Lời Chúa Chúa nhật 32 Thường niên C
KẺ CHẾT SỐNG LẠI
GHHV Pio X Đa Lạt
1. Trong đoạn trước, CGS đã làm bẽ mặt người biệt phái cố ý giăng bẫy Ngài khi đề cập đến vấn đề nộp thuế cho hoàng đế César. Sau những người biệt phái, là những người không dám chất vấn Ngài nữa, các nhân vật khác bắt đầu nhập cuộc. Họ thuộc về một trong ba phái Do thái đồng thời với CGS. Đó là những người Sađđuceô, nghĩa là “con cáo của Sađoc”, thuộc chi họ Lêvi (Ez 40,46). Họ thuộc giai cấp tư tế, nhưng từ lâu họ không còn giữ đạo Do thái cách thuần túy. Nếu trung thành làm các việc phụng tự bên ngoài, họ lại rất ít quan tâm đến các giáo điều nói về niềm tin tôn giáo: vì phụng vụ đã làm họ thỏa mãn. Hoài nghi kiên quan đến tín điều, họ quả quyết “không có sự sống lại, không có thiên thần” (Cvsđ 23,8), cũng như phủ nhận bất tử tính của linh hồn (theo Josèphe Ant.jud., XVIII,1,4). Điều sau này không đúng. Trong các điều họ phủ nhận, ở đây Lc chỉ nói điều phủ nhận về sự sống lại, bởi vì họ tranh luận với CGS về điểm này.
Sự sống lại là điểm giáo lý khiến họ ly khai với người biệt phái và khi phủ nhận điều đó, họ cho mình là người giữ lại niềm tin cổ truyền của Israel. Họ công nhận sau khi chết, linh hồn vẫn còn sống trong Shéol. Niềm tin vào sự sống lại xuất hiện vào thời các sách Macabêô hoặc vào thời đại trước đó, dưới ảnh hưởng của một đời sống sâu xa hơn, của ước muốn thông hiệp chặt chẽ hơn với TC trong một thế giới tốt đẹp hơn. Sự hiện diện của những hồn ma trong Shéol không thể lấp đầy những khát vọng đó. Chỉ có sự nối kết giữa linh hồn và thể xác bên cạnh TC mới có thể làm họ thỏa mãn. Niềm hy vọng về sự sống lại được củng cố trong suốt các cuộc chiến tranh tôn giáo. Thế nhưng đối với người Sâđđucêô, đó lại là một tín điều mới và họ phủ nhận điều đó, in tuồng họ đã đồng hóa với triết lý Hy lạp.
2. CGS chia sẻ niềm xác tín của người biệt phái và dẫn chứng: thực sự có việc người chết sống lại. Đó là lý do khiến một vài người Sâđđucêô tìm cách chế diễu Ngài.
Họ bắt đầu bằng cách nại đến thế giá của Môisen mà CGS không thể nhìn nhận. Trong sách Đnl (25,5tt), luật Môisen buộc người nào đó, có anh đã cưới vợ nhưng đã chết mà không có con, phải cưới bà góa đó và sinh con thừa tự cho anh mình; đứa con đầu tiên sinh ra do sự phối ngẫu này được xem như là con đẻ của người đã quá cố, được phép nhân danh người quá cố để tiếp tục sống trong Israel. Luật này trở nên khe khắt trong trường hợp cả hai anh em cùng sống chung với nhau, những người Sâđđucêô bỏ qua chi tiết này. Vả lại, chi tiết này không nhập gì đến lập luận mà họ muốn dựa vào để bác bỏ sự sống lại.
Theo họ, việc áp dụng luật này nhất thiết chứng minh rằng: không thể có sự sống lại. Họ đưa ra trường hợp một người chết không con, sáu anh em của người này tuần tự lấy chị dâu mình rồi cũng chẳng ai có con, người thứ bảy cũng thế. Cho quá đáng trong con số 7 có mục đích cho ta thấy việc sống lại là chuyện không thể tin được.
Đến lượt người đàn bà cũng thế. Nếu có việc sống lại bà sẽ ra sao ? Ai trong 7 anh em sẽ là chồng bà ? Bởi vì không ai trong bảy người có con và tất cả đã chấp hành đúng luật Môisen, nên tất cả đều có quyền lợi đồng đều đối với bà. Quả vậy, tình cảnh thật đáng buồn cười khi người ta có một quan niệm vật chất về sự sống lại, có lẽ đó cũng là quan niệm của người biệt phái.
3. CGS bắt đầu cách bác bỏ chính ý kiến sai lầm về sự sống lại. Thật thế, người Do thái tin rằng khi sống lại người ta sẽ tiếp tục cuộc sống ở trần gian này. Tuy nhiên, họ nghĩ rằng cuộc sống này xem ra có thể làm cho họ vui thích. Một tiến sĩ luật danh tiếng đã nói: “trong ngày đó (sau khi sống lại) người đàn bà sẽ sinh con trong mọi ngày”; càng nhiều con, niềm vui của kẻ có con càng lớn lao. Điều mà người Sâđđucêô minh chứng, nhắm đến chính kiểu tin tưởng này về sự sống lại. Thế nhưng CGS lại không tin vào sự sống lại theo kiểu này. kẻ sống lại từ cõi chết không dựng vợ gả chồng và không đính hôn. Đời sống của những người sống lại không phải là sự tiếp nối đơn thuần đời sống trên trần gian.
Người sống lại không thuộc về thế giới trần thế này nữa, nhưng thuộc về một thế giới mai hậu, một thế giới mới. Viễn ảnh lịch sử trong sấm ngữ Do thái nói đến hai thời kỳ, hai thế giới, hai thời đại của thế giới: thế giới này và thế giới khác. Tiếp theo sau thời kỳ hiện tại là thời kỳ của bất công, phiền não, chết chóc, bại hoại tội lỗi, sẽ đến thời kỳ mới vô cùng tận, mọi sự độc dữ sẽ bị tiêu diệt, sự bại hoại luân lý sẽ bị xua trừ, sự vô tín sẽ bị loại bỏ, nơi đó sự công chính sẽ được biểu dương và chân lý sẽ là điều duy nhất được mến chuộng. TƯ lấy lại hình ảnh này. Con cái của thời này, của thế giới này , phải tùng phục tội lỗi và cái chết; nhưng những người được TC tuyển chọn và ban ân sủng, thuộc về thời kỳ mới này sẽ lãnh nhận đời sống vĩnh cửu và được thông phần vào sự sống lại từ cõi chết (x.Mt 12,2; Lc 16,8; 20,34; “thời kỳ này”; Lc 20,35: “thời kỳ đó”; Mc 10,30; Lc 18,30: “thời sẽ đến”; Mt 12,32: “thời tương lai”).
Hôn nhân được xử dụng trong thế giới hiện tại, bây giờ. Nhưng sẽ không cần thiết trong thời kỳ sẽ đến, vì thời đó người ta không còn phải chết nữa. Đó là sự tiếp tục truyền sinh nhân loại được hiểu ngầm như là ý nghĩa của hôn nhân (Stk 1,28). Khi đạt tới bất tử, con người không còn cần hôn nhân nữa. Người Sađđucêo đã chứng minh sai. Hôn nhân chỉ có trong một thời.
Những người của kỷ nguyên sẽ đến được bất tử vì họ giống như thiên thần. Họ hiện hữu với cách thế thiên thần. Họ được sống như vậy vì là con cái TC. Kinh thánh thường ám chỉ các thiên thần dưới danh hiệu “con TC” (x. chẳng hạn Giop 1,6; 2,1). Họ thông phần vào vinh quang của TC, vào sức mạnh và ánh sáng của Ngài (Cvsđ 12,7). Những người sống lại được dự phần vào dòng dõi TC (1Gio 3,2; Rm 8,21), vinh quang (Rm 8,18), một “thân xác thần thiêng” (1Cor 15,44). “Cũng vậy, về sự kiện kẻ chết sống lại: gieo xuống trong ô nhục, người ta sống lại trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối, người ta sống lại trong quyền năng; gieo xuống là xác khí huyết, sống lại, sống lại là xác thần thiêng” (1Cor 15,44tt). Những người sống lại không còn phải chết nữa. Những người đạo hạnh của thế giới ngoại giáo, Hy lạp, đương thời ước ao được sống hạnh phúc trong một thứ tình trạng được thần linh hóa, một đời sống không còn bị cái chết đe dọa; họ hy vọng đạt được nhờ cử hành các bí nhiệm hoặc nhờ trực quan, “tri thức”. Nhưng họ không quan niệm được một cái gì thích thú trong sự sống lại thể lý, bởi vì thân xác được coi như là một gánh nặng, một nhà tù và như vậy là mồ chôn của linh hồn. Sự sống lại có giá trị nhiều hơn sự bất tử; người chết sẽ sống lại với tư cách là hữu thể không thể bị hủy diệt và “chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cor 15,52): không phải chỉ có linh hồn sẽ sống, chính con người toàn diện với cả xác lẫn hồn sẽ có đời sống vô cùng tận.
Người sống lại đã được xét là xứng đáng với thời kỳ sẽ đến. Sự sống lại là một tặng phẩm của TC, một tặng phẩm hoàn toàn nhưng không, cũng như nước trời (2Th 1,5). Thế nhưng không phải chỉ có những người TC tuyển chọn và xét xứng đáng mới sống lại mà là tất cả mọi người, tội lỗi cũng như người công chính. Lc nhận biết niềm hy vọng này, rằng sẽ có một sự sống lại của những người công chính và bất chính (Cvsđ 24,15). Nhưng đối với những người công chính, sự sống mới là vinh quang (14,14). CGS ở đây nghĩ đến chính sự sống lại của người công chính khi Ngài nói với họ được xem như là xứng đáng với thời kỳ sẽ đến.
Các câu 37-38 mang lại, nếu không phải là bằng chứng mới, ít nhất cũng một giai đoạn mới người lời minh chứng của CGS. Đó là câu CGS trích dẫn Kinh thánh dựa trên thế giới của Môisen, mà người Sađđucêô vừa viện dẫn. Trong bộ ngũ thư, trong đoạn nói về bụi cây đang cháy (Xac 3,1tt), TC tự xưng là TC của Abraham, của Isaac và của Giacop. Ngài không phải là TC của kẻ chết, nhưng của kẻ sống. Từ hai tiền đề đó, hình như phải kết luận về sự bất tử của linh hồn hơn là sự sống lại. Có một khó khăn về nghĩa từng chữ của sách Xac, trong đó TC tự xưng là TC mà tổ phụ dân Israel đã thờ lạy. Thật là thích đáng khi nghĩ TC đã cho đoạn này một nghĩa sâu xa hơn: TC vẫn còn là TC của những ai phụng sự Ngài và hằng tiếp tục sống cho Ngài. Vậy các tổ phụ vẫn còn sống. Để từ một sự bất tử của linh hồn đến sự sống lại mà CGS chắc chắn muốn dựa vào đoạn văn này để chứng minh. Phải nại đến lòng tin tưởng của người Do thái về đời sống ở thế giới bên kia. Người công chính đi vào Shéol, ở đó họ chưa được hạnh phúc đời sống họ vì thế chưa được hoàn toàn. Đời sống của họ, nhờ vâng theo thánh ý TC, đáng được thưởng công, linh hồn họ đáng được TC đưa ra khỏi Shéol để sống đời sống mới hoàn hảo hơn. Đời sống này sẽ được ban cho họ khi sống lại; và chỉ đời sống mới này mà họ sống lại từ cõi chết. Nếu đã chết đối với loài người, thì nay họ vẫn còn sống đối với TC. TC đã sáng tạo con người bất tử, chính vì sự đố kỵ của ma quỉ mà cái chết đi vào thế gian (Kn 2,23-24). Ý định của TC không thể mãi mãi bị ngăn chận do sự can thiệp của ma quỉ: con người sẽ tìm lại được quyền bất tử của mình, được diễn tả cách đẹp đẽ trong sự sống lại.
4. Người Sâđđucêô ngượng ngùng vì lập luận của CGS. Ngài được các ký lục hiện diện ở đó hoan nghênh, dù họ là đối thủ của Ngài. Sự hoan nghênh đó vì hai lý do: họ thán phục cách CGS lập luận chống lại người Sađđucêô và minh chứng được niềm tin vào sự sống lại mà họ vẫn có; đàng khác sự thất bại mà họ vừa chịu (về vấn đề nộp thuế cho vua César) cho họ một bằng chứng mới về nguy hiểm họ gặp khi muốn bắt bẻ CGS; trong trường hợp đặc biệt này, họ muốn hoan nghênh Ngài hơn là liên minh vào một cuộc tranh luận mới sẽ làm họ bẽ mặt như những cuộc tranh luận trước.
KẾT LUẬN
Qua lời tuyên bố long trọng của CGS về sự sống lại, qua tất cả các đoạn phúc âm nói về vương quốc TC, một lần nữa tỏ ra cho ta thấy một thứ phúc âm của sự sống. Tuy nhiên, ai xác tín về sự bất tử dành cho những vị thánh sẽ được sống lại trong Chúa (Gio 11,25-26) cũng cảm thấy mình đang sở hữu trong chính mình cái bí mật của đời sống vĩnh cửu đó.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Người Sâđđucêô đến chất vấn CGS về việc người chết sống lại. Ít khi chúng ta gặp phải những người Sađđucêô này, chúng ta thường thấy các cuộc đối chất giữa CGS và những người biệt phái hơn. Thật ra nhóm Sađđucêô, môt chi tộc Do thái khác, ít hơn nhóm Biệt phái, họ kết thành giai cấp tư tế của đền thờ Giêrusalem và là một phe phái chính trị hơn là tôn giáo. Tuy nhiên họ đối lập với các người biệt phái, bởi lẽ với khuynh hướng rất bảo thủ về Israel, họ giới hạn mạc khải vào 5 cuốn sách đầu tiên trong toàn bộ Kinh thánh và phủ nhận sự sống lại của thân xác. Vậy họ đến hỏi CGS một vấn nạn liên quan đến mạc khải về sự sống lại để làm cho Ngài lúng túng.
2. Chính vì thế, họ phịa ra một câu chuyện khá kỳ lạ. Đi từ một lời khuyên luân lý hoàn toàn xác đáng của luật, đòi buộc bà góa không con phải được em chồng lấy làm vợ. Họ tưởng tượng ra một trường hợp một người đàn bà đã lần lượt lấy 7 anh em và sau đó thắc mắc làm sao sự sống lại có thể có được, vì người đàn bà này không có thể là vợ của 7 anh em trong một lượt, khi cả bảy anh em sẽ được sống trong cuộc sống sau khi chết này. Từ đó, họ kết luận sự sống lại sau khi chết là phi lý, vì như vậy, sự sống lại gây nên những tình cảm vô nghĩa.
3. Vấn nạn, hay đúng hơn thể thức của vấn nạn xem ra đáng buồn cười; thật ra không đang buồn cười lắm đâu, nó khiến chúng ta nghĩ đến vấn nạn mà hiện nay người ta có thể đặt ra. Bàn về cuộc sống sau khi chết, nhiều người hoặc sẽ phủ nhận hoặc sẽ chế giễu theo quan niệm của họ.
Đối với một số người, cuộc sống sau khi chết là chính cuộc sống hiện tại một khi được hoàn toàn thành công; và tùy theo hoàn cảnh và tính tình, cuộc sống đó đối với mỗi người sẽ là việc nối tiếp tình yêu hôn nhân sâu sắc, tiếp tục được một gia đình hạnh phúc, được hoan lạc bình an trong công bình và chính trực; đối với người khác, cuộc sống sau khi chết là một thế giới nhiệm mầu, đầy quyến rũ nhưng mù mờ, tương ứng với các hoài vọng về một thiên đàng trần thế.
Đối với một số người khác, thiên đàng trần thế không phải là cái gì xa vời nhưng đạt được ngay từ bây giờ, đó là chủ trương của người Mac-xít và tất cả những ai ngây thơ tin vào sự tiến bộ vô hạn định của nhân loại. Sự sống lại từ cõi chết có hay không và sẽ xảy đến thế nào ? Có nên tin điều đó không và làm cách nào để xác tín ? Đó là những vấn nạn chúng ta đang đặt ra cho Ngài.
4. Ngay lúc đó, CGS lấy lại một ví dụ của các người đối thoại với Ngài; họ nói về sự hôn nhân và sự vĩnh tồn của hôn nhân sau khi chết. CGS nói chỉ có người đời này mới dựng vợ gả chồng; đó là chuyện hợp tình hợp lý trên trái đất, nhưng không thích hợp với những người sống ở thế giới bên kia. Trong thế giới khác, khi sống lại từ cõi chết, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa.
Khi bàn về sự sống lại và đời sau, những người này đã dựa trên kinh nghiệm trần thế của họ. Đó là một sai lầm. Hai thế giới khác biệt nhau, không thể có chuyện so sánh. Để giải thích, CGS nói: “Họ giống như thiên thần”. Điều này không có nghĩa họ không còn là người, nhưng là người đã thoát khỏi điều kịn trần thế; và sự hiện hữu mới của họ cũng khác với sự hiện hữu lúc còn tại thế.
Sau đó Ngài minh xác hai trong số đặc điểm rõ ràng nhất của đời sống sau khi chết. Trước hết Ngài nói: “Họ không còn phải chết nữa”, họ thoát khỏi những định luật của sinh vật học, thoát khỏi luật phát triển được quan niệm bằng những hạn từ: biến đổi, đào thải, mỏng dòn và lão yếu. Và “họ là con cái của TC”; một cuộc sống mới đến thay thế cuộc sống cũ, một cuộc khai sinh mới đã được thực hiện.
5. Câu trả lời của CGS thật quan trọng, vì giải đáp những vấn nạn của người Sađđucêô và của chúng ta. Không thể dựa trên cuộc sống trần thế nàỵ để bàn về cuộc sống đời sau. Phải dựa trên chỗ khác. Nếu đi từ kinh nghiệm bản thân, anh chị em sẽ quan niệm sai lầm, đó là câu trả lời thứ nhất của CGS.
6. Trả lời như thế xem ra tiêu cực, nên Ngài tiếp tục (trả lời) để chứng minh cho người Sađđucêô, việc kẻ chết sống lại, Ngài nại đến Môisen và dùng luận chứng xác tín nhất của họ, vì đối với họ ngoài Môisen không còn vị đại diện tiên tri nào nữa. CGS nói với họ: “TC của Abraham, của Isaac và của Giacop, không phải là TC của kẻ chết nhưng là của kẻ sống; quả vậy mọi người đều sống với Ngài”. CGS khuyên đừng quan niệm về một TC chỉ có thể yêu thương cách bất toàn, tạm thời. Quan niệm như thế là lộng ngôn phạm thượng. Nếu yêu thương ai, Ngài yêu thương mãi mãi, không thể để họ chết mà không cho sống lại. Quả thật, CGS không chứng minh gì cả. Dựa vào kinh thánh, Ngài khẳng định rằng chối bỏ sự sống lại sẽ làm mất đi tầm vóc, mật độ và lòng kính yêu trong niềm tin vào TC hằng sống và chân thật. Nếu tin vào TC của kẻ sống, anh chị em phải tín nhiệm và tin cậy vào Ngài về một đời sau không thể không hiện hữu. Chối bỏ sự sống lại, chính là xếp TC hằng sống và chân thật ngang hàng với các ngẫu tượng câm nín và vô dụng.
7. Câu trả lời của CGS là lời mời gọi tín thác vào TC hằng sống, Đấng luôn yêu thương chúng ta và hết lòng ước ao một ngày nào đó chúng ta sẽ được sống với Ngài mãi mãi. Ngay bây giờ, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi này bằng một đời sống đầy tin tưởng và hy vọng vào đấng sẽ phục sinh chúng ta.