CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN B
CHÚ GIẢI
HỌC VIỆN ĐA MINH
***
1,29: Vì ở đoạn trước, vụ trừ quỷ diễn ra trong ngày Sa-bát (x. 1,21), nên rất có thể biến cố này cũng diễn ra trong ngày Sa-bát. Từ câu này chúng ta có thể kết luận rằng: ông Si-môn và ông An-rê cùng sống trong thành Các-pha-na-um. Họ đánh cá ở biển hồ Ga-li-lê, và cùng được Đức Giêsu gọi gần đó. Hơn nữa nhà của hai môn đệ này nằm gần hội đường, vì Đức Giêsu và bốn môn đệ “liền” (euthus) đi đến nhà ông Phê-rô và An-rê.
Những khai quật khảo cổ tại Tell Hum (thuộc thành Ca-phác-na-um xưa), nằm phía tấy bắc của biển hồ Ga-li-lê, đã cho thấy có một hội đường thuộc thế kỷ thứ III, có thể được xây trên nền của một hội đường thuộc thế kỷ thứ nhất, nơi Đức Giêsu giảng dạy. Những khai quật hiện nay giữa hội đường này với biển hồ Ga-li-lê đã phát hiện ra những ngôi nhà cách bờ biển khoảng 100 mét. Các nhà khảo cổ cho rằng rất có thể nhà ông Phê-rô thuộc số những ngôi nhà đó. Điều này không chắc lắm, nhưng ít ra những giả thiết đó cũng có cơ sở xuất phát từ bản văn này.
Nhiều học giả đã lưu ý một cách lý thú rằng: tình tiết ở đây và một số tình tiết liên qua khác được kể dưới góc nhìn của ông Phê-rô. Ví dụ ta chẳng bao giờ được nghe kể về tên của người phụ nữ được chữa lành hay của vợ ông Phê-rô. Ở đây, bà ấy lại là “mẹ vợ ông Phê-rô”. Rất có thể tác giả Mác-cô được nghe kể từ chính ông Phê-rô. Tại Giáo Hội ở thành Rô-ma, độc giả của Mác-cô hẳn đã nhận biết Phê-rô bằng tên của ông, nhưng các dân khác thì chưa hẳn như vậy.
1,30-31: Ông Si-môn Phê-rô đã lập gia đình (x. 1 Cr 9,5). Câu này đã cho chúng ta điểm dừng để nhận ra sự dấn thân mãnh liệt của ông Si-môn dành cho Đức Giêsu. Ông vẫn có những vướng vúi như: nghề nghiệp, một mái nhà, đại gia đình. Ít ra là ông cũng còn có người anh và bà mẹ vợ. Dĩ nhiên ta không thể quên hình ảnh một ông Si-môn đầy sai lỗi và nông nổi. Người ngư phủ này cần học biết thế nào là một kẻ lưới người. Nhưng cái giá ông đã trả cho việc đi theo Đức Giêsu thật ý nghĩa.
Khi Đức Giêsu tiến vào nhà, Người được báo cho biết mẹ vợ ông Phê-rô bị bệnh. Bản văn nói rõ rằng bà nằm liệt giường vì sốt. Sốt như thế nào thì chẳng được kể, vì trong thế giới cổ đại, sốt dùng để chỉ bệnh tật nói chung, chứ không chỉ dùng riêng cho chứng cảm mạo.
Khi Đức Giêsu đưa tay chạm đến người phụ nữ và nâng bà dậy, cơn sốt biến mất “ngay lập tức”, không những ám chỉ hành động cứu chữa thuộc về Đức Giêsu mà còn ám chỉ hiệu quả ở phía người phụ nữ. Cơn sốt hoàn toàn biến mất, đến độ bà có thể phục vụ họ. Bà không còn chút đau yếu nào, mà lẽ thường có thể còn. Hạn từ “phục vụ” dùng ở đây giống như hạn từ mà sau này các sách Tân Ước dùng để mô tả công việc của các trợ tá (xem từ diakôneô trong tự điển).
1,32: Trong văn hóa Hip-ri, có vẻ hạn từ “chiều” (ôphia) có thể dùng để chỉ khoảng thời gian giữa hai mốc: 15 giờ (“giờ thứ 9”; x. Mt 27,46), và 18 giờ (ví dụ như trong Xh 12,6 có nói phải sát tế chiên vào “giữa các buổi chiều”). Tác giả Mác-cô đã ghi lại chi tiết cụ thể, “khi mặt trời đã lặn”, khoảng gần 18 giờ, ngày Sa-bát đã hoàn toàn chấm dứt. Có lẽ trước đó là quãng thời gian đủ để những người có mặt trong hội đường về “phao tin”. Hoặc cũng có thể người ta đợi cho ngày Sa-bát trôi qua để đưa những người thân đến với Đức Giêsu mà không sợ vi phạm luật ngày Sa-bát (x. Gr 17,21).
1,33: Câu này ra như hơi cường điệu. Nhưng hẳn có đám người rất đông, như thể “cả thành xúm lại trước cửa”. Cũng có thể lúc ấy danh Đức Giêsu đã nổi như cồn, đến nỗi nhiều người trong thành háo hức tìm đến để xem thực hư thế nào.
1,34: Vương quốc Thiên Chúa đã tự hiển lộ qua việc xua trừ ma quỷ (1,26) và chữa người phụ nữ bị sốt cao (1,36). Giờ đây sự hiển lộ ấy nhiều đến nỗi tác giả Tin Mừng không thể thuật lại cách chi tiết được.
Có một hiện tượng khá thú vị diễn ra giữa động thái của ma quỷ và phản ứng của Đức Giêsu đối với chúng. Điều đó gợi lên cho ta một vài nghi vấn. Thứ nhất, đám quỷ nói điều gì? Từ câu khẳng định ở đây (“Chúng biết Người là ai”), ta có thể kết luận rằng chúng đã gọi đúng danh tính và căn tính Đức Giêsu. Trong thư Gia-cô-bê nói rõ rằng dù chỉ bằng trí hiểu thôi, quỷ cũng tin và tuyên xưng sự hiện hữu của Thiên Chúa (x. 2,19).
Thứ đến, tại sao quỷ lại gọi danh của Đức Giêsu? Có lẽ qua việc gọi đích danh của Đức Giêsu, chúng muốn khống chế Người, vì khi ấy người ta tin rằng biết và gọi tên ai đó thì có quyền trên người ấy.
Cuối cùng, tại sao Đức Giêsu lại cấm quỷ nói? Câu trả lời gần như hệ tại ở hai lý do: (1) Quỷ không xứng đáng để tuyên tín. Chúng không được cứu nhờ niềm tin, và chúng cũng không đưa người ta đến niềm tin vào Đức Giêsu. (2) Nhưng điều quan trọng hơn chính là bối cảnh của lời tuyên xưng. Tiên vàn, sứ vụ của Đức Giêsu không phải là trừ quỷ hay chữa lành các bệnh tật. Người muốn rao giảng Tin Mừng, hầu đưa người ta đến niềm tin cứu độ, và Người muốn hoàn toàn hiến mạng trên thập giá như của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa (x. 10,45).
1,35: Ở đây câu văn thuật lại rất rõ: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy…”. Bản văn nói khi ấy còn rất sớm, trước khi mặt trời mọc. Rõ ràng, Đức Giêsu đã qua đêm tại nhà ông Phê-rô, sau khi chữa bệnh và trừ quỷ vào tối hôm trước. Dù những phép lạ của Đức Giêsu thu hút nhiều người, nhưng Người vẫn tự buộc mình đi vào “nơi cô quạnh” để cầu nguyện. Rất nhiều lần, trước khi chữa bệnh và trừ quỷ, Đức Giêsu rao giảng về triều đại Nước Thiên Chúa, sau đó Người lại tìm đến nơi cô quạnh hay “hoang vắng”. Tại những nơi này, Người có thể ý thức về thân phận con người tội lỗi và sức mạnh của Thiên Chúa.
1,36-37: Ông Si-môn đã sớm đảm đương vị thế dẫn đầu trong cả điều tốt lẫn điều xấu. Rất có thể xác định cách chắc chắn “các ông” ở đây là những ai. Có thể có cả những môn đệ khác (An-rê, Gia-cô-bê, Gio-an), nhưng cũng có thể là một số người trong đám đông đã tề tựu tại nhà ông Phê-rô, có mối tương quan với ông này, họ những mong xem nhiều phép lạ hơn. “Ít ra ông Phê-rô cũng có ý tốt; Thầy Giêsu ra như đang vuột mất những cơ hội quý báu, và ông phải đến để đưa Thầy về” (Swete, Mark, p.26).
Nhóm người tìm kiếm Đức Giêsu có thể được mô tả qua hai nét: (1) Hạn từ miêu tả việc tìm kiếm là “katadiôkô”. Đây là một hạn từ mang hàm ý rất mạnh, chúng tương tự như “tầm nã địch thù”. Từ đó có thể nói: “người ta lùng sục Người”. (2) Khi gặp thấy Đức Giêsu, họ nói: “Mọi người đang tìm Thầy”. Lời này ra như lời khiển trách. Có vẻ như họ biết rằng tốt hơn Đức Giêsu nên ở đâu và nên làm gì.
1,38: Đức Giêsu đã trả lời họ, nhưng không như lối họ mong đợi. Cụm từ “Chúng ta hãy đi” ngầm ý rằng Người không muốn theo họ quay lại với đám đông để thi thố phép lạ và trừ quỷ; đúng hơn, Người muốn những kẻ Người đã gọi đi theo Người rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Đức Giêsu cũng xác định “nơi khác” là “các làng mạc chung quanh”. Hạn từ “làng mạc” (kômopolis) chỉ có ở Mác-cô và dùng một lần duy nhất ở đây. Hạn từ này dùng để chỉ những ngôi làng nhỏ, xa xôi hẻo lánh. Rất có thể chúng là một kiểu thị trấn nhỏ, nhưng còn mang dáng dấp thôn quê. Sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu cũng cần phải dành cho những người ở đó.
Hàm ý của câu nói này là những ngôi làng xa xôi hẻo lánh không những không bị loại trừ trước lời rao giảng và đòi hỏi của Tin Mừng, mà chúng còn là mục tiêu của hành động cứu độ nơi Thiên Chúa. Vì thế, thánh Phaolô đã nói rằng Thiên Chúa ra như thích chọn những người điên dại trước mặt người đời; Người chọn những kẻ hèn kém để chế giễu chuẩn mực của con người, hầu “không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” (1 Cr 1,29). Vậy nên khi Đức Giêsu nói: “Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”, Người không có ý nói “Người chỉ chủ tâm rời khỏi thành Ca-phác-na-um (c. 35), nhưng là để thi hành sứ vụ xuất phát từ Cha”. Sứ vụ cao cả đó là tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất,, nhất là những người bị người đời lãng quên.
1,39: Địa điểm đầu tiên Đức Giêsu thường hay tiếp xức với dân chúng là hội đường. Ông Phaolô cũng thường làm như thế (x. Rm1,16). Trừ quỷ là một trong những kết quả rõ nhất của những lời Đức Giêsu rao giảng khắp trong khắp vùng Ga-li-lê. Đó là biểu hiện dễ thấy khi Triều Đại Thiên Chúa ngự trị. Nhưng đây chỉ là biểu hiện thứ yếu. Điều quan trọng, như đã thấy, Đức Giêsu không rời xa sứ điệp trọng tâm của Người. Đó là lý do tại sao Người thường rời khỏi những nơi mà Người đã từng thực hiện phép lạ và trừ quỷ. Điểm nhấn của Đức Giêsu không phải là chính những phép lạ, nhưng là việc rao giảng Tin Mừng nhằm cứu chữa con người toàn diện.

































