc sống hôm nay đang thiếu vắng niềm vui chân thật đó. Vì thế gian không chịu nổi sự phân rẽ của lời Chúa. “Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.” (Dt 4,12) Lời Chúa gây nhức nhối và thách đố cho lương tâm thời đại. Đúng như Chúa nói: “Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.” (Mt 10,34) Lời Chúa vẫn còn đó như một tra vấn liên tục, khiến họ không thể ngủ yên. Quả thực, “lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy,” (Dt 4,12) nghĩa là vào chỗ sâu kín nhất: lương tâm con người. Không ai có thể trốn chạy Lời Chúa. “Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa.” (Dt 4,13)
Lời Chúa hôm nay đang thúc bách chúng ta dấn thân hơn nữa vào việc xây dựng Nước Chúa, tức là đem cả nhân loại vào “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14,17) Không còn con đường nào khác ngoài việc hiến thân, từ bỏ và mạo hiểm vì Nước Trời. Cuộc mạo hiểm đầy thú vị, nhưng cũng chan chứa niềm hi vọng, vì Đức Giêsu đã quả quyết: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28,18)
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI LÀ MỤC TIÊU TỐI HẬU- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mục đích và nghĩa cuộc đời là một tiến trình tìm kiếm và khám phá đồng thời thực hiện cho tới chết, như bánh xe cuộc đời không bao giờ dừng lại. Tiến trình này cần phải rất khôn ngoan.
Chuyện kể rằng : Ngày nọ, triết gia Diogene của Hy lạp đã đến giữa chợ Athene và dựng một căn lều có treo một bảng lớn với hàng chữ như sau: “Tại đây có bán sự khôn ngoan”. Một bậc khoa cử, tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao báo, cười thầm trong bụng. Nhưng muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông sai người đầy tớ mang tiền đến dò hỏi mua cho bằng được cái mà người bán gọi là “Sự khôn ngoan”.
Người đầy tớ ra đi, làm theo lời dặn của chủ, anh đưa cho Diogene ba cắc bạc và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba cắc bạc bỏ vào túi, triết gia nói với người đầy tớ một cách long trọng như sau, hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu nầy: “Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích” .
Vị khoa bảng thành Athene vô cùng thích thú về lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà, như khuôn vàng thước ngọc, để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai qua lại trước nhà ông đều có thể đọc thấy câu trên.
Chàng thanh niên trong đoạn Tin Mừng hôm nay trạc tuổi từ 18 đến 35. Ý thức rõ về tôn giáo của mình với những khả năng, ước muốn, tương quan với xã hội anh đang sống. Có thể anh đã có một nghề, một công việc ổn định, đã lập gia đình, nhận thức rõ về quyền lợi, bổn phận và trách nhiệm, xứng tầm với anh. Có thể anh đã thành công về mặt xã hội, hoàn thiện bản thân qua việc tuân giữ lề luật tôn giáo. Anh cảm thấy việc xác định ý nghĩa và mục đích cuộc đời là điều khẩn thiết phải làm để định hướng cho cuộc đời anh. Những câu hỏi được đặt ra : Sống để làm gì, đâu là ý nghĩa và mục đích của đời người, cụ thể hơn anh tìm đến, gặp, hỏi Chúa Giêsu : “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời? ” (Mc 10, 17)
Tiền bạc, của cải anh đang thủ đắc xem ra không phải là sự quí nhất của con người, vì anh đã có trong tay tất cả mà chưa thỏa mãn. Có những thứ khác như văn hóa, tài năng, trí phán đoán mà người xưa gọi là Sự Khôn Ngoan, tài sản quí giá hơn mọi thứ mà con người có thể sở hữu được. Salômôn, một vị vua khôn ngoan vô tiền khoáng hậu trong giấc mơ kì diệu, đã xin Thiên Chúa ban cho mình Sự Khôn Ngoan hơn là được giàu có, ông nói : “Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không” (Kn 7,8). Chúa Giêsu chính là Đấng Khôn Ngoan, có được Chúa Giêsu là có được Thiên Chúa là nguồn mạch sự khôn ngoan.
Sự sống đời đời là điều chàng thanh niên trong Tin Mừng cũng như chúng ta ngày hôm nay đang tìm kiếm. Nhưng tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Chàng thanh niên đã chạy đến với Chúa Giêsu quỳ gối để xin Chúa chỉ cho anh việc phải làm để được sống đời đời, chứng tỏ là anh biết chắc sự giàu có của anh không làm thỏa mãn, nhất là không bảo đảm cho anh, khiến anh đi tìm kiếm một thứ hạnh phúc cao hơn, có giá trị bền vững hơn là của cải vật chất, nên anh đã tìm đến với Chúa Giêsu. Nỗ lực tìm kiếm với thiện ý là một chuyện, phấn đấu để đạt được lại là một chuyện khác.
Những cản trở như, giũ bỏ sự giàu có bên ngoài để làm giàu trong tâm hồn, từ bỏ của cải ở dưới đất để đổi lấy kho tàng trên trời là sự sống đời đời. Trước một đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu, một sự đánh đổi, một chọn lựa khó khăn, chàng thanh niên sa sầm nét mắt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mc 10, 22).
Chúa Giêsu đưa mắt nhìn theo anh với đầy vẻ luyến tiếc, thở dài và tuyên bố : “Người giầu có vào Nước Thiên Chúa thật khó biết bao… con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa” (x. Mc 10, 23-25). Các môn đệ nghe Chúa nói cảm thấy sốc vô cùng, Phêrô con người bộc trực không chịu nổi, bèn thưa : “Thưa Thày, phần chúng con đã bỏ mọi sư mà theo Thày! Chúng con sẽ được gì? ” (Mc 10, 28). Nhờ câu hỏi của Phêrô, các ông được Chúa chỉ cho thấy sự giàu có của Nước Trời khác với sự giàu có của thế gian, tài sản của Nước Trời không phải là tài sản mà thế gian tìm kiếm, sự sống đời này và đời sau, ý nghĩa và cùng đích cuộc đời.
Thiên Chúa là Đấng làm chủ vũ trụ sẽ không chịu thua lòng quảng đại của con người, Ngài sẽ trả lại cho lòng quảng đại của con người gấp trăm ngàn lân những gì họ đã quảng đại với Chúa và với anh em: “Ai bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa ruộng đất… vì Thày và vì Tin Mừng thì sẽ được trả loại gấp trăm ngay bây giờ cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu” (Mc 10, 29-30). Đó là điều không phải ai cũng nhận ra, có người nhận ra nhưng ngại ngùng đáp trả, vì Chúa ban cho họ gấp trăm cùng với ngược đãi bắt bớ. Ai nhận ra và dám đánh đổi sự giàu có vật chất ở đời này để có được sự giàu có theo kiểu Chúa ban, đó là kẻ khôn ngoan.
Như chúng ta đã nói ở trên, có được Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là được chính Thiên Chúa, có Chúa là có tất cả, và điều đó quý giá hơn mọi trân châu bảo ngọc trên trần gian này, vì không có một thứ vàng bạc châu báu nào có thể sánh vì với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin phái Đức Khôn Ngoan của Ngài tới đồng lao cộng khổ với chúng con, dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan, và vâng nghe sự hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan để được sống đời đời. Amen.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
TỐT LÀNH VÀ NHÂN LÀNH- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
Chàng thanh niên (Mt 19:20) hay một thủ lãnh (Lc 18:18) được nói tới trong giai thoại này chắc hẳn là một người tốt và gương mẫu theo tiêu chuẩn Do Thái, điển hình là từ thuở nhỏ anh/ông đã giữ trọn mọi giới răn. Nếu thế, anh thực sự kiếm tìm gì khi tới gặp Đức Giêsu; nói cách khác, điều gì anh muốn diễn đạt qua câu nói: “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”? Trong thâm tâm có thể anh đã ngờ ngợ rằng: tốt lành mà thôi có lẽ là chưa đủ; vì anh là người đầu tiên đã chủ động thân thưa với Đức Giêsu như người ‘Thầy nhân lành’.
Theo dõi cuộc dối thoại giữa Đức Giêsu với chàng thanh niên nọ, Kitô hữu chúng ta nhận ra một điều rất căn bản: ‘tốt / lương thiện’ và ‘nhân lành’ là hai điều hoàn toàn khác nhau; ‘tốt lành’ thuộc lãnh vực con người, lãnh vực Cựu Ước nhờ nắm giữ trọn các điều răn, còn ‘nhân lành’ hoàn toàn thuộc lãnh vực thần linh, “Không ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” như Đức Giêsu đã minh định. Biện phân này giúp ta hiểu được cái mới mẻ rất mực độc đáo của Tin Mừng.
Tất cả tùy thuộc vào việc ta hiểu ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ là thế nào: phải chăng là được lên thiêng đàng, khỏi phải sa hỏa ngục vì đã sống tốt, sống lương thiện, đạo đức hay là một điều gì khác?
‘Được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ có nghĩa là được lên Thiên Đàng; phần thứ nhất trong lời giải đáp của Đức Giêsu có vẻ như tập trung vào quan niệm phổ thông này: thiên đàng được hiểu như phần thưởng dành cho kẻ tốt / người lương thiện. Do đó chỉ cần không phạm tội là đủ để được vào thiên đàng, còn kẻ xấu sẽ không được vào; thế nhưng phân biệt xấu / tốt là lãnh vực thuần luân lý; xã hội nào thì cũng phân loại người tốt kẻ xấu, tùy vào tiêu chuần xã hội đó đề ra. Trong xã hội Do Thái thời Cựu Ước, kẻ tốt rõ ràng là người tuân giữ căn kẽ các giới răn và lề luật. Hiểu như thế thì vào thời buổi nào và ở bất cứ nơi đâu cũng đều có những người đáng lên thiên đàng cả! Nếu căn cứ theo tiêu chuẩn này, thì chàng thanh niên trong câu chuyện chắc chắn sẽ được lên thiên đàng thôi! Hơn nữa hệ luận của lối suy nghĩ này sẽ là: Tin Mừng không nhất thiết là cần, và ơn cứu chuộc của Đức Kitô là không mấy thiết yếu, và chỉ đóng vai trò hỗ trợ người ta trở nên tốt mà thôi.
‘Được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ có nghĩa là: được vào Nước Thiên Chúa; trong phần hai của câu giải đáp, hình như Đức Giêsu lại muốn triển khai khái niệm này. Người khảng định: chỉ một mình Thiên Chúa, chứ không ai khác, là ‘nhân lành’. Điều đó có nghĩa là: tự mình không một ai, dầu có tốt lành tới mấy, có thể vào được Nước Thiên Chúa. Nhân lành không thuộc lãnh vực tự nhiên, mà phải thuộc lãnh vực thần linh! Dĩ nhiên Thiên Chúa là vô cùng tốt lành, vì Ngài là chân – thiện – mỹ; điều này thì nhờ suy luận triết học con người cũng có thể biết được: Deus bonum est… Đức Giêsu đã đến trần gian không để nói về sự tốt lành hay thánh thiện này của Thiên Chúa. Điều Ngưởi muốn mạc khải là Thiên Chúa nhân ái và cứu độ! Theo Người, Nước Thiên Chúa trước hết phải là vương quốc của nhân ái thần linh; nói cách khác, sự thánh thiện đạo đức của vương quốc đó hệ tại ở ‘nhân lành của từ ái xót thương’, chứ không phải ‘tốt lành của luân lý’.
Chàng thanh niên tuy có tốt lành thánh thiện theo tiêu chuẩn Do Thái, nhưng chưa có lòng nhân ái của Tin Mừng. Để có thể trở nên nhân lành, Đức Giêsu đã mời gọi anh: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo… rồi hãy đến theo tôi”. Hai tiêu chuẩn chính của nhân lành Đức Giêsu đề ra là: chấp nhận Tin Mừng Đức Kitô và sống chan hòa với tha nhân; và vì thấy mình không thể đạt được hai chuẩn đó nên ‘chàng buồn rầu bỏ đi’. Các môn đệ Đức Giêsu sẽ phải học biết nhân ái Tin Mừng nhờ đi vào con đường Thập Giá theo Thầy và từ bỏ mọi sự. Như vậy ơn gọi Kitô hữu của chúng ta sẽ hệ tại ở sống Tin Mừng bác ái theo Người Thầy nhân ái, hơn là chỉ lo sống tốt – lương thiện qua việc giữ trọn các giới răn, cho dầu đó có là các điều luật thánh của Thiên Chúa hay của Hội Thánh đi nữa.
Trong tư cách linh mục, chính tôi phải sống thế nào để tất cả sẽ bảo đảm ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp’, đồng thời phải dạy giáo dân sống như thế. Đó quả là vấn đề mục vụ có tầm quan trọng bậc nhất đấy!
Lạy Cha là Đấng chân thiện mỹ, hôm nay Cha dạy cho con biết nhân ái là điều còn cao quí hơn chân thiện mỹ tới cả ngàn lần; chính nhờ Lời mạc khải của Con Một Cha con mới biết được điều quan trọng này. Xin cho con biết sống lòng nhân ái như giá trị lớn hơn hết thảy, có khả năng làm cho con nên giống Đức Kitô Con Cha. Cũng xin cho con sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh để trở nên nhân ái như Chúa Cha trên trời. Amen.
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LỜI MỜI GỌI THEO CHÚA – Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Khởi đầu Chúa nhật này, đọc sách Khôn ngoan nói về lòng yêu mến quí trọng sự khôn ngoan. Tác giả nói lên tâm tình của mình, của người nghiệm thấy rằng Khôn ngoan quí trọng hơn mọi của cải, vàng bạc châu báu ở trần gian. Nếu sánh ví Khôn ngoan với những điều quí giá nhất ở trần gian thì không có gì có thể sánh được ngay cả như vương quốc hay ngai vàng, hay như những vàng bạc đắt giá như là kim cương. Tác giả còn so sánh Khôn ngoan quí giá hơn cả sức khoẻ và sắc đẹp cũng là những điều rất quí giá trong cuộc đời. Tất cả mọi điều quí giá này của trần gian không là gì so với Khôn ngoan, bởi vì ánh sáng của Khôn ngoan thì không bao giờ tắt và nhờ Khôn ngoan thì ông sẽ có tất cả. Bài Tin mừng sau đó cũng đi theo chiều hướng này, nói đến sự chọn lựa khó khăn đặt ra cho một người giàu có. Ông đến để hỏi Chúa Giêsu phương thế để có thể đạt đến sự sống đời đời : “Thưa thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Câu hỏi cho thấy người đàn ông này là người khôn ngoan, biết đi tìm kiếm sự chỉ dạy khôn ngoan để đạt đến sự sống đời đời. Trả lời câu hỏi của ông, Chúa Giêsu đã giới thiệu cho ông các giới răn phải thi hành. Bản văn Tin mừng đã liệt kê phần lớn những điều cấm cốt yếu của mười điều răn và giới răn yêu kính cha mẹ. Người này đã có can đảm để thưa rằng ông đã thực hành các giới răn này từ thuở nhỏ. Chúng ta đang gặp một người đạo đức mẫu mực trong xã hội do thái đương thời, một người đã biết chu toàn các giới răn và mệnh lệnh Thiên Chúa với một lương tâm ngay thẳng. Chính Chúa Giêsu cũng nhìn ông với lòng trìu mến, người đã mời gọi ông cách thân mật: “Ngươi chỉ còn thiếu một điều, là hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi hãy đến và theo Ta”. Phải nhìn nhận lời mời gọi của Chúa Giêsu hơi bất ngờ đối với ông. Thế nhưng, suy cho cùng lời mời gọi của người rất triệt để và thiết thực, đặt ông đối diện với chính bản thân mình mà dường như ông không dám nhìn thẳng. Người này chỉ còn thiếu một điều cần thiết thôi, ông đã có tất cả những điều khác để nên hoàn thiện rồi, ông chỉ còn bán đi của cải để theo Chúa Giêsu để đảm nhận những công việc khác quan trọng hơn mà người muốn dành cho ông, và để chiếm hữu đượcsự sống đời đời.
Trước câu hỏi của người đàn ông này, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách nhắc lại con đường bình thường và đầy đủ để đạt tới sự sống đời đời là thực hành các giới răn theo như vẫn được nhắc nhở trong do thái giáo. Và người đàn ông này chắn hẳn vốn quen thuộc với việc thực hành những giới răn và mệnh lệnh như đã được nhắc nhở qua Lề luật Sách Thánh. Ông tỏ ra là một người ngay thẳng, biết chú tâm lắng nghe lời Chúa và điều này khiến Chúa Giêsu rất có thiện cảm với ông và cất lời mời gọi ông. Lời mời gọi này của Chúa Giêsu dành cho ông thường được giải thích là lời mời riêng cho cá nhân của ông, được kêu gọi cách đặc biệt. Người mời gọi ông bán mọi sự, cho người nghèo và đến theo người, như ở khởi đầu Tin mừng Marcô, Chúa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Đây là lời mời gọi dành riêng cho những con người có ơn gọi đặc biệt theo Chúa, không dành cho mọi người. Người mời gọi ông can đảm từ bỏ những của cải ông đang có để theo người. Đây cũng chính là cách sống của chính Chúa Giêsu đã chọn lựa làm người rao giảng lữ hành Nước Thiên Chúa qua các thành thị và làng mạc, không định cư một nơi nào cố định với đầy đủ mọi tiện nghi cho cuộc sống. Người đàn ông đầy nhiệt tình này đã không thể theo Chúa, ông không thể đáp ứng được lời mời gọi bán đi mọi của cải, phân phát cho người nghèo để theo Chúa Giêsu. Câu chuyện tiếp nối của Tin mừng sau đó giữa Chúa Giêsu và các môn đệ cho chúng ta biết bởi vì ông là người giàu có. Điều này đã khiến Chúa Giêsu phải thốt lên sự giàu có là trở ngại làm cho người ta không có đủ can đảm để theo người trọn vẹn: “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa”.
Người đàn ông này đã hụt mất ơn gọi cao cả dành cho mình. Thật đáng tiếc. Nhưng phải chăng câu chuyện này chỉ để chúng ta tiếc nuối cho một ơn gọi mất đi cách oan uổng hay còn là một bài học cho mọi người. Đàng sau bóng dáng của người do thái đạo đức này, đã biết sống trung thành ngay thẳng lề luật Môisen, thấy phác họa lên hình ảnh của những người môn đệ mới, biết theo lời mời gọi của Đấng Cứu thế, một nhà lập luật mới. Chúa Giêsu chính là Đấng mời gọi mọi người, đưa ra một lời mời gọi khẩn thiết hơn và cao trọng hơn. Những người môn đệ của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc chu toàn lề luật mà còn phải tiến thêm một bước quyết định là hãy theo Người, và lời mời gọi theo người thì cũng bao hàm những điều kiện của việc theo người là biết từ bỏ chính những gì thiết thân với mình nhất như là của cải, hay cả như là những người thân yêu ruột thịt như cha mẹ, vợ con, anh em. Điểm nhấn của lời mời gọi quyết định này không chỉ là việc bán của cải mà là chính là việc bỏ mọi sự mà theo Người, gắn bó với Người. Người đàn ông trong câu chuyện này đã bỏ đi, khiến cho mọi dự kiến bổng chốc tan vỡ, khiến cho Chúa Giêsu cũng đau buồn, và người đàn ông cũng buồn bã bỏ đi. Ông không thể từ bỏ của cải mình, hay ông đành bỏ qua lời mời gọi của Chúa Giêsu để giữ lấy của cải của mình, bởi vì khi có của cải, tâm hồn con người bị chia sẻ, không thể hoàn toàn theo Chúa được, bởi vì còn muốn giữ lại của cải cho mình. Đây chính là sự giằng co diễn ra nơi nội tâm con người: vừa muốn theo Chúa lại vừa muốn bám víu vào của cải, ngay cả để cho của cải chi phối và hướng dẫn đời sống mình. Như thế, phải chăng theo Chúa Giêsu đòi hỏi từ bỏ mọi sự, ngay cả những của cải thiết thân với chính mình. Thư Do thái nhắc nhở chúng ta là lời Chúa linh nghiệm và sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, phân rẽ linh hồn với thần trí, gân cốt với tủy não, tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn. Phải chăng lời mời gọi của Chúa Giêsu cũng đặt mỗi người chúng ta đối diện cách thẳng thắn với chính mình. Chúng ta có can đảm theo Chúa không?
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
KHO BÁU TRÊN TRỜI- Trích Logos B
Có ông phú hộ giàu có kia đến thăm người tá điền nghèo khó của mình. Khi đến nhà người tá điền, ông phú hộ thấy người tá điền cũng vừa ngồi vào bàn ăn và đang cầu nguyện tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban. Ông phú hộ nói một cách mỉa mai : “Nếu Chúa ban cho tôi một bữa ăn tồi tệ như thế này thì tôi chẳng tạ ơn Ngài làm gì !”.
Nghe thế, người tá điền nói : “Tôi thật mừng vì còn gặp được ông hôm nay, bởi vì đêm qua tôi nằm mơ thấy người giàu có nhất làng này sẽ qua đời nội trong đêm nay”. Nghe điều đó, ông phú hộ rất lo lắng vì ngoài ông ra, còn ai là người giàu có nhất làng này nữa ?
Lập tức, ông phú hộ cho mời thầy thuốc đến khám bệnh cho ông. Nhưng thầy thuốc cho biết : ông hoàn toàn khỏe mạnh. Tuy thế, đêm hôm đó, ông phú hộ vẫn trằn trọc không ngủ được vì lo âu và sợ hãi. Đến nửa đêm, có tiếng gõ cửa phòng ông phú hộ. Ông ra mở cửa thì gặp một gia nhân báo tin : “Thưa ông, người tá điền của chúng ta vừa qua đời đột ngột vì bệnh tim”. Nghe thế, ông phú hộ thở phào nhẹ nhõm vì thần chết chưa gõ cửa nhà ông.
Tuy nhiên, ngay lúc ấy, ông phú hộ chợt nghĩ ra : người giàu có nhất làng này không phải là ông ta, mà chính là người tá điền của ông ta.
Câu truyện trên nêu ra cho chúng ta câu hỏi : trên đời này, ai là người giầu có đích thực và ai là người nghèo khó thật sự ? Ông phú hộ nhiều tiền lắm bạc, nhưng lại là người nghèo khó vì những gì ông đang chiếm hữu sẽ tàn lụi và qua đi. Trái lại, người tá điền kia mới chính là người giàu có vì ông sở hữu được “kho báu trên trời” như nội dung Tin Mừng theo thánh Marcô vừa cho chúng ta biết.
Hôm nay, chúng ta được mời gọi để biết khôn ngoan phân biệt đâu là sự giàu có đích thực, đâu là sự nghèo khó thật sự để chúng ta chọn lựa và quyết tâm tìm kiếm.
Có một điều còn thiếu
Bài Tin Mừng hôm nay kể câu truyện người thanh niên tốt lành tìm đến với Chúa Giêsu để xin Ngài chỉ dạy cho biết làm thế nào để đạt được sự sống đời đời. Đó là một người thanh niên “tốt lành”, nhưng chưa phải là “trọn lành”. Anh “tốt lành” vì anh đã tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa ngay từ thuở nhỏ. Tuy nhiên, anh chưa “trọn lành” vì anh còn thiếu một điều, một điều thật đơn giản, nhưng cũng thật khó thực hiện. Chúa Giêsu phán với người thanh niên : “Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”. Trước thách đố gay go đó, người thanh niên đành thua cuộc : “Anh sụ nét mặt, buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải”.
Người thanh niên kia là người giàu có, nhưng anh đã không đủ khôn ngoan để nhận ra được sự giàu có của anh ta chỉ là hư ảo và mau qua. Chúa Giêsu đã chỉ cho anh thấy con đường khôn ngoan để tìm thấy kho báu vĩnh cửu trên trời. Đó mới là sự giàu có đích thực. Nhưng con đường để đến với kho tàng vĩnh cửu đó chính là con đường từ bỏ. Nghĩa là muốn “mua” được kho báu vĩnh cửu, phải “bán” tất cả gia tài trần thế và chia sẻ cho kẻ nghèo khó. Quả thật, đó là một thách thức lớn lao cho những ai muốn đi theo Chúa. Cái “điều còn thiếu” tưởng chừng như đơn giản nhưng lại là một thử thách khó vượt qua nếu người ta không có một sự chọn lựa can đảm và dứt khoát.
Trong mầu nhiệm cứu chuộc, Chúa Giêsu là vị Thiên Chúa vô cùng giàu có đã trở thành nghèo khó để cho con người vốn nghèo khó lại trở nên giàu có. Ngài trở thành nghèo khó khi đi vào con đường từ bỏ và nhất là, trở thành nghèo khó đến tận cùng khi từ bỏ cả mạng sống để cứu chuộc muôn người.
Con đường từ bỏ đó cũng đang mở ra để mời gọi chúng ta tiếp bước. Dĩ nhiên, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ của cải, tiền bạc hay những vật chất thiết thân trong cuộc sống. Nhưng Ngài muốn chúng ta hãy từ bỏ những gì đang làm cản trở bước chân chúng ta theo Chúa, những gì đang trói buộc chúng ta khiến chúng ta không thể vươn lên đến sự sống đời đời.
Hãy “bán” đi những tư tưởng xấu, hãy “bán” đi những đam mê nhục dục, hãy “bán” đi những tham vọng điên cuồng, để “mua” lấy kho báu vĩnh cửu trên trời. Nhất là chúng ta hãy biết “bán” đi sự tham lam ích kỷ để quảng đại chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Lúc ấy, chúng ta mới thực sự là người giàu có đúng nghĩa nhất.
Nghèo khó theo tinh thần Phúc Âm
Khi người thanh niên giàu có quay lưng bỏ đi, Chúa Giêsu đã đưa ra một nhận định : “Những người giàu có vào Nước Thiên Chúa khó biết bao”. Và Chúa giải thích rõ hơn : “Những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó vào Nước Thiên Chúa”. Điều đó cho thấy Chúa không cổ võ cho sự nghèo đói, nhưng Ngài chỉ cảnh giác mọi người : đừng coi tiền bạc của cải như là mục tiêu tối hậu của cuộc đời. Nhưng thật ra “tiền bạc là người đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu”. Chúng ta hãy coi tiền bạc của cải như phương tiện giúp chúng ta nên thánh và chia sẻ cho tha nhân. Chúng ta hãy sống tinh thần nghèo khó như lời Chúa Giêsu đã chúc phúc : “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3).
Hôm nay, trong bài đọc I, tác giả sách Khôn Ngoan đề cao sự khôn ngoan trổi vượt và đáng quý trọng hơn ngọc ngà châu báu, hơn cả sức khỏe và sắc đẹp. Vậy, sự khôn ngoan đó là gì, nếu không phải là lòng mến Chúa yêu người, là sự thánh thiện và các nhân đức, nhất là tinh thần chia sẻ bác ái ?
Sự khôn ngoan đó thể hiện qua việc chúng ta thay vì thu tích những đồng tiền vật chất, chúng ta hãy thu lượm lấy những đồng tiền nhân nghĩa ở đời này.
Ngày xưa, tại vương quốc kia, đức vua mở phiên tòa xét xử một tên tội phạm nguy hiểm. Tên tội phạm phải lãnh án tử hình : bị treo cổ. Nhưng tại vương quốc ấy có một luật lệ đặc biệt : nếu người tử tội nộp đủ 1000 đồng tiền vàng, hắn sẽ được tha bổng.
Khi người ta sắp treo cổ hắn, thì bà hoàng hậu cùng đoàn tùy tùng đi săn bắn về ngang qua đó. Bà hoàng hậu thương tình muốn bỏ tiền ra để chuộc lại mạng sống cho tên tử tội.
Nhưng gom góp tất cả tiền của bà hoàng hậu và đoàn tùy tùng, người ta cũng chỉ đếm được 997 đồng. Còn thiếu ba đồng. Luật là luật ! Nhà vua ra lệnh : “Treo cổ nó lên !”. Sợi dây thừng được tròng vào cổ tên tử tội. Nhưng đúng lúc ấy, có tiếng người la lên ở giữa đám đông : “Thử lục túi hắn xem, biết đâu đấy !”.
Người ta liền lục soát túi hắn và quả thật, họ đã tìm được 3 đồng tiền chẳng ai ngờ đến ! Thế là tên tử tội được tha bổng.
Ba đồng tiền nhỏ nhoi không ai ngờ chính là những đồng tiền thiện chí, là phần góp nhỏ bé của mỗi người vào ân sủng Chúa ban. Tuy nhiên, đó cũng còn là những đồng tiền nhân nghĩa, những đồng tiền biết cho đi, biết chia sẻ cho tha nhân. Những đồng tiền ta trao tặng có thể thật nhỏ bé đến nỗi ta không quan tâm, những đồng tiền ta cho đi đôi khi ta đã quên mất, nhưng đó lại là những đồng tiền quý giá nhất, những đồng tiền mua được cả “kho báu trên trời”.