CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN.. 2
DỤ NGÔN CỬA HẸP- Chú giải của Fiches Dominicales. 12
HÀNH TRÌNH ĐI TỚI NIỀM VUI (Luca 13,22-30) 17
– Lm PX Vũ Phan Long, ofm.. 17
CỬA ĐỨC TIN– Lm. Inhaxiô Hồ Thông(*) 25
VÀO KHUNG CỬA HẸP- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 34
HÃY CỐ GẮNG QUA CỬA HẸP ĐỂ VÀO NƯỚC TRỜI- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 37
HÃY VÀO QUA CỬA HẸP- Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 48
CHÚA MUỐN CỨU ĐỘ HẾT MỌI NGƯỜI- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 63
HÃY VÀO CỬA CỦA SỰ SỐNG- Jos.Vinc. Ngọc Biển. 67
CỬA HẸP- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 73
Cánh Cửa Nước Trời- Trích Logos năm C.. 78
—————
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBTK/HĐGMVN
BÀI ĐỌC I: Is 66, 18-21
“Chúng dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Đây Chúa phán: “Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của chúng; Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta. Ta sẽ đặt nơi chúng một dấu lạ, Ta sẽ sai một số trong những người được giải thoát đến các dân ngoài biển, bên Phi châu và Lyđia, là những dân thiện xạ, đến Ý-đại-lợi và Hy-lạp, đến những hòn đảo xa xăm, đến với những kẻ chưa nghe nói về Ta, và chưa thấy vinh quang của Ta. Chúng sẽ rao giảng cho các dân biết vinh quang của Ta, sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cỡi ngựa, đi xe, đi võng, cỡi la, cỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem, khác nào con cái Israel mang của lễ trong chén tinh sạch vào nhà Chúa, Chúa phán như thế. Trong những dân đó, Ta sẽ chọn các tư tế, các thầy Lêvi: Chúa phán như vậy”. Vì chưng lời Chúa rằng: Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 116, 1. 2
Đáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người.
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời.
BÀI ĐỌC II: Dt 12, 5-7, 11-13
“Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến”.
Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: “Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con”. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt. Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy. Vì thế, anh em hãy nâng đỡ những bàn tay bủn rủn và những đầu gối rụng rời. Đường anh em đi, anh em hãy bạt cho thẳng, để người què khỏi bị trẹo chân, nhưng được an lành.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
All. All. – Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – All.
PHÚC ÂM: Lc 13, 22-30
“Người ta sẽ từ đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Nhưng Người phán cùng họ rằng: “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào và đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: ‘Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi’. Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: ‘Ta không biết các ngươi từ đâu tới’. Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: ‘Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi’. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: ‘Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta’. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết”.
Đó là lời Chúa.
———————
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CÁNH CỬA MỞ RỘNG- Chú giải của Noel Quesson
Trang Tin Mừng của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là một bức tranh ghép gồm những bản văn:
Câu 24, khung cửa hẹp (Mt 7,13) trong bài giảng trên núi.
Câu 25, “thưa ngài, mở cửa cho chúng tôi với” (Mt 25,11) là kết luận của dụ ngôn mười cô trinh nữ khôn ngoan và rồ dại.
Câu 26, “Ta không hề biết các ngươi” (Mt 7,22) là một giáo huấn về sự cầu nguyện.
Câu 28, “từ phương đông sang phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc” là kết luận của việc chữa lành người đầy tớ của ông đại đội trưởng dân ngoại (Mt 8,11).
Câu 30, “những người sau rốt trở thành những người đầu tiên” (Mt 19,30 và 20,16).
Vậy Luca liên kết những lời mà Đức Giêsu đã nói trong những trường hợp khác nhau. Tuy nhiên chúng ta có một bản văn mang tính nhất quán cao: Khi trả lời câu hỏi về con số người được chọn. Đức Giêsu khẳng định hai chân lý có vẻ trái ngược nhau. Cánh cửa Thiên đàng thì hẹp, nhưng những dân ngoại sẽ đến đông đủ, tiến vào bàn tiệc của Đấng Mêsia, còn những người đầu tiên được mời ở lại bên ngoài.
Trang sách này của Luca mà chúng ta đọc hôm nay là kết quả của sự cầu nguyện, của việc dạy giáo lý thờ phụng của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Trong một chừng mực, chúng ta thấy xuất hiện một dụ ngôn mới gồm toàn những câu của Đức Giêsu, mặc dù không trực tiếp là dụ ngôn của Người Thay vì ngạc nhiên về sự khám phá này, tại sao chúng ta lại không vui mừng. Đức Giêsu đã không “biết” gì cả, cũng không làm “xơ cứng” điều gì. Hiển nhiên, đây là một điều có chú ý. Người đã thật sự trao Lời cho Giáo Hội Ngay để Giáo Hội nói Lời ấy và thích nghi Lời với các nhu cầu của mỗi thời kỳ lịch sử. Vì danh nghĩa gấp đôi ấy, lòng Tin Mừng của Luca là của Đức Giêsu: Do miệng Chúa nói ra trong những lúc khác nhau… đồng thời cũng là công việc của Đức Giêsu sống động trong Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người… “Ai nghe anh em là nghe Thầy”. Một cách đọc Tin Mừng có khoa học thay vì mâu thuẫn với một cách đọc ngây thơ hơn và làm cho chúng ta hoài nghi tính chính thống hẳn phải đến chúng ta đến chỗ chấp nhận thái độ của Luca: Trung tín với suối nguồn… tự do trong Thần Khí… để việc giải thích Lời Chúa luôn luôn sống động và có thể soi sáng những vấn đề của chúng ta hôm nay.
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy.
Luca trở lại việc Đức Giêsu đang trên đường lên Thành thánh ở đó chúng ta biết điều gì sắp xảy ra. Đức Giêsu “du hành”. Người không xơ cứng. Người bước đi! Luca, bạn thông hành của Phao lô, nhà “du hành cao cả” đã dùng từ đó tám mươi tám lần. Đời sống Kitô hữu cũng là một cuộc lữ hành, tiến lên phía trước. Phần tôi, tôi có xơ cứng, dừng lại bất động không? Lịch sử với sự tiến hóa của nó là một phần của kế hoạch Thiên Chúa. “Thời gian” là tạo vật của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã hội nhập trong thời gian. Người không làm thời gian ngừng lại. “Thầy ở với các con mỗi ngày cho đến tận thế”.
Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”
Một câu hỏi nóng bỏng, luôn luôn hiện thực. Một câu hòi rất nhân bản, căng phồng máu của những quan hệ tình cảm của chúng ta: Làm sao tôi có thể hưởng hạnh phúc trên trời nếu những Người thân không có ở đó? Một câu hỏi rất tự nhiên: “Bạn chớ đến dự tiệc Nước Trời một mình; trên những nẻo đường bạn đi, bạn hãy cao rao Tin Mừng: Lời Chúa hứa là bánh được ban cho để chia sẻ”. Bất kỳ người nào không ước ao “tất cả” đều được cứu, chính người ấy không thể được cứu, bởi lẽ người ấy không hoàn thành luật của Nước Thiên Chúa là tình yêu phố quát… “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4).
Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”
Một lần nữa, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp. Người không nói những người được cứu sẽ nhiều hay ít. Người làm như thể câu hỏi lý thuyết ấy không làm Người quan tâm và ngay sau đó, Người đưa các thính giả trở về với tránh nhiệm của họ. “Thay vì tranh luận một cách trí thức, bạn hãy làm gì cụ thể để “bước vào” sự sống đời đời… vấn đề là phải vào được!” Sự tò mò về con số người được cứu thoát bộc lộ sự tìm kiếm điều an toàn là điều có thể thiếu lành mạnh: Nếu mọi người đều lên trời, cần gì phải lo lắng? Nếu rất ít người được lên trời, tại sao lại phải tốn bao công sức mà chắc gì đã được? Vì thế, Đức Giêsu đã không xác định con số nhưng trả mỗi Người về với quyết định mà mỗi người phải có đồng thời khẳng định rằng như thế mới là nghiêm túc. Đức Giêsu không muốn “trấn an”, Người muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Người dùng một hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Kinh thánh: Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Người thêm: người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”. Từ Hy Lạp mà chúng ta dịch là chiến đấu là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động từ Hy Lạp: Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Ghet-sê-ma-ni và đồi Gôn-gô-tha.
Người không cho chúng ta lời khuyên nào mà trước hết chính Người đã không sống nó. Trong một đoạn văn khác, Người đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời” (Mt 11,12; Lc 16,16).
Để chiếm được Nước Trời, cuộc chiến đấu của tôi là gì? Tôi phải chiến đấu ở điểm chính xác nào, trong hoàn cảnh của tôi, với tính khí của riêng tôi, khi vượt qua những điều kiện giới hạn là những bó buộc đang đè nặng trên cuộc đời tôi?
Thánh Phaolô cũng dùng từ “ngôn” “cuộc chiến đấu” để nói đời sống Kitô hữu là gì.. “Tôi tìm thấy niềm vui trong những đau khổ mà tôi phải chịu, để loan báo Đức Kitô: Đó là công việc và cuộc chiến đấu của tôi” (Côlôxê 1,29; 1 Côrintô 9,25; Côlôxê 4,12; 1 Timôthê 4,lo). “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết công đường, đã giữ vững niềm tin”. (2 Timôthê 4,7). Làm thế nào chúng ta lại có ảo tưởng “vào” nước trời mà không phải nỗ lực? Đời sống Kitô hữu không phải là một cái ghế bành. Dĩ nhiên đó là một ơn không mất tiền, ban cho cả những người tội lỗi. Còn phải chấp nhận ơn đó… mà không hoàn toàn khép kín lại trên ơn đó.
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: `Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em: `Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!’
Dụ ngôn mạnh mẽ tiếp tục: Cánh cửa vốn đã hẹp giờ đây đóng kín. Lời mời gọi bước vào trở nên cấp bách: Thời gian gấp lắm, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải “bước vào trong Nước Trời”. Vâng, đối với tôi, thêm một ngày cũng là quá trễ. Tôi còn lại bao nhiêu thời gian? Chúng ta phải sống mỗi ngày như thể đó là ngày sau rốt.
Bấy giờ anh em mới nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’
Dân Israel, ý thức về giá trị của Giao ước khó mà chấp nhận những người dân ngoại bước vào trong Nước Thiên Chúa. Giáo trưởng Méir viết: “Để trở nên một con cái của đời sau, phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do Thái là ngôn ngữ thánh và sáng chiều đọc kinh Shema Israel”. Trái lại, đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng được ăn uống trước mặt Người, và những người đã từng nghe Người “giảng dạy” giờ đây áp dụng cho chính chúng ta, những người chia sẻ bàn tiệc thánh thể. Một giờ ngắn ngủi sống với Đức Giêsu ngày Chúa nhật không thể bù đắp tất cả những giờ khác trong tuần mà chúng ta dùng làm điều ác xa cách Người.
“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
Cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời bị loại trừ một cách độc đoán bởi quyết định độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là một bức ảnh biếm họa về Thiên Chúa. Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Quả thật, ngay cả dân ngoại, bởi một thái độ quay ngược lại (kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu!) sẽ đến từ mọi phương trời. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy, thật ra đó là sự nghiêm trọng của vĩnh cửu, trở thành một cánh cửa mở rộng cho mọi người không phân biệt.
Số phận bi thảm của Israel, được mời gọi đầu tiên, đã bị các dân tộc khắp nơi vượt qua phải thức tỉnh sự mê ngủ của chúng ta. Người ta không thể vào Nước Trời như thế, nghĩa là không nhận thức điều vừa nói. Phải ao ước có Phải chiến đấu vì nó. Phải chọn Đức Giêsu. Thuộc về một nhóm người, một chủng tộc, một gia đình, hoặc thực hành một vài nghi thức không thể đem lại cho chúng ta một sự an toàn nào, có chăng chỉ là ảo tưởng… Điều chủ yếu là sự dấn thân bằng tất cả con người chúng ta trong mọi lúc, theo Đức Giêsu. Và nhất là, chúng ta chớ phán xét những người khác. Chúng ta biết được hai điều: 1% về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người… 2% về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu… ở trần gian này, chúng ta không bao giờ biết được có phải tự do ấy no anh em chúng ta đã nói tiếng nói sau cùng. Sự gặp gỡ sau cùng với Thiên Chúa vào lúc chết phải là hồi chung cuộc. Mọi người đều đã hiểu rằng tiền đặt cuộc siêu nhiên ấy chỉ có thể trở thành “cứu độ” với Thiên Chúa: Chớ đến dự tiệc Nước Tròi một mình. Trên những nẻo đường bạn hãy loan báo Tin Mừng: Lời Chúa hứa là bánh được ban cho để chia sẻ: Thiên Chúa thúc giục các bạn bước vào nơi ở duy nhất và quy tụ các bạn trong tình yêu. Lạy Đức Giêsu, niềm hy vọng của con người, xin làm cho chúng con trỏ thành những chứng nhân ơn cứu chuộc của Ngài.
———————————
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
DỤ NGÔN CỬA HẸP- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Vào qua cửa hẹp
Một lần nữa Luca xác định Đức Giêsu đang “trên đường lên Glêrusalem”. Một nhận xét có tính thần học hơn là địa lý: Người đang tiến gần đến Thành Thánh, nơi chính Người phải đi trước qua “cửa hẹp” của cuộc khổ nạn để dẫn đưa anh emmình vào dự tiệc Nước Trời. Sau đó, Người còn tuyên bố trong câu 33: “Tôi phải tiếp tục đi, vì một Ngôn sứ mà chết ngoại thành Giêrusalem thì không được”.
Chính lúc đó một người đối thoại vô danh – Luca viết: “Có kẻ hỏi Đức Giêsu: ‘Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?’. Một vấn nạn thường được đưa ra tranh luận giữa các kinh sư và luật sĩ thời đó: kẻ thì bảo “mọi người Israel sẽ được dự phần vào thế giới đang đến”, người khác lại quả quyết “chắc chắn số kẻ bị hư mất sẽ nhiều hơn số người được cứu”.
Theo thói quen thường làm trong tình thế tương tự, Đức Giêsu tránh không trả lời trực tiếp câu hỏi có tính lý thuyết của người đối thoại, nhưng mượn một dụ ngôn, trong trường hợp này là dụ ngôn Cửa Hẹp, Người đưa ra một lời cảnh báo mạnh mẽ cho thính giả mọi thời, xưa cũng như nam Thay vì đoán xa đoán gần về số lượng ít hay nhiều kẻ sẽ được chọn, tốt hơn họ nên lo cho phần rỗi của chính mình một cách sao cho thật thiết thực. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào người nói rõ như thế. Động từ Hy Lạp được Luca dùng ở đây và được dịch là “Hãy chiến đấu”, chính là “agoomdesthé”: một động từ gợi lên ý tưởng đấu tranh vật lộn, từ đó có chữ “agonie” (có nghĩa là ‘lâm chung’ ‘cuộc vật lộn sau cùng’). Như thế đủ thấy tầm quan trọng mà Đức Giêsu dành cho kiếp sống hiện tại của con người.
- Trước khi cánh cửa được khoá lại
Bởi cánh cửa, cái cửa chật hẹp ấy, sẽ được “khoá” lại, nên người ta cần phải khẩn trương đón nhận lời dạy của Đức Giêsu và đem ra thực hành. Thời giờ không còn nhiều. Không hề có chế độ ưu tiên trong việc tham dự bàn tiệc Nước Trời. Đâu phải cứ thuộc giống nòi Abraham, “từng được ăn uống trước mặt Ngài”, từng được nghe Ngài giảng dạy trên các đường phố của mình, là đương nhiên được Đức Giêsu, vị chủ nhà, mở cho vào khi gõ cửa. Nhưng là phải biết đón nhận lời loan báo nước Trời và mau mắn hoán cải, nếu không sẽ phải nghe tiếng trả lời từ trong nhà: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”.
Thật đau đớn vỡ mộng cho những kẻ tưởng rằng cứ thuộc về dân của Chúa là đương nhiên nắm chắc trong tay tấm vé vào dự bàn tiệc Nước Trời. Họ sẽ phải đứng ngoài cánh cửa đã khép kín, trong lúc cả một đám đông dân ngoại “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Và để hoạ lại lời tiên tri của ông già Ximêon: “Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng những kẻ đứng chót (dân ngoại) sẽ lên hàng đầu, và cả những kẻ đứng đầu (dân Đo Thái) sẽ xuống hàng chót”. Hugues Cóusin lưu ý, “Lời cảnh báo được gởi đến trước hết cho những thính giả Do thái cư ngụ ở Giuđê là Galilê trong những năm 28-30. Tuy nhiên chúng ta đừng quên: những lời của Phúc Âm luôn luôn mang tính hiện tại và nhằm mời gọi một sự hoán cải. Không thể có một thứ ơn cứu độ dọn sẵn cho những Kitô hữu không lo thực hành ngay việc canh tân liên lỉ đời sống mình” (“L’evangilc de Luc”, Centurion, trg 198-199).
BÀI ĐỌC THÊM:
- Quyền công dân Nước Trời
“Nước Thiên Chúa là một thực tại mầu nhiệm. Nước ấy hiện diện như một hạt giống bé nhỏ đang vươn lên thành cây cao bóng cả. Nó được vùi vào trong bột như chút men làm dậy cả khối bột. Để được đự phần vào nước ấy, con người phải để cho Nước ấy biến đổi, phải để cho men của Nước ấy làm dậy bột. Nếu chỉ đóng vai kẻ ngoài cuộc hay kính nhi viễn chi thôi thì không đủ phải bước vào, mà cánh cửa lại chật hẹp, nó chỉ mở ra cho những ai nỗ lực bước qua. Đức Giêsu đã đến giữa nhân thế, và loài người có thể lui tới gặp gỡ Người: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng như thế không đủ. Nhưng sau đó phải bước theo Chúa, phải vào trong Nước Trời qua chính cửa hẹp đó, nếu không sẽ mãi là kẻ xa lạ: “Ta không biết các anh từ đầu đến”. Để gặp gỡ Đức Kitô không nhất thiết ưu tiên cho những ai đã từng gần gũi với Người. Dụ ngôn trực tiếp nhắm đến dân tộc đã sinh ra người trên đời, nhưng đồng thời cũng liên can đến tất cả chúng ta. Thuộc thành phần “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc, chính chúng ta cũng dễ dàng tháo lui không dám bước qua cửa hẹp. Hành trình của sự hoán cải không có lối đi vòng nào khác: “Cút di cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Chỉ có một thứ giấy thông hành thôi, đó là phải đổi đời. Chính nó sẽ cấp cho chúng ta quyền công dân của Nước Trời. Khi điều đó được sáng tỏ, chúng ta mới thấy mọi thứ giả tạo sẽ lộ nguyên hình: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”.
- Trở lại với nguồn mạch Tin Mừng
Dựa vào lời dạy của Đức Giêsu, Thánh Luca muốn đưa ra câu trả lời chính xác cho một tình huống khá cụ thể, trong đó kẻ thuận người chống về vấn đề dân ngoại xin gia nhập Hội Thánh. Người thuận thì cho rằng Nước Thiên Chúa luôn mở rộng cho tất cả những ai tìm kiếm và muốn bước vào. Người chống thì chủ trương phải thuộc thành phần ưu đãi, nghĩa là phải được cắt bì theo luật Do Thái mới được gia nhập. Giáo huấn của Đức Giêsu đã qua rõ. Rõ đến nỗi đụng chạm và gây vấp phạm đến tất cả những ai từng bám vào những đặc ân và ngoại lệ, những bảo hiểm an toàn dành cho những tín hữu “ngoan đạo”. Nhưng Đức Giêsu lại chẳng để ý gì đến chuyện thuộc thành phần nào, chuyện đặc quyền đặc lợi hay việc giữ đúng phép đạo.
Nếu cánh cửa có hẹp, nó vẫn đủ rộng để đón mời mọi người và mỗi người. Nhưng lối vào không thênh thang. Để lọt được vào trong, đòi phải có sự mềm mại của tình yêu đáp trả tình yêu đang thao thức, đang xét xử và đón mời. Ở đây, chúng ta được nghe nhắc lại tầm quan trọng của đức tin và việc sống đạo, mà chủ yếu là thực hành hai giới răn chính mà thực tế chỉ là một giới răn tình yêu. Cần phải lên án cả lối nhìn nghiêm khắc của Jansénisme lẫn chủ trương dễ dãi buông thả, cả sự bối rối sợ hãi lẫn thái độ thoải mái vô tư.
Hãy dẹp sang một bên những bảng thống kê và con số, những suy đoán vô ích, những nỗi lo lắng và tin tưởng vu vơ. Tốt hơn, chúng ta hãy trở về với nguồn suối Tin Mừng. Chính nơi đó người ta tìm được tất cả những gì mình phải là và phải làm, để trở nên và mãi là “công dân Nước Trời”.
—————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÀNH TRÌNH ĐI TỚI NIỀM VUI (Luca 13,22-30)-Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này bắt đầu phần thứ hai (Lc 13,22–17,10) trong hành trình lên Giêrusalem Tin Mừng Luca tường thuật (Lc 9,51–19,28), trong đó có những lời Đức Giêsu tuyên bố về ơn cứu độ và về việc được nhận hay không được nhận vào Nước Thiên Chúa. Riêng bản văn 13,22-30 có sự thống nhất bên trong nhờ những tuyên bố của Đức Giêsu; những tuyên bố này liên hệ rất chặt chẽ với hai dụ ngôn liên hệ đến Nước Thiên Chúa kết thúc phần thứ nhất (dụ ngôn Hạt cải, 13,18-19; dụ ngôn Men trong bột: 13,20-21).
Riêng về hình thức, dường như bản văn này đa tạp, quy tụ nhiều đoạn không cùng chiều hướng. Chẳng hạn, “cửa hẹp” (Lc 13,24) có ở Mt 7,13-14 (Bài Giảng trên núi); “cửa đóng” (Lc 13,25) kết thúc dụ ngôn Mười người trinh nữ trong Mt (25,10-12). Câu trả lời của những người bị loại (Lc 13,26-27) lại đưa chúng ta về với Mt 7,22-23 (Bài Giảng trên núi). Còn chi tiết nói về bữa tiệc quy tụ mọi người (Lc 13,28-29) lại chính là cao điểm của truyện chữa lành người đầy tớ của viên sĩ quan có đức tin rất lớn (Mt 8,11-12).
Nhưng dù thế nào, khi đưa vào tác phẩm của mình, tác giả Luca đã làm cho các đoạn văn rời rạc ấy thành một khối có ý nghĩa (chi tiết “cánh cửa đã đóng” trở thành một dụ ngôn, và tất cả bản văn trở thành bài trình bày các đòi hỏi phải đáp ứng để được cứu độ).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (13,22-23);
2) Những lời đe dọa (13,24-29): Các ý tưởng được liên kết với nhau bằng từ móc “cửa” (cửa hẹp/cửa khóa):
– cửa hẹp (c. 24),
– cửa khóa (cc. 25-27),
– số phận của những kẻ làm điều gian ác (cc. 28-29),
– câu tục ngữ kết thúc (c. 30).
3.- Vài điểm chú giải
– Hãy phấn đấu để qua được cửa hẹp mà vào (24): “Qua được cửa hẹp” nghĩa là qua được cái cửa duy nhất của Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu dùng ngôn ngữ của cuộc tranh tài (agôn) hoặc chiến đấu để nhấn mạnh rằng cần phải cố gắng để vào được Nước Thiên Chúa. Chúng ta ghi nhận rằng ở Lc 13,3.5, Đức Giêsu kêu gọi hoán cải đúng lúc, còn ở đây Người lại diễn tả điều ấy bằng việc đi qua cửa hẹp.
– Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại (25): Dường như khung cửa hẹp lại còn bị chủ nhà kiểm soát. Đức Giêsu đã lưu ý về cửa hẹp, nay lại lưu ý là đừng để đến giờ chót. Ở đây, không rõ chủ nhà là Thiên Chúa hay là Đức Giêsu.
– Ta không biết các anh từ đâu đến (25) = Ta không biết các anh là ai.
– Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy (26): nghĩa là chúng tôi là những người quen biết và cùng thời với ngài.
– đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (29): Đức Giêsu giới thiệu Nước Thiên Chúa theo kiểu Do Thái: Nước Thiên Chúa giống như bữa tiệc (x. Is 25,6), tại đó những người được chọn quy tụ chung quanh các tổ phụ và các ngôn sứ. Tuy nhiên, so sánh với Mt, ta thấy trong khi Mt gửi lời răn đe này đến toàn thể người Do Thái (Mt 8,12), Lc lại chỉ nhắm đến các thính giả cứng lòng tin mà thôi.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đứng về phương diện phê bình (quan điểm lịch đại), chúng ta thấy bản văn gồm những ý tưởng thuộc nhiều ngữ cảnh được liên kết với nhau một cách giả tạo. Tuy nhiên, về phương diện đồng đại, chúng ta vẫn có thể coi đây là một đoạn gồm những lời răn đe của Đức Giêsu.
* Dẫn nhập vào hoàn cảnh địa lý và bài giảng (22-23)
Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu vẫn rất lô-gích và cương quyết. Người vẫn đang thi hành nhiệm vụ và đi tới định mệnh của Người. Người loan báo sứ điệp từ làng này sang làng khác, đồng thời Người đến gần Giêrusalem, là nơi định mệnh đang chờ Người (x. Lc 13,33). Người không để mình bị lạc hướng trước những đe dọa của vua Hêrôđê (13,31-33). Người trả lời chắc nịch cho những câu hỏi được đặt ra. Người nói lên cả những sự thật khó nghe. Người không hề muốn lừa dối hoặc đẩy ai vào ảo tưởng.
Câu hỏi “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” chạm thẳng vào tư cách của Người là Đấng Cứu Thế (x. 2,11). Vậy có bao nhiêu người sẽ đạt được mục tiêu nhờ trung gian của Người? Đức Giêsu không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Người không nêu ra con số những người được cứu độ. Người muốn đưa cái nhìn của các thính giả về những gì cần phải làm. Người bảo cho chúng ta biết cách đi vào Nước Thiên Chúa, tức là lúc này phải trở thành môn đệ.
* Những lời đe dọa (24-29)
Chỉ có một cách duy nhất: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (c. 24). Khi nói về cửa hẹp, Đức Giêsu không có ý nói rằng tại “cửa ra vào” đời sống vĩnh cửu, có một đám đông huyên náo, và người ta đang chen lấn nhau. Người muốn nói rằng người ta phải cố gắng nhiều, phải chiến đấu. Không phải chỉ có ý muốn là đủ. Chắc chắn chúng ta không thể tự cứu mình bằng sức riêng, nhưng kết quả này không xảy đến nếu không có phần đóng góp của chúng ta, nếu chúng ta chỉ có một thái độ thụ động. Bởi vì làm thế nào để đi qua một cửa hẹp, nếu không phải bằng cách làm cho mình nhỏ lại? Một người to lớn không thể đi qua một cửa hẹp. Đức Giêsu đang bảo chúng ta rằng chúng ta không thể trở thành môn đệ của Người nếu chúng ta không buông ra cao vọng muốn thống trị kẻ khác. Nếu chúng ta không trở thành tôi tới mọi người, chúng ta sẽ không bao giờ vào được, cho dù chúng ta có cầu nguyện nhiều.
Rồi Đức Giêsu cho chúng ta một dụ ngôn. Một người tổ chức moat bữa tiệc và mời mọi người, với điều kiện họ phải đi qua khung cửa hẹp. Mọi người cố gắng đi vào, có người thì lọt, có người thì không. Đến một lúc nào đó, chủ nhà cho đóng cửa. Dựa vào Isaia (Is 25,6), có thể hiểu chủ nhà là Thiên Chúa. Khi nói về cái cửa đã đóng kín, Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta phải cố gắng đúng lúc. Chúng ta phải ý thức rằng thời gian của chúng ta có giới hạn. Chậm nhất là với cái chết, cánh cửa sẽ được đóng lại và số phận chúng ta sẽ được quyết định. Lúc đó, có muốn vào, có gọi, có gõ cửa, cũng đã muộn rồi.
Ở bên ngoài, có những người muốn được vào, họ nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (c. 26). Ông chủ đã gọi họ là “những quân làm điều bất chính”. Trong thực tế, họ biết Đức Giêsu, họ đã nghe Người giảng, đã ăn uống với Người. Họ không phải là những người ngoại giáo. Như vậy, chúng ta hiểu là chỉ mang tên “môn đệ” Đức Giêsu mà thôi thì không đủ; chúng ta còn cần có những hành vi tốt lành. Chỉ hiệp thông với Thiên Chúa ở bề ngoài mà thôi, thì không đủ. Chỉ đã biết Ngài, nghe các giáo huấn của Ngài, thì không đủ. Hiệp thông với Ngài trước tiên là hiệp thông với ý muốn của Ngài.
Sau đó, Đức Giêsu không nói đến con số những người được cứu, nhưng phác cho biết cộng đoàn những người được cứu độ thì như thế nào. Thuộc về cộng đoàn này là các tổ phụ Israel (Abraham, Isaác và Giacóp), các sứ giả của Thiên Chúa (các ngôn sứ) và những người đến từ bốn phương trời, từ mọi dân tộc. Các tổ phụ và các ngôn sứ tượng trưng tất cả những gì Thiên Chúa đã ban cho Dân được tuyển chọn (Israel); “thiên hạ từ đông tây nam bắc đến” tượng trưng Dân ngoại. Như vậy, trong Nước Thiên Chúa, có sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, thì cũng thể hiện sự hiệp thông với mọi người. Hình ảnh “ngồi đồng bàn” (= dự tiệc) gợi ý đến tính cách vui tươi lễ mừng của sự hiệp thông này. Hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với loài người trong một bầu khí vui tươi và lễ hội là những đặc điểm của ơn cứu độ trong Nước Thiên Chúa.
Ai không cố gắng đúng lúc với hành động công chính, thì tự loại mình, không nhận được ơn cứu độ. Hậu quả là phải “khóc lóc nghiến răng” (c. 28): khi nhận ra những gì mình đã mất, người ấy sẽ cảm thấy đau đớn khôn nguôi và giận dữ khủng khiếp.
+ Kết luận
Tin Mừng của Đức Giêsu không nói với chúng ta những điều làm cho chúng ta vui lòng, cũng không hứa với chúng ta một cuộc sống dễ dàng, không cần cố gắng. Tin Mừng ấy có hàm chứa một số chân lý gây phiền toái. Nhưng chính bởi vì Tin Mừng này không giấu giếm chúng ta điều gì cả, chính bởi vì Tin Mừng này trình bày chân lý trọn vẹn, Tin Mừng này mới chỉ cho chúng ta con đường thật đưa tới niềm vui. Cũng chính vì thế mà Tin Mừng này là Tin Mừng và chúng ta chỉ có thể đón nhận với lòng biết ơn và ngoan ngoãn.
5.- Gợi ý suy niệm
- Tuy Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, nhưng Ngài coi trọng chúng ta là những nhân vị có tự do, có trách nhiệm. Do đó, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu: Thiên Chúa cứu chúng ta, nhưng Ngài muốn rằng chúng ta cũng muốn chinh phục sự hiệp thông với Ngài. Chúng ta cố gắng có nghĩa là chúng ta ý thức và cương quyết đến gần Ngài, thắng vượt các trở ngại và để tất cả mọi sự khác sang mộtbên.
- Thời gian được dành cho chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không thể sử dụng như là chủ thời gian. Ngay từ đầu, chúng ta phải lên đường tiến về với Thiên Chúa. Chúng ta không thể sống mộtcuộc đời theo sở thích riêng, rồi chờ đến tuổi già mới lo cho việc cứu độ linh hồn. Bởi vì không phải chúng ta là người đóng cửa, mà là Thiên Chúa; do đó phải luôn luôn sẵn sàng.
- “Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”. Đây là lý do khiến chủ nhà không muốn liên hệ gì nữa với những người ở ngoài. Sự cố gắng, định hướng đúng thời đúng buổi về Thiên Chúa phải được diễn tả ra bằng hành động, bằng việc thi hành ý muốn của Ngài. Ai không quy hướng về ý muốn của Thiên Chúa bằng cách hành động thực thụ, ai từ chối hiệp thông lúc này với Ngài, thì đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ, khỏi sự hiệp thông vĩnh cửu với Ngài, dù họ thuộc về cộng đồng tín hữu, đã nghe công bố Tin Mừng và chia sẻ bí tích Thánh Thể. Họ quên mất một điều, là đã không làm cho mình nên nhỏ bé đủ để đi qua cửa hẹp!
- Trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, sự hiệp thông trọn vẹn với loài người cũng được thể hiện. Cuộc sống nhân loại viên mãn và phong phú của chúng ta hệ tại những tương quan viên mãn và sâu sắc của chúng ta với anh chị em loài người. Niềm vinh phúc của cuộc sống trong Nước Thiên Chúa hệ tại cả ở sự kiện các tương quan với loài người không bị cắt xén đi, nhưng lại được mở rộng và đưa đến chỗ thành toàn. Muốn thế, đang khi còn sống tại trần gian này, chúng ta cần nỗ lực. Buông trôi cuộc đời không chút cố gắng là con đường đưa tới tuyệt vọng sau này.
- “Cánh cửa hẹp” là hình ảnh về cuộc đời của Chúa Giêsu và ân sủng Người trao ban là hy sinh chính mình cho tha nhân. Đây chính là sự đau khổ đặc biệt và hiến tế chính mình mà Người mời gọi chúng ta bước vào: tha thứ là một cánh cửa hẹp; phục vụ và tặng ban của cải, thời gian cho những ai đang cần cũng là một cánh cửa hẹp; tạm gác lịch trình và thời biểu của mình qua một bên để dành thời gian lắng nghe những nỗi đau của người khác cũng là cánh cửa hẹp; sống cẩn trọng và thanh đạm, sở hữu ít đi để người khác có thể có nhiều hơn đó cũng là cánh cửa hẹp; lên tiếng thay cho những ai bé cổ thấp họng, thậm chí điều đó khiến chúng ta trở thành bất thường, cũng là một cánh của hẹp (Siciliano).
———————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CỬA ĐỨC TIN– Lm. Inhaxiô Hồ Thông(*)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này, đặc biệt Bài Đọc I và Tin Mừng, nêu bật chiều kích phổ quát của ơn cứu độ.
Is 66: 18-21
Vị ngôn sứ hậu lưu đày, I-sai-a đệ tam, gợi lên ý định của Thiên Chúa là quy tụ muôn dân trên khắp mặt đất thành một dân duy nhất, dân của Ngài. Để thực hiện điều này, ơn gọi phổ quát của dân Ít-ra-en phải đóng một vai trò chính yếu.
Dt 12: 5-7, 11-13
Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái an ủi cộng đoàn Ki-tô hữu, nhưng một cách rất đặc biệt khi chỉ cho thấy mối liên hệ giữa những gian nan thử thách và phận làm con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa, như một người cha, sửa dạy những ai mà Ngài yêu thương. Vì thế, hãy kiên vững trong đức tin và kiên trì trong gian nan thử thách.
Lc 13: 22-30
Thánh Lu-ca tường thuật những lời nghiêm khắc của Đức Giê-su lên án dân Ít-ra-en, dân đã được kêu gọi đầu tiên, nhưng vì cứng lòng tin nên từ chối nhận ra Ngài. Vì thế, Ngài công bố rằng Nước Thiên Chúa sẽ được mở rộng cho muôn dân muôn nước vào.
BÀI ĐỌC I (Is 66: 18-21)
Chương 66 là chương cuối cùng của toàn bộ sách I-sai-a. Vị ngôn sứ, biệt danh I-sai-a đệ tam, ngỏ lời với cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, cốt yếu là những người hồi hương trở về từ cuộc lưu đày, chán nãn trước những chướng ngại lớn lao mà họ phải đối mặt với.
Trong sấm ngôn này, chúng ta gặp lại giọng điệu lạc quan và những viễn cảnh vinh quang mà vị ngôn sứ này hé mở cho dân thành Giê-ru-sa-lem.
1.Sứ điệp hoàn vũ:
Sứ điệp mà vị ngôn sứ loan báo mang chiều kích phổ quát. Sứ điệp bao gồm hai chuyển động: chuyển động thứ nhất của Ít-ra-en là sai những sứ giả vào trong toàn thể thế giới, và chuyển động thứ hai của muôn dân muôn nước là mang sự trợ giúp của mình đến con cái Ít-ra-en tản mác khắp nơi để đưa họ trở về Giê-ru-sa-lem.
Chuyển động thứ nhất dựa trên chủ đề “nhóm còn sót lại”, diễn ngữ này lần đầu tiên xuất hiện tại ngôn sứ A-mốt vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, được ngôn sứ I-sai-a đệ tam khai triển vài năm sau đó và là sứ điệp trọng tâm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị với dung mạo Người Tôi Trung. Những người lưu đày xưa kia, “những kẻ sống sót của chúng” sẽ là hạt nhân tái sinh của dân Chúa chọn. Một tôn giáo được thanh lọc và phổ quát, đó là thành quả rõ ràng nhất và phong phú nhất của thời gian đau khổ dài lâu ở đất khách quê người. Ít-ra-en trở thành một dấu hiệu ở giữa muôn dân. Việc dân Chúa chọn được phục hưng chứng thực vinh quang của Đức Chúa, tức là quyền năng của Đức Chúa được bày tỏ ở nơi các biến cố. Những sứ giả của dân Chúa chọn sẽ ra đi loan báo vinh quang của Đức Chúa đích thật cho “các dân tộc ở góc biển chân trời, những đảo xa xôi, chưa từng được nghe nói đến Ngài, chưa hề thấy vinh quang của Ngài”.
Nét đặc thù của ngôn sứ I-sai-a đệ tam là biết liên kết chiều kích hoàn vũ và chủ nghĩa quốc gia. Ở nơi vị ngôn sứ hậu lưu đày này có vài điểm nhấn “phục thù”. Ít-ra-en đã chịu biết bao tủi nhục làm tôi cho muôn dân, rồi một ngày kia muôn dân sẽ phải kính trọng họ, chạy đến với họ và xin được phục vụ họ. Màu sắc này nổi bật trong bức tranh về chuyển động thứ hai: “Người ta sẽ đem tất cả anh em các ngươi từ muôn dân về dâng cho Chúa… Họ sẽ đem chúng đến tận Núi Thánh của Ta”. Sứ điệp hoàn vũ vĩ đại này mà vị ngôn sứ loan báo được vài hoàn cảnh lịch sử chính xác gợi lên.
2.Khoa thần bí mới về Đền Thờ:
Người ta có thể định vị niên biểu của lời sấm này, chắc hẳn vào năm 520 trước Công Nguyên. Công việc tái thiết Đền Thờ khởi sự vào năm 521 và hoàn tất vào năm 515. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, niềm tự hào hãnh diện của toàn thể dân Ít-ra-en, dù ở miền Bắc hay ở miền Nam hoặc ở Hải Ngoại, một lần nữa sắp chứng thực Thiên Chúa hiện diện và hành động ở giữa dân Ngài. Đó không là dấu chỉ hữu hình của việc Thiên Chúa tuyển chọn sao?
Nhưng thời gian đã thay đổi. Khoa thần bí về Đền Thờ đã mất đi viễn cảnh hẹp hòi này. Ngôn sứ I-sai-a đệ tam công bố một lời chứng đáng chú ý nhất. Ông để cho Đức Chúa lên tiếng ngay từ câu đầu tiên của chương 66 này:“Trời là ngai của Ta, và đất là bệ dưới chân Ta. Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào, và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi?”.
Nhưng nếu Đức Chúa đã chấp nhận tái thiết Đền Thờ này, Ngài công bố bằng những ngôn từ mà Chúa Giê-su sẽ lấy lại: “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56: 7). Đó là tư tưởng mới của vị ngôn sứ. Đó là ý nghĩa của sấm ngôn mà chúng ta được mời gọi gẫm suy.
3.Một nhãn quang mới về các dân tộc khác:
Vào lúc trở về từ cuộc lưu đày, những người hồi hương đã gặp thấy ở Giê-ru-sa-lem nhiều dân tộc khác cư ngụ. Điều này sẽ đặt ra nhiều vấn đề, nhất là hôn nhân của con cái Ít-ra-en với dân ngoại giáo. Một phần những người ngoại kiều này đã góp sức vào việc xây dựng lại tường thành và chắc chắn cũng vào việc tái thiết Đền Thờ. Đây là thời điểm mà phong trào thu nạp các tín đồ mới nảy sinh, nghĩa là chấp nhận ngoại kiều được tham dự vào tôn giáo của Đức Chúa, với điều kiện là tuân giữ những điều khoản cốt yếu của luật Mô-sê (ngày sa-bát, phép cắt bì) và những đòi hỏi luân lý mà luật đòi buộc. Người ta có thể phỏng đoán rằng đây là một sự mới mẽ lớn lao mà vị ngôn sứ đặt trên môi miệng của Đức Chúa, Ngài sẽ chọn cho mình giữa muôn dân “những tư tế và những thầy Lê-vi”. Đây là biểu thức táo bạo nếu chúng ta nghĩ đến những yêu sách về một dòng dõi tư tế đối với tầng lớp giáo sĩ của dân Ít-ra-en.
Ngoài sự phỏng đoán này, còn có một phỏng đoán khác: Đền Thờ được tái thiết nhờ sự trợ giúp tài chính của đế quốc Ba-tư. Tài chính ngoại quốc này là bày tỏ niềm tôn kính đối với Đức Chúa. Còn hơn thế nữa, khi Đền Thờ được hoàn thành, vua Ba-tư sẽ truyền dâng hy lễ mỗi ngày lên Thiên Chúa Ít-ra-en, do vua đài thọ.
BÀI ĐỌC II (Dt 12: 5-7, 11-13)
Đoạn trích thư gởi các tín hữu Do thái này mời gọi những người Ki-tô hữu gốc Do thái bị bách hại hãy kiên vững trong đức tin và kiên trì trong những gian nan thử thách. Tác giả đưa ra trước một lý chứng được định vị vào trong hàng các sách minh triết, nhưng ông đem lại cho lý chứng này một chiều kích mới: có mối liên hệ giữa gian nan thử thách và phận làm con cái Thiên Chúa.
1.Thiên Chúa sửa dạy chúng ta như một người cha:
Chính vì Thiên Chúa là Cha và vì Ngài muốn con cái Ngài nên thập toàn: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nãn lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt”. Sở dĩ tác giả khuyên như vậy vì ông dựa vào một bản văn của sách Châm Ngôn: “Này con, chớ khinh thường khi Đức Chúa sửa dạy con, đừng chán ngán khi Người khiển trách. Vì Đức Chúa khiển trách kẻ Người thương, như người cha xử với con yêu quý” (Cn 3: 11-12).
Ở nơi lời khuyên này, phải đọc thấy mẫu gương của Chúa Ki-tô, như tác giả đã viết trong cùng bức thư này: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5: 8). Như vậy, “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy, Người đối xử với anh em như với những người con”. Đây là Ki-tô hóa đề tài truyền thống của Kinh Thánh.
2.Sự ích lợi của việc Thiên Chúa sửa dạy:
Được Thiên Chúa sửa dạy như người cha đầy yêu thương như thế, cuối cùng chúng ta sẽ gặt hái được hoa trái là bình an và thánh thiện, những giá trị đem lại cho những người Ki-tô hữu một niềm tin tưởng vững chắc. Bởi vậy,“hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ”. Tác giả cố ý chọn những hình ảnh này trong bản văn ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 35: 3), bản văn gợi lên cho những người lưu đày Ba-by-lon ơn cứu độ sắp đến gần. “Lửa thử vàng gian nan thử đức”, những nỗi gian truân “rèn luyện” chúng ta và hướng dẫn chúng ta trên con đường cứu độ.
Tác giả trích thêm một bản văn khác của sách Châm Ngôn 4: 26: “Đường con đi, hãy san cho phẳng”, để chúng ta chạy mà không bị trật bước. Hình ảnh của viện động viên chạy đua trong thao trường mà tác giả bắt đầu khai triển và kết thúc trên cùng một viễn cảnh (12: 1 và 12: 13: phương pháp văn chương đóng khung). Tác giả muốn nói rằng gian nan thử thách, được hiểu như vậy, đem lại cho đức tin một sự kiên vững khôn sánh.
TIN MỪNG (Lc 13: 22-30)
Thánh Lu-ca ra công biên soạn một cuộc hành trình dài của Chúa Giê-su từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc hành trình này được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu tiên bắt đầu với câu: “Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” (9: 51), còn hai giai đoạn còn lại thì được dánh dấu bởi mốc điểm:“Trên lên Giê-ru-sa-lem” (13: 22; 17: 11). Đây là công trình biên soạn độc đáo của thánh Lu-ca. Trong suốt cuộc hành trình dài lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su vừa đi vừa giảng dạy cho các môn đệ và đám đông dân chúng về cách thức sống đời môn đệ.
Câu mở đầu của đoạn trích hôm nay: “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy” (13: 22) đánh dấu giai đoạn thứ hai của cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem. Trong đoạn trích hôm nay, thánh Lu-ca tập hợp lại thành nhóm nhiều lời nói của Đức Giê-su liên quan đến việc đi vào Nước Trời, mà chúng ta cũng gặp thấy tại thánh Mát-thêu, nhưng được trình bày riêng lẽ và trong những bối cảnh khác nhau. Việc thánh Lu-ca liên kết chúng lại với nhau gây nhiều cảm xúc nơi người đọc: cửa vào Nước Trời thì hẹp; cửa này sẽ đóng lại trước những người Ít-ra-en cứng lòng tin, nhưng sẽ mở rộng cho lương dân trên khắp thế giới.
1.Chiều kích biểu tượng của cửa:
Một người trong đám đông nêu lên cho Đức Giê-su một câu hỏi trang trọng: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”. Vấn đề về số người được tuyển chọn nhiều hay ít là một chủ đề gây tranh luận sôi nổi trong các trường phái kinh sư. Vào thời Chúa Giê-su đã hình thành nên hai quan niệm về ơn cứu độ trái ngược nhau. Những người Pha-ri-sêu có xu hướng lạc quan nghĩ rằng mọi con cái Ít-ra-en đều sẽ được cứu độ. Những người khác, như người hỏi Đức Giê-su này, thì lại bi quan vì cho rằng chỉ một ít người đạt được ơn cứu độ.
Đức Giê-su không trả lời cho anh cách trực tiếp nhưng gián tiếp: số người được cứu độ tùy thuộc vào sự phấn đấu của mỗi người. Vì thế, không ai bị loại trừ, nhưng phải biết rằng cửa vào Nước Thiên Chúa thì hẹp, vì thế phải phấn đấu mà vào. Ý tưởng chuyển từ số lượng sang chất lượng: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm lấy được” (Mt 11: 12) và “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24: 13).
Chúa Giê-su ngầm gợi lên đề tài truyền thống về hai con đường. Thánh Mát-thêu khai triển đề tài này trong một đoạn văn song đối mà thánh ký đặt vào phần kết thúc Diễn Từ Trên Núi: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7: 13).
Thánh Lu-ca trung thành với chiều kích biểu tượng của cửa. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Động từ Hy-lạp gợi lên ý tưởng về cuộc chiến đấu; thánh Phao-lô dùng động từ này để diễn tả nỗ lực bền bỉ trong cuộc chiến mà thánh nhân đương đầu vì đức tin (Pl 1: 30; 1Tx 5: 8; 2Tm 4: 7).
2.Dân Ít-ra-en cứng lòng tin bị loại ra bên ngoài:
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại…”, thời gian dâng hiến cho ơn cứu độ có kỳ hạn, cơ hội ngàn năm một thuở đã qua đi. Vài người sẽ gõ cửa… Thiên Chúa sẽ không mở: “Ta không biết các ngươi từ đâu tới”.
Thánh Mát-thêu gợi lên cửa sẽ đóng lại theo cùng một cách tương tự trong dụ ngôn “năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại”: “Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với!”. Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” (Mt 24: 11-12). Năm cô trinh nữ khờ dạy này đã không biết sống trong tư thế sẵn sàng. Cũng vậy, dân Ít-ra-en cứng lòng tin, có thể biện bác: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng đã quá trể rồi. Chúa Giê-su tiếp tục trích dẫn Tv 6: 9:“Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”.
Dân Ít-ra-en đã không biết nhận ra giờ Thiên Chúa viếng thăm. Vì thế, Đức Giê-su sẽ khóc thương thành thánh Giê-ru-sa-lem (Lc 19: 41-44).
3.Cánh cửa mở rộng cho lương dân:
Đối với những người đã được gọi ngay từ đầu nhưng vì cứng lòng tin mà từ chối vào Nước Thiên Chúa, Chúa Giê-su loan báo ơn cứu độ cho muôn dân muôn nước: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Ngài lên Giê-ru-sa-lem hướng về hy lễ cao vời của Ngài, được dâng hiến cho muôn người.
Bài diễn từ đặc biệt được gởi đến những người Pha-ri-sêu, họ tự hào tự phụ mình là con cái của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp nên chắc chắn được cứu độ. Không, lối vào Nước Thiên Chúa tất yếu là “cửa hẹp”. Ấy vậy, chính Chúa Giê-su đã tự công bố mình là Cửa: Chính ở nơi Ngài mà người ta phải đi qua để được cứu độ: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10: 9). Nhưng dân Ít-ra-en đã từ chối. Qua cánh cửa đức tin này đông đảo lương dân sẽ đến dự bàn tiệc Thiên Quốc.
(*) Tựa đề do BBT.WGPBR đặt
——————————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
VÀO KHUNG CỬA HẸP- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Trong mùa thi vào đại học vừa qua, có nhiều bạn học sinh đã bị chứng suy dinh dưỡng, mất ngủ, thậm chí bị tâm thần. Lý do là các bạn phải học rất nhiều, phải phấn đấu để được vào đại học. Đại học hiện tại là một khung cửa hẹp. Trường lớp có ít mà số lượng sinh viên mỗi năm mỗi tăng. Thế nên các học sinh phải hết sức phấn đấu mới được vào.
Cảnh các thí sinh chen chúc trước các cổng trường đại học làm tôi nhớ đến bài Tin Mừng hôm nay. Ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua khung cửa hẹp.
Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.
Trước hết phải phấn đấu hạ mình xuống. Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc 14,11). “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối”(Lc 14,10). “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ”(Lc 22,26). “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”(Mc 10,15).
Sau đó phải phấn đấu để bé nhỏ lại. Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng thêm. Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi. “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”(Mt 19, 21). “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5,3).
Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu.
Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thày, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại tội phạm. Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.
Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ. Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.
Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người phấn đấu hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết “từ bỏ mình, vác thập giá mình”mà theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Cửa Nước Trời rất hẹp. Bạn có thấy mình còn cồng kềnh không?
2) Bạn thấy mình cần phải từ bỏ những gì để có thể gọn nhẹ tiến qua cửa hẹp?
3) Tuần này bạn sẽ phấn đấu làm gì để từ bỏ mình?
4) Chúa Giêsu đã làm thế nào để đi vào khung cửa hẹp?
—————————————————
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY CỐ GẮNG QUA CỬA HẸP ĐỂ VÀO NƯỚC TRỜI- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
- Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Dân Do Thái là dân riêng của Chúa. Còn chúng ta chỉ là dân ngoại. Vậy mà chúng ta đã được Chúa thương, cho chúng ta biết Ngài và quy tụ chúng ta lại trong Giáo Hội của Ngài.
Chúng ta hãy cám ơn tình thương của Chúa, và hãy cầu nguyện để ngày càng có thêm nhiều người được biết Chúa và đến với Ngài.
- Gợi ý sám hối
- Rất ít khi chúng ta biết cám ơn Chúa vì ơn được biết Ngài.
- Cũng rất ít khi chúng ta quan tâm làm cho nhiều người khác cũng được biết Chúa như chúng ta.
- Chúng ta ngại đi qua “cửa hẹp”, nghĩa là ngại khó khăn, ngại cố gắng.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I (Is 66, 18-21)
Đây là đoạn kết của sách Isaia, qua đó Thiên Chúa tỏ cho biết giai đoạn cuối của chương trình cứu độ của Ngài là tất cả mọi dân tộc (chứ không riêng gì dân do thái) sẽ tin vào Ngài, đến với Ngài và hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài.
- Đáp ca (Tv 116)
Thánh vịnh này nhấn mạnh lại ý tưởng của bài đọc I: kêu mời mọi nước mọi dân hãy ca ngợi và chúc tụng Chúa.
- Tin Mừng (Lc 13, 22-30)
Hai câu trong đoạn Tin Mừng này đáng chú ý nhất:
- 23: Câu hỏi mà một người kia đặt ra cho Chúa Giêsu phản ánh quan tâm của người Do Thái đương thời về số lượng những kẻ được cứu.
Khi đặt vấn đề dựa theo số lượng, người ta sẽ có thái độ không thích hợp: nếu mọi người đều được cứu thì thái độ sẽ là ỷ lại; còn nếu có một số nhỏ được cứu thì thái độ sẽ là chán nản, cố gắng làm chi cho uổng công.
- 24: Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi. Người ta hỏi về số lượng. Ngài trả lời về cách thức làm sao cho mình được ở trong số lượng những kẻ được cứu ấy, đó là phải cố gắng, diễn tả bằng hình ảnh “đi qua cửa hẹp”.
- “Đi qua”: Động từ “qua” diễn ta sự thay đổi cách sống. Có rất nhiều người đứng trước cái của hẹp ấy, nhưng chỉ những ai biết “đi qua” (thay đổi cách sống) thì mới vào nhà được.
- “Cửa hẹp” diễn ta sự cố gắng. Muốn vào Nước Trời thì phải cố gắng nhiều (và khó khăn như lạc đà chui qua lỗ kim: xem Mt 19, 24, Mc 10, 25, Lc 18, 25).
Như thế, số lượng những kẻ vào Nước Trời (nhiều hay ít), và lý lịch của những người ấy (Do Thái hay dân ngoại) đều không quan trọng. Vấn đề quan trọng là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.
- Bài đọc II (Dt 12, 5-7. 11-13) (Chủ đề phụ)
Đoạn thư Do Thái này bàn đến những gian truân khốn khó.
Như chúng ta đã biết, các kitô hữu gốc Do Thái phải chịu nhiều khốn khó từ phía đế quốc rôma lẫn phía Do thái giáo.
Tác giả cho họ biết rằng những gian nan khốn khó đó là những việc Chúa cho phép xảy ra để thử thách và sửa dạy họ. Mà Chúa thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế, họ đừng ngả lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng.
- Gợi ý giảng
* 1. “Phải chăng số người được cứu thoát thì ít?”
Hôm đó có người hỏi Chúa Giêsu: “Phải chăng số người được cứu thoát thì ít?” Người hỏi câu này là một người Do Thái. Khi hỏi thế, người Do Thái này mong nhận được câu trả lời là “đúng thế”. Sở dĩ người này mong như vậy là vì dân Do Thái nghĩ rằng ơn cứu rỗi được dành riêng cho dân tộc họ mà thôi.
Một câu hỏi sai phát xuất từ một quan niệm sai. Cho nên Chúa Giêsu không trả lời. Những điều Ngài nói sau đó cho ta thấy Ngài muốn đặt lại câu hỏi cho đúng: “Ai sẽ được cứu rỗi?” và “Muốn được cứu rỗi thì phải làm gì?”
“Ai sẽ được cứu rỗi?” Thưa: tất cả mọi người: “Thiên hạ sẽ từ Đông Tây Nam Bắc sẽ đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Vì thế, đừng ai nghĩ rằng bởi vì mình thuộc thành phần ưu tiên nên chắc chắn sẽ được cứu rỗi, bởi vì rất có thể khi đó họ phải ngỡ ngàng nghe Chúa nói “Ta không biết các ngươi từ đâu tới. Hãy cút đi cho khỏi mắt Ta”.
“Muốn được cứu rỗi thì phải làm gì?” Thưa “hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mười vào”. “Qua cửa hẹp” nghĩa là phải sám hối, phải uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, “ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”
* 2. Ai sẽ được cứu rỗi?
Thời Chúa Giêsu nhiều người Do Thái tưởng rằng ơn cứu rỗi chỉ dành riêng cho dân tộc họ mà thôi. Vì thế khi họ hỏi Chúa Giêsu “Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số ít người sẽ được cứu rỗi?” thì họ thầm mong Chúa Giêsu sẽ trả lời “Phải” để xác nhận quan điểm của họ.
Nhưng Chúa Giêsu đâu có muốn xác nhận một quan điểm hẹp hòi như vậy, và Chúa Giêsu cũng không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ. Nếu Chúa đáp “Phải” chỉ có một ít người sẽ được cứu rỗi” thì sẽ sinh hậu quả là những người Do Thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi: vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do Thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại nếu Chúa Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông” thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được rồi mà.
Chính vì những lý do nêu trên mà Chúa Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa nhắm đến phẩm chất: Ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một dân tộc nào, của một phe nhóm nào cả, mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy. Vì thế mà sẽ có những cảnh trớ trêu:
- Những kẻ trước hết sẽ có thể nên sau hết; ngược lại những kẻ sau hết có thể thành trước hết. Dân tộc Do Thái dù được biết Chúa sớm hơn hết nhưng nếu không sống theo Lời Chúa thì có thể đi sau các dân khác tuy biết Chúa muộn hơn nhưng đã biết sống theo Lời Chúa.
- Chúa còn nói:”Nhiều người từ đông sang tây nam bắc sẽ được mời vào nước Chúa đang khi con cái trong nhà bị đuổi ra”, nghĩa là có thể các dân tộc khác sẽ vào chiếm chỗ dân Do Thái vì các dân tộc ấy đã biết sống theo Lời Chúa.
Trên đây là ý nghĩa trực tiếp của đoạn Tin mừng, áp dụng cho dân Do Thái và các dân khác thời Chúa Giêsu. Còn ý nghĩa hiện thực áp dụng cho thời đại chúng ta ngày nay là: không phải hễ có rửa tội, có đạo, có dự lễ, rước lễ, xưng tội, đọc kinh, nghe giảng, v.v. thì đương nhiên sẽ được cứu rỗi đâu. Nhưng ơn cứu rỗi được ban cho bất cứ kẻ nào sống theo Lời Chúa, cho dù người đó có đạo hay là không có đạo. Thực vậy, có đạo mà không sống theo Lời Chúa thì không bằng người tuy không có đạo, không biết Chúa nhưng cuộc sống của họ lại theo đúng những điều Chúa dạy.
Giáo thuyết này đưa đến 2 quan niệm mới trong nền thần học ngày nay: (1) thứ nhất là quan niệm về những người Kitô hữu vô danh: đó là những người tuy không có đạo, nhưng vì cuộc sống của họ phù hợp với tinh thần Tin mừng nên vẫn được cái là Kitô hữu mặc dù họ không có danh hiệu Kitô hữu. (2) Còn quan niệm thứ hai là về những người “Kitô hữu ngoại đao”, nghĩa là những người tuy có đạo nhưng lại không sống theo tinh thần Tin mừng nên bị coi là ngoại đạo mặc dù họ có danh hiệu Kitô hữu.
Nếu danh hiệu không làm nên thực chất của người Kitô hữu, thì là cái gì? Thưa là cuộc sống được thể hiện qua những phản ứng của mình trước mọi tình huống trong đời.
Một nữ tu già ngồi sau một chiếc xe đạp, rồi có một chiếc xe hơi trên đó có một số cán bộ chạy lướt qua. Chiếc he hơi lái hơi ẩu nên chạm chiếc xe đạp làm cho bà sơ già té ngửa xuống, dập đầu xuống đường. Những cán bộ trên xe hơi vội vả xuống đỡ bà dậy. Mặc dầu đau lắm nhưng bà cố gắng nói “Không sao đâu các con, xin Chúa chúc lành cho các con”. Câu nói đột ngột đó làm cho các ông cán bộ kia vừa tức cười vừa nghĩ ngợi: tức cười vì các ông ấy đâu có tin Chúa mà cần tới phúc lành của Chúa, nhưng các ông phải nghĩ ngợi vì phản ứng đầy bác ái và đầy đức tin của bà sơ: chỉ có kẻ nào quá quen với tha thứ và lúc nào cũng luôn nhớ tới Chúa mới có thể thốt ra một câu như vậy”. Và sau đó những ông cán bộ ấy hay tới lui chăm sóc và thăm viếng vị nữ tu ấy, lòng rất mến phục.
Đó là những phản ứng, phản ứng thì lẹ làng, bất ngờ nhưng rất trung thực. Trước một tình huống xảy ra, trong lòng mình thế nào thì mình sẽ phản ứng đúng như vậy. Người nào chỉ có đạo trên danh nghĩa nhưng không quen sống theo Lời Chúa thì không thể nào có được phản ứng mang tính chất Kitô giáo đích thực. Như thế, thước đo của lòng đạo chúng ta chính là những phản ứng của chúng ta.
Thí dụ như khi bị trộm mất đồ, không ít người có đạo đã đi coi thầy bói để đoán xem ai đã lấy đồ của mình. Đây rõ ràng là phản ứng của người không đạo.
Còn ông Gióp khi dồn dập nhà cửa bị cháy rụi, các vật bị cướp đi, con cháu bị chết hết, bản thân mang chứng phong cùi gớm ghiếc đã biết nói “Xưa Chúa đã ban, nay Chúa lấy lại, xin ngợi khen Chúa”. Ông còn khuyên người khác “Mình biết lãnh nhận những ơn lành của Chúa thì sao không biết chịu đựng những thử thách của Chúa, . Đó mới là phản ứng của người có lòng đạo thực.
Thế nhưng không thiếu người cho rằng: sống giữa một xã hội đầy tráo trở mà phản ứng theo tinh thần Tin mừng thì là khờ dại quá. Xin hỏi lại: Thế thì đạo không có ăn nhập gì với cuộc đời sao? Con người chúng ta phải chia ra làm hai sao: một con người hiền lành lúc ở nhà thờ đọc kinh dự lễ và một con người tráo trở gian manh khi cư xử với người đời sao! Không được, con người chúng ta phải là một ở nhà thờ cũng vậy mà ở giữa chợ đời cũng vậy. Đạo chúng ta là đạo nhập thể vào đời chứ không phải chỉ là đạo ở nhà thờ.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói rằng không phải hể mang danh nghĩa là người Do thái ngày xưa, hay người Công giáo ngày nay là đương nhiên được ơn cứu rỗi; không phải hể có rửa tội, hễ có thường xuyên đọc kinh rước lễ là đương nhiên được ơn cứu rỗi. Nhưng ơn cứu rỗi là dành cho bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa và có những phản ứng hợp với tinh thần Tin mừng trong mọi tình huống cuộc đời.
Xin Chúa giúp chúng ta không chỉ là những người Kitô hữu trên danh nghĩa nhưng thấm nhuần tinh thần Kitô hữu trong cả cuộc sống, trong mọi cách suy nghĩ, lời nói, việc làm của mình.
* 3. Cửa nào Chúa đã đi qua?
Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đường. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào. Khi vị thánh giữ cửa thiên đường chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm: “Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào!” Và bà ta xoa tay vui sướng.
Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:
– Đó là nhà của bà.
Người nhà giàu hốt hoảng, choáng váng đầu óc:
– Nhà của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được?
Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt:
– Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi!
*”Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13, 30). Đó là bất ngờ đau đớn cho “những kẻ đứng đầu”. Họ là những người được Chúa ban cho giàu có nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp” mà vào được Nước Trời.
“Những kẻ đứng đầu” có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc. Thay vì dùng ơn lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, họ lại nuôi dưỡng tham vọng cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp” mà vào được Nước Trời.
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13, 24). Nếu Chúa đã bảo hãy “chiến đấu” tức là phải nỗ lực cố gắng thật nhiều, phải vất vả gian nan thật lâu, thì mới vượt qua được “cửa hẹp”. Nếu Chúa đã nhắc đến “cửa hẹp” thì phải hiểu là chỉ có những người bé nhỏ mới lách qua được, chỉ có những trẻ thơ mới vào được dễ dàng. Chúa phán: “Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không được vào” (Lc 18, 17).
“Cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7, 14), cửa hẹp đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở: Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khoá cửa lại” (Lc 13, 25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo dòng, vào các việc lành đã làm, vào tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.
Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang; cửa tiền tài, sắc dục, hư danh; cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến” (Lc 13, 27) (TP)
* 4. Thử thách giúp nên người
Ở một số bộ lạc da đỏ, có tục lệ sau đây: khi một trẻ trai đến tuổi thành niên, người cha của nó sẽ dẫn nó vào rừng, giao cho nó một cây giáo, sau đó người cha rút lui để lại nó một mình trong rừng suốt đêm hôm ấy. Trong đêm đó, nó sẽ phải một mình ở trong rừng, đối diện với nhiều nỗi sợ hãi: sợ cô đơn, sợ bóng tối, sợ thú dữ… Nếu nó hèn nhát đòi theo cha về nhà thì nó vẫn bị coi là trẻ con. Nhưng nếu nó chịu đựng được tất cả và sáng hôm sau rời khỏi khu rừng trở về với gia đình thì nó được chính thức công nhận là người một trưởng thành.
Nếu nói theo bài Tin Mừng hôm nay thì cái đêm khó khăn trong rừng ấy là cái “cửa hẹp”; còn nếu nói theo bài đọc II thì đó là “thử thách”. Có qua thử thách hay cửa hẹp đó thì chàng thiếu niên mới trở thành người.
Tại sao gian nan cực khổ giúp ta nên người?
- Vì nó thanh luyện tâm hồn
- Vì nó rèn luyện đức tính
- Và vì nó sinh nhiều hoa trái tốt
Chẳng những giúp ra nên người, gian nan cực khổ còn giúp ta nên người kitô hữu tốt:
- Sở dĩ Chúa cho phép gian nan cực khổ xảy đến với ta là vì Chúa biết nó có thể làm ích cho chúng ta. Nói ngược lại, nếu nó chỉ có hại thì Chúa đã không cho nó xảy đến với ta.
- Nó khiến ta tìm đến Chúa
- Nó giúp ta cảm nghiệm được quyền phép Chúa
- Nó giúp ta cảm nhận được tình thương của Chúa
- Và nó khiến ta biết thương xót những người gặp hoàn cảnh gian nan cực khổ như ta.
- Chuyện minh họa
a/ Cửa hẹp
Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có được một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh. ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (. . . ) Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài
b/ Tiếng Chúa
Thiên Chúa nói thì thầm trong cơn vui sướng của chúng ta; Ngài nói đủ nghe trong lương tâm của chúng ta; nhưng Ngài hô lớn trong những cơn đau của chúng ta (C. S. Lewis).
c/ Vào thiên đường
Một Rabbi Do Thái kia có đứa con theo Kitô giáo. Khi ông chết, Chúa Cha cho ông vào thiên đường. Nhưng ông nói:
– Lạy Chúa, con chẳng đáng vào thiên đường đâu, vì đứa con của con đã bỏ đạo Giavê để theo đạo Kitô.
– Có sao đâu! Đức Chúa Cha an ủi, Ta thông cảm, Ta thông cảm. Ngày xưa Con của Ta cũng thế!
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu rỗi hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin:
- Hội thánh luôn mời gọi con cái mình hiên ngang sống đức tin Chúa đã thương ban / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết thể hiện niềm tin của mình qua những việc làm cụ thể trong đời sống thường ngày.
- Ở bất cứ thời đại nào cũng đều có người thành tâm thiện chí đi tìm kiếm Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ những ai đang trên con đường tìm gặp gỡ Người.
- Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu hiểu rằng / chỉ khi đi vào con đường hẹp của Tin mừng / con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ / họ mới có thể đi tới sự sống đời đời.
- Chúa Giêsu nói: / Chỉ những ai thi hành thánh ý Chúa Cha / mới xứng đáng vào Nước Trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết hết lòng tuân giữ lề luật của Chúa, nhất là luật bác ái yêu thương.
Chủ tế: Lạy Chúa, chỉ nguyên danh xưng Kitô hữu chưa đủ bảo đảm cho chúng con vào Nước Trời, vì chúng con còn phải sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận nữa. Vậy xin Chúa củng cố đức tin còn yếu kém của chúng con. Chúng con cầu xin.
———————————————
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY VÀO QUA CỬA HẸP- Lm Giuse Đinh lập Liễm
- DẪN NHẬP.
Đức Giêsu đến trần gian mang theo sứ mạng đặc biệt là cứu rỗi mọi người không trừ ai. Sứ mạng này không phù hợp với quan niệm của người Do thái vì họ cho rằng họ là con cháu Abraham thì đương nhiên là sẽ được cứu rỗi, còn những người khác thì không. Vì thế mới có một người không biết là thành phần nào trong xã hội đã đến xin Đức Giêsu giải đáp cho mình một thắc mắc :”Thưa Thầy, những người được cứu thóat thì ít, phải không Thầy”?
Đức Giêsu không muốn trực tiếp trả lời cho câu hỏi này vì sẽ gây nên sự hiểu lầm. Nếu Ngài trả lời là “Đúng”, nghĩa là chỉ có ít người được cứu rỗi, thì làm cho người Do thái nghĩ rằng họ đương nhiên được ơn cứu thoát, rồi thì ỷ lại, không cần cố gắng nữa. Còn đối với những người khác thì nản lòng, vì họ có cố gắng thì cũng vô ích vì ơn cứu rỗi không được ban cho họ. Còn ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp là “không” nghĩa là “Ơn cứu rỗi sẽ được ban cho số đông” thì cũng làm cho họ ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắên được rỗi mà !
Vì lý do trên, Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, tức là đặc quyền của người Do thái mà chỉ vạch ra cho họ phương thế để được vào Nước Trời :”Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24). Theo Đức Giêsu, “Qua cửa hẹp” là phải sám hối, phải uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin mừng :”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “Qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng :”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý cha Ta ở trên trời mới được vào”. Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang, cửa tiền tài , sắc dục, hư danh, cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói :”Ta không biết các ngươi từ đâu đến”(Lc 13,27).
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 66.18-21.
Cộng đồng Giêrusalem sau cuộc lưu đầy còn gặp nhiều khó khăn. Qua vị tiên tri vô danh, mà đôi khi chúng ta gọi là Đệ tam Isaia, Thiên Chúa loan báo một cuộc qui tụ toàn thể nhân lọai về với Ngài. Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm thế giới, các dân sẽ tựu về và dâng lễ tại đó, một điều cấm kỵ cho đến bấy giờ.
Nhưng Israel sẽ không chịu phá bỏ rào chắn đối với dân ngọai, và Đức Giêsu đã phải trả bằng giá mạng sống mình cho nỗ lực cho việc phụng thờ Thiên Chúa hằng sống trở thành việc phụng thờ cho mọi dân nước.
Lời sấm này tiên báo về thời Đấng Thiên Sai sẽ đến, qui tụ muôn dân, tiêu chuẩn phân biệt duy nhất là sự thánh thiện.
+ Bài đọc 2 : Dt 12,5-7.11-13.
Thời đó, các Kitô hữu gốc Do thái gặp muôn vàn khó khăn từ đế quốc Rôma cũng như Do thái giáo. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy bình tĩnh và tin tưởng, vì lòng yêu thương con cái mình, Thiên Chúa dùng gian nan thử thách để giáo dục và chữa trị họ.
Thử thách, dù thế nào đi chăng nữa, cũng không cho phép ta nghi ngờ tấm lòng của Thiên Chúa yêu thương chúng ta như một người cha, chẳng khác nào cha dạy con hoặc thầy nghiêm khắc sửa trị trò. Thiên Chúa đối xử với chúng ta như con của Ngài. Ngài không phải là người cha cay nghiệt. Thiên Chúa có thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế họ đừng ngã lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng.
+ Bài Tin mừng : Lc 13,22-30.
Người Do thái thắc mắc muốn hỏi Đức Giêsu số lượng những người được vào Nước Trời. Thực ra, số lượng và lý lịch của những người được vào Nước Trời thì không quan trọng, mà vấn đề quan trọng là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.
Bài Tin mừng hôm nay có 3 ý tưởng chính :
- a) Khung cửa thì hẹp, người muốn vào thì đông, vấn đề là phải nỗ lực.
- b) Có lúc cửa sẽ khép lại mãi mãi, vì giờ cứu độ đã hết, vấn đề là đừng trễ nải.
- c) Việc ăn Tiệc trên Nước Trời chỉ dành cho những ai thành tâm theo Chúa, không ai có thể dựa vào lý lịch, địa vị… mà nghĩ rằng mình có quyền đương nhiên được nhập tiệc.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đi qua cửa hẹp mà vào.
- NHỮNG AI ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI ?
- Trên đường đi Giêrusalem.
Bài Tin mừng hôm nay nằm trong giai đọan cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem nhân ngày lễ Cung hiến Đền thờ. Ngài rảo qua các đô thị, làng mạc giảng dạy cho dân chúng. Ở những nơi này, Đức Giêsu giảng dạy hơn là làm phép lạ. Các đề tài được đưa ra rao giảng là : sám hối, việc cầu nguyện, sự từ bỏ, việc dân Do thái từ bỏ ơn Chúa.
- Một câu hỏi.
Có kẻ đến hỏi Đức Giêsu rằng :”Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít được cứu rỗi”?(Lc 13, 23). Tại sao người ta lại hỏi như vậy ? Chúng ta cần phải biết người Do thái có quan niệm thế nào về ơn cứu độ và đặc quyền của họ về vấn đề này.
Giáo trưởng Meir của người Do thái có viết :”Để được cứu rỗi, người ta phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do thái là ngôn ngữ thánh, và sáng chiều đọc kinh Shema”. Có lẽ ý tưởng này phát xuất từ quan niệm “tự tôn chủng tộc” của một số trường phái vốn từng hiện diện trong thời Đức Giêsu. Theo họ, ai có gốc Do thái đều được cứu độ hết.
Nhưng dù với quan niệm nào đi nữa, người Do thái vẫn không thể hình dung hay chấp nhận được việc dân ngọai buớc vào Nước Thiên Chúa. Thế nên mới có một người Do thái, không rõ thành phần nào, đã đến xin Ngài giải đáp thắc mắc :”Phải chăng chỉ có một số ít được cứu độ” ? Thắc mắc này cũng là thắc mắc của mọi người Do thái và cần phải được giải đáp.
- Một câu trả lời.
- a) Không trả lời thẳng.
Đức Giêsu không muốn giải đáp thắc mắc cho họ vì Ngài đâu có quan niệm hẹp hòi như họ, và vì vậy Ngài không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ.
Nếu Ngài đáp là “Phải” chỉ có một số ít người được cứu rỗi thì sẽ sinh hậu quả là những ngừoi Do thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi : vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ : “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông” thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được cứu rỗi rồi mà !
Tuy nhiên, như thánh Phaolô xác quyết :”Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ”(1Tim 2,4). Và Đức Giêsu thì nói :”Cha các con Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này”(Mt 18,14). Như thế, ơn Chúa không hề giới hạn theo khu vực, số lượng, song là tuôn trào đến khắp mọi nơi và cho hết mọi người. Nhưng như thế không có nghĩa là người ta “bị” cứu độ. Trái lại, họ luôn có tự do để đón nhận hay khước từ. Một chiếc ly không thể chứa được những gịot nước tươi mát của trời cao nếu chẳng bao giờ ngửa miệng ly lên để hứng. Cũng thế, để được hưởng thành quả của ơn thiêng, người ta phải mở rộng tấm lòng và hướng về cùng Thiên Chúa.
Chính vì lý do nêu trên mà Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa chỉ nhắm tới phẩm chất : ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một phe nhóm nào cả mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy.
- b) Phải hành động để được cứu độ.
Đức Giêsu không trả lời cho biết số lượng người được ơn cứu độ nhưng nhắc cho họ cách sống để được cứu độ, nghĩa là phải hành động.
Truyện : Đừng ảo tưởng.
Có một ông khách bộ hành phải đi qua một cái làng để đến một nơi mà ông ta không biết đích xác còn bao xa nữa thì mới tới được. Dọc đường ông ta gặp một bác tiều phu, liền dừng lại hỏi xem thử khoảng bao lâu nữa thì tới nơi mình muốn tới. Bác tiều phu nhìn ông khách rồi đáp ngay :”Tôi không biết”. Nghe thế, ông khách vội bước đi và nghĩ rằng người nhà quê đó không biết thật, chứ không phải khó tính khó nết. Nhưng khi vừa mới đi được vài bước thì bác tiều phu gọi với theo :”Này ông ơi, ông đi độ 15 phút nữa thì tới nơi đó”. Ngạc nhiên, ông khách quay trở lại hỏi bác tiều phu :”Tại sao khi nãy hỏi bác, bác trả lời không biết” ? Bác tiều phu thông cảm đáp:”Lúc ông hỏi tôi, ông chưa hành động nên chưa thấy bước đi của ông dài hay ngắn, mau hay chậm thì làm sao tôi có thể trả lời cho ông rõ ràng được” ? Như vậy, ta đi tới đích được hay không, sớm hay muộn là do nơi hành động của ta. Cũng thế, thành công hay thất bại trong cuộc đời là hệ tại nơi việc làm của ta như thế nào. Do đó, có một điều hết sức tai hại mà ta phải luôn cảnh giác đề phòng là đừng quá tin tưởng vào những suy đoán chủ quan, những ảo tưởng siêu thực để rồi thiếu cố gắng tích cực, không chịu khó hành động cụ thể, sẽ rước lấy nhiều hậu quả khôn lường.
Đó chính là tư tưởng chủ đạo mà qua bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta trên con đường đi theo Ngài, nghĩa là trong cuộc sống đạo để có thể đi tới đích là ơn cứu độ, điều quan trọng không phải cứ ngồi một chỗ mà suy đoán số phận tương lai, cũng không thể cậy dựa vào một vài ưu thế này nọ để rồi lên mặt đòi biệt đãi hơn kẻ khác, nhưng là phải chuyên chăm đưa ra thực hành những gì Chúa chỉ dạy. Muốn thế, phải biết lọai trừ những suy đóan sai lầm mà chúng ta thường mắc phải trong đời sống đạo…
- c) Đừng dựa vào gì khác.
Để được vào Nước Trời đừng ỷ lại vào gốc gác. Chính thánh Gioan Tẩy giả đã nói thẳng vào mặt những người biệt phái và bè Sađucêu :”Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụAbraham…”(Mt 3,7t). Đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng ăn uống trước mặt Ngài, và những người đã từng nghe Ngài giảng dạy. Có những người nghĩ rằng họ đã ở trong đạo Chúa thế là đã đủ rồi. Họ có ý phân biệt họ với đám dân ngọai. Nhưng con người sống trong Giáo hội của Chúa chưa chắc chắn đã là Kitô hữu, những người đó đang hưởng thụ các lợi ích, các tiện nghi mà những người đi trước đã xây dựng nên. Nhưng đó không phải là lý do để ngồi chơi, thỏa lòng và yên trí rằng mọi sự đều tốt đẹp cả. Ngược lại, chúng ta phải tự vấn :”Ta đã góp phần được gì vào di sản của người trước”. Chúng ta không thể sống bằng cái tất vay mượn của tiền nhân.
- ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI.
- Phải qua cửa hẹp mà vào.
Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu hỏi :”Phải chăng số người được cứu độ thì ít” mà Ngài chỉ nói :”Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24).
- a) Cửa hẹp là gì ?
Hình ảnh về cửa hẹp được Đức Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời đại của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bằng vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt chẽ vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành phố và trở về trễ sau khi các cổng đã đóng chặt rồi thì sao ? Có ai mở cổng cho họ vào ? Không ! Khi cổng đã đóng rồi không ai được mở ra vì sợ bọn cướp hay quân địch ẩn núp trong bóng tối sẽ có thể tấn công bất ngờ.
Những người trở về trễ phải khép mình chui qua một cái cửa hẹp. Những cái cửa hẹp này còn được gọi là “mắt của cái kim” –“the eye of the needle”. Cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý.
Trong Luca chương 18, câu 25 :”Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là “cửa hẹp”. Người đi buôn với hàng hóa cồng kềnh chất đầy trên lưng lạc đà không thể đi qua cửa này được. Phải vứt bỏ tất cả hàng hóa và hành lý xuống. Con lạc đà phải cúi đầu, khòm lưng và quì gối xuống may ra mới lọt. (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa…, năm C, tr 290-291).
- b) Cửa rộng là gì ?
Là con đướng rộng thênh thang dễ đi. Đa số quần chúng chọn đi con đường này vì đó là những giây phút khóai lạc mau qua của trần thế mang lại. Con đường nay tuy thoải mái dễ chịu nhưng lại là con đường của những người dại khờ, nó không phải là con đường của Thiên Chúa. Bề lâu bề dài nó không dẫn tới đâu cả. Và cuối cùng chỉ là sự trống rỗng.
Truyện : Khoái lạc trong một đêm.
Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ :”Nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (,,,)Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài.
- c) Bước qua cửa hẹp là gì ?
Khi Đức Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bo,û “từ bỏ” hết mọi của cải trần gian. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật. Và đi qua cửa hẹp thì phải đi qua một mình, cô đơn. Nhưng Thiên Chúa luôn cùng đi với ta. Đó là “con đường hy sinh và vất vả”. Nhưng lại là con đường của những người khôn ngoan và thận trọng dẫn đến nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.
Bước qua cửa hẹp còn có nghĩa là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Bước vào cửa hẹp còn là nhìn vào chính con người chúng ta như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta và bước đi dưới con mắt của Ngài, vì biết rằng Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc sống của chúng ta.
- d) Phải vào đúng lúc là gì ?
“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25). Cánh cửa đã hẹp nay lại đóng kín. Thời gian hết sức cấp bách, phải bước vào ngay, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải bước vào Nước Trời.
Đây là giờ của ơn thánh. Ơn Chúa không bao giờ thiếu, nhưng phải biết đáp ứng. Vì thế, mỗi giây phút hiện tại, mỗi biến cố xẩy đến trong cuộc đời ta đều mang một ý nghĩa vì nó sẽ đem ta vào Nước Trời hay chặn ta lại trước cánh cửa Nước Trời đang đóng lại. Tuy nhiên về ơn Chúa ta không thể biết đâu là đầu, là chót, là quyết định hay không. Nhưng chính sự mập mờ bấp bênh này càng làm cho ta phải dứt khóat lựa chọn và theo Chúa trong mỗi giây phút hiện tại.
- Qua cửa hẹp là phải chiến đấu.
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp về số lượng người được rỗi và chỉ nói đến cách thức để được cứu rỗi. Ngài nói :”Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24). Ngài không muốn trấn an, Ngài muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Ngài dùng hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Thánh Kinh : Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Ngài thêm : người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”.
Từ Hy lạp mà chúng ta dịch là “chiến đấu” là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động tự Hy lạp : Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Giếtsimani và đồi Golgotha. Trong một đọan văn khác, Ngài đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời”(Mt 11,12; Lc 16,16).
(Quesson).
Con đường chiến đấu khác nào một cuộc leo núi mà đỉnh chót không bao giờ đạt được ở trần gian này. Người ta nói về hai người leo núi nổi tiếng đã chết trên ngọn Everest rằng: “Khi người ta thấy họ lần cuối cùng thì họ vẫn hăng hái tiếân lên đỉnh núi”. Người ta ghi khắc vào bia mộ một hướng dẫn viên leo núi Alpes chết ở sườn núi rằng :”Chàng chết lúc đang lên”. Con đường Kitô hữu phải đi là con đường đi lên,tiến lên, tiến mãi.
Tổng thống Washington có khuyên một câu thật chí lý :”Không nên chỉ đánh giá thành công qua địa vị mà con người đạt được trong cuộc sống, nên đánh giá sự thành công qua những trở ngại mà người đó khắc phục được”.
Cuộc đời có biết bao lôi cuốn cam go, nhưng chỉ khi can đảm, không thỏa hiện hay nhân nhượng với kẻ thù, người ta mới có thể nói được như thánh Phaolô :”Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2Tm 4,6-8).
Nhiều khi huấn luyện để ta trở nên người chiến binh dũng mạnh hầu chiến đấu đến cùng đường, Thiên Chúa cũng phải “quở trách… sửa dạy… và đánh đòn”(Dt 12,5-6). Aâu cũng vì thương con mà “cho roi cho vọt” và “có gian nan mới tạo anh hùng”.
Truyện : Muốn vào hàng trai tráng.
Trong nhiều bộ lạc Da đỏ Mỹ châu họ hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng, người ta tổ chức như sau : Khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ :”Con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.
Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rùng rợn. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.
Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ hừng sáng. Nỗi sợ hãi trong đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện : cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên :”Bố đã trở lại”. Người cha hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.
Để trở thành chiến binh anh dũng trên mặt trận đức tin, lắm khi chúng ta cũng phải chấp nhận biết bao thách đố trong bóng đêm cuộc đời. Những đe dọa của sự dữ, gầm rú của đau khổ, rình chờ của xác thịt như những phương thế giúp tinh luyện lòng ta thêm can trường dũng mãnh. Và trong suốt chiều dài của bóng đêm đó, dù ta có ý thức hay không, Thiên Chúa vẫn luôn ở bên cạnh dõi mắt trông nhìn chúng ta.
- Qua cửa hẹp còn là sám hối, hoán cải.
Đối với những người Do thái họ tưởng rằng mình đương nhiên có thể vào Nước Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu nói:”Các ông hãy sinh trái cây thống hối, nếu không, địa vị ưu đãi của các ông sẽ chẳng có ích gì”.
Đức Giêsu cho biết hoán cải là một phương thế cần thiết để được vào Vương quốc. Và Ngài tiếp tục đem sự hoán cải đến với phần lớn những người không có gì hứa hẹn. Nhiều người tội lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi hoán cải của Ngài và họ đã lên đường tiến tới Vương quốc. Trong khi nhiều người có đạo đã ngoan cố chống lại lời kêu gọi hoán cải của Ngài và do đó, tự loại mình ra khỏi Vương quốc.
Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ở đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các tiên tri ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình thì lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”(Lc 13,28-29), cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời sẽ bị lọai trừ một cách độc đóan bởi sự độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là bức biếm họa về Thiên Chúa ! Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy trở thành một cánh cửa rộng mở cho mọi người không phân biệt.
Chúng ta phải khẳng định hai điều :
* Về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người không trừ ai.
* Về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu.
- Những kẻ chót sẽ lên hàng đầu.
Đức Giêsu nói:”Và kìa những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13,30). Đây là thành ngữ của người Do thái nhằm diễn tả sự đảo ngược thứ tự. Thành ngữ này được dùng nhiều trong Tin mừng (Mt 19,30; 20,16; Mc 10,31). Theo mạch văn bài Tin mừng trên thì qua thành ngữ này, Đức Giêsu có ý bác bỏ “quyền ưu tiên truyệt đối” (Theo quan niệm của một số người Do thái) rằng dân Do thái là dân riêng của Chúa thì đương nhiên sẽ được vào Nước Trời dù sống thế nào đi nữa (Mt 3,9-10; Ga 8,33t).
Ở đây không có ý áp dụng cho mọi cá nhân, nhưng Đức Giêsu có ý so sánh toàn thể dân Do thái, từ khi Ngài xuất hiện, với toàn thể lương dân. Khi đề cập đến hai nhóm đó, Ngài công bố có nhiều người lương sẽ được cứu rỗi trước người Do thái, và ngay cả cộng đoàn toàn thể lương dân sẽ vào Nước Trời trước cộng đoàn Do thái. Giáo huấn này được thánh Phaolô nhắc lại trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 11,25-26). Giáo huấn này được ứng nghiệm trong Giáo hội sơ khai (Cv 13,46-48; 28,25-28).
Sẽ có những bất ngờ trong Nước Thiên Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này sẽ có thể rất thấp kém trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những vương tử ở đời sau.
Truyện : Có sự đảo ngược.
Một người đàn bà giầu sang được thế gian này rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng thì có một thiên sứ đưa bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dẫy phố chính ở trên trời, tới khu ngọai ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều một chút. Thiên sứ bảo :”Đây là nhà của bà”. Bà nói :”Cái gì vậy ? Tôi không thể nào sống trong đó”. Thiên sứ đáp :”Tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu mà bà đã gửi lên đây”! Các tiêu chuẩn trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời…
Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải quyết tâm đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào qua cửa hẹp, đây là điều kiện mà tiếng La tinh gọi là ‘conditio sine qua non”, điều kiện bắt buộc, không có không được. Chúng ta đã có nhiều bài học do tiền nhân để lại như :
– Nước chảy đá mòn.
– Kiến tha lâu đầy tổ,
– Có công mài sắt có ngày nên kim.
Thì trên phương diện siêu nhiên thì cũng thế, vì Chúa đã phán :”Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo” hoặc :”Ai bên đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”.
Cung thế, nếu ở đời :”Có khó mới có miếng ăn” hoặc “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc Nước Trời cũng đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được. Tương lai đang chờ đón ta !
————————————————-
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CHÚA MUỐN CỨU ĐỘ HẾT MỌI NGƯỜI- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta”. (Is 66,18). Những lời trên của tiên tri Isaia, được vang lên trong phụng vụ, làm nổi bật chủ đề về ơn cứu độ phổ quát. Quả thật, bước vào Chúa nhật thứ XXI thường niên C, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta can đảm đi vào cửa hẹp là cửa dẫn tới ơn cứu độ phổ quát đời đời, đúng như Tin Mừng Luca loan báo: “Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa” ( Lc 13, 30)
Hiến chế Ánh sáng muôn dân số 1-2 của Công Đồng Vaticanô II khẳng định: Ánh sáng muôn dân chính là Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Phúc Âm cho mọi tạo vật (x. Mc 16,15). Vì Giáo hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại… Những hoàn cảnh hiện tại làm cho nhiệm vụ của Giáo Hội thêm khẩn thiết hơn, để ngày nay mọi người liên hệ chặt chẽ hơn bởi nhiều ràng buộc xã hội, kỹ thuật, văn hóa, cũng được hiệp nhất trọn vẹn trong Chúa Kitô.
Bởi ý định khôn ngoan nhân lành, hoàn toàn tự do và mầu nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ; Ngài đã quyết định nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh, và Ngài đã không từ bỏ con người sa ngã trong Adam, nhưng luôn ban sự trợ giúp để họ được cứu rỗi, nhờ Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, “là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, Con đầu lòng của tạo vật” (Col 1,15). Thực vậy, từ muôn thuở tất cả mọi người được tuyển chọn, Chúa Cha “đó được trở nên Trưởng Tử trong nhiều anh em” (Rm 8,29). Thế nên Chúa Cha muốn qui tụ những ai tin kính Chúa Kitô vào trong Giáo Hội. Từ nguyên thủy, Giáo Hội được phác thảo bằng hình bóng, được chuẩn bị kỳ diệu trong lịch sử dân Israel và trong giao ước cũ, được thành lập trong thời cuối cùng, và được biểu hiện lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống, rồi đến ngày tận thế sẽ kết thúc trong vinh quang. Bấy giờ, như chúng ta đọc thấy nơi thánh Grêrôriô I, mọi người công chính từ Adam, “từ Abel công chính đến người được tuyển chọn cuối cùng” sẽ được tập họp trong Giáo Hội phổ quát bên Chúa Cha. Hiến chế Giáo hội “Lumen Gentium”, 1-2
Bài đọc I, Isaia khuyến khích dân chúng lưu đầy trở về, đây là điều cần thiết. Trên đường hồi hương, phải nhiệt thành không trễ nải, vì Đền thờ bị phá hủy, vua bị truất ngôi, đất đai bị người ngoài chiếm đóng. Giữa lúc đó, dân ngoại sống trà trộn với dân Do thái không đi đày, và dân Do thai tự hỏi nhau : Thiên Chúa mà cha ông họ ở Giêrusalem tin có còn không ? Isaia cho biết Thiên Chúa vẫn giữ với lời hứa: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc…sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cưỡi ngựa, đi xe, đi võng, cưỡi la, cưỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem”. (Is 66, 18-21)
Về phần mình, Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa. Trên thực tế, kiểu nói, “sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc” dân ngoại, nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng là lời hứa tất cả mọi dân trên toàn cõi địa cầu. Ở đây, lời hứa : ơn cứu độ phổ quát cho toàn dân. Từ nay, anh em sẽ được hiểu là dân ở giữa dân ngoại. Quả thật, Thiên Chúa loan báo: “Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ”, và Ngài kết luận: “Trong những dân đó, Ta sẽ chọn các tư tế, các thầy Lêvi”.
Vậy là Thiên Chúa tự mạc khải mình là Đấng trung thành, giữ trọn điều đã loan báo. “Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời” (Tv 116,2).
Thư gửi tín hữu Do thái nói với chúng ta rằng “Khi Thiên Chúa yêu ai, thì Ngài sửa dạy người ấy, vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt” (Dt 12, 5-7.11-13).
Thiên Chúa không muốn cứu chúng ta mà không cần chúng ta! Và đây chính là lý do Đức Giêsu mời gọi chúng ta đi vào cửa hẹp. Các bản văn Chúa nhật tuần này gợi lên câu hỏi về tương quan giữa ta với Thiên Chúa. Nghe lời Đức Giêsu dạy mà thôi chưa đủ, cần phải sẻ chia cùng tấm bánh là chính Đức Giêsu, để được cứu chuộc. Chúng ta cam kết với nhau hoán cái, không ngừng đào sâu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa khi đổi mới cách nghĩ của chúng ta và từ bỏ gắn bó với những thứ không cần thiết ở thế giới chóng qua này. Nói cách khác, chúng ta ngoảnh mặt trước cái tôi vụ lợi, lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Chính Ngài là cửa hẹp (x. Ga 10). Chỉ có nơi Thiên Chúa, chúng ta mới có thể được cứu độ và được phục sinh, vượt qua cái chết với tất cả những quan niệm hạ giới để bước vào thượng giới của Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Thiên Chúa trung thành, xin ban ơn sức mạnh cho chúng con, để với ơn Chúa, chúng con có được Chúa là Đấng mang lại cho chúng con gia nghiệp muôn đời Chúa hứa. Amen.
——————————————–
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
HÃY VÀO CỬA CỦA SỰ SỐNG- Jos.Vinc. Ngọc Biển
Thiên Chúa là Cha yêu thương hết mọi người, vì thế, Người không loại trừ ai. Khi đến trong trần gian, Đức Giêsu đã thi hành sứ mạng ấy và không ngừng loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa cho mọi người. Nhưng, sứ mạng này đã không làm cho người Dothái hài lòng, bởi lẽ họ luôn nghĩ chỉ mình dân tộc Israel mới được Thiên Chúa thương và cứu chuộc, còn các dân tộc khác chỉ là dân ngoại.
Chính vì lý do này, mà hôm nay, một người đã đứng lên hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, những người được cứu thoát thì ít, phải không Thầy”?
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không trả lời cho biết số lượng và thành phần được cứu, mà nhân cơ hội này, Ngài đã vạch ra cho họ một con đường để được cứu chuộc, đó là: “Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24).
- Bối cảnh tạo nên lời giáo huấn
Thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta thấy câu chuyện được đặt vào giai đoạn Đức Giêsu tiến về thành Giêrusalem nhân dịp lễ Cung hiến Đền thờ.
Trên hành trình này, Đức Giêsu đã rảo qua các làng mạc, thị trấn để giảng dạy cho dân chúng. Ngài dạy họ phải sám hối, cầu nguyện và từ bỏ những thứ trái ngược với đức tin và đạo lý Tin Mừng để được cứu chuộc.
Khi nghe Đức Giêsu giảng, có một người đã cất tiếng hỏi Ngài: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít được cứu rỗi?” (Lc 13, 23).
Câu hỏi này mang tính tập thể, bởi vì nó được khởi đi từ quan niệm độc tôn chủng tộc của người Dothái. Bởi vì người Dothái luôn nghĩ rằng: chỉ có những người thuộc dòng dõi con cháu Apraham, và phải ở trên phần đất mà cha ông truyền lại, hay ít ra là phải nói tiếng Dothái, vì đây là Tiếng Thánh, rồi phải sớm tối đọc kinh Shema thì mới được cứu độ.
Khi quan niệm như thế, họ đã loại bỏ hết những thành phần của các dân tộc khác và không chấp nhận lời rao giảng của Đức Giêsu về ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc.
Thừa hiểu được tâm trạng tự kiêu, tự đại, độc tôn, đặc lợi mà những người Dothái tự nhận cho mình, Đức Giêsu đã dạy cho họ một bài học.
Tuy nhiên, Ngài đã không trực tiếp trả lời câu hỏi được đưa ra. Bởi lẽ Đức Giêsu đến không phải để thỏa mãn tính tò mò của con người. Vì thế, Ngài từ chối trả lời các câu hỏi phụ thuộc.
Thật vậy, nếu trả lời là: “Chỉ có một số ít được vào”, thì phải chăng lại khơi lên tính tự mãn nơi dân tộc vốn có cái nhìn ích kỷ và hẹp hòi này, và lẽ đương nhiên, họ không cần cố gắng nữa vì nghĩ rằng: số ít ấy chính là dân tộc Dothái. Còn nếu Đức Giêus nói là: “Số người được cứu sẽ rất đông”, thì cũng sẽ làm cho mọi người thờ ơ, ỷ lại và cũng không cần cố gắng làm chi, vì đàng nào thì ơn cứu chuộc cũng sẽ đến với mình.
Chính vì lý do trên, mà Đức Giêsu đã không trả lời theo số lượng, nhưng Ngài nhắm tới phẩm chất. Bởi vì: ơn cứu chuộc là của Thiên Chúa, và Ngài ban cho hết mọi người, moi nơi và mọi thời, miễn sao những người muốn được cứu phải đi theo con đường của Thiên Chúa.
Chính thánh Phaolô cũng đã xác quyết rằng: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Và Đức Giêsu thì nói: “Cha các con Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này” (Mt 18,14).
Nói như thế, không có nghĩa là cứ muốn vào là được, hay cứ ngồi lỳ và ỷ nại vào ơn Chúa, lại càng không phải cậy dựa vào uy thế của bản thân, hay dân tộc… Điều này cũng được Gioan Tẩy Giả nhắc nhở những người Pharisêu và Sađucêu: “Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụAbraham…” (Mt 3,7t).
Vì thế, muốn được cứu, phải chiến đấu để mà vào. Không cố gắng sẽ chẳng được vào, vì con đường đưa tới ơn cứu chuộc là con đường hẹp.
- Muốn vào được Nước Trời, phải đi qua cửa hẹp
Khi nói đến vấn đề cửa hẹp, chúng ta cần hiểu biết thêm rằng:
Ở đất nước Dothái thời Đức Giêsu, dân chúng sống trong các thành phố và làng mạc được bao bọc bởi những bức tường thành. Thời đó không có đèn điện. Vì thế, khi trời tối, các cổng dẫn vào thành phải được đóng cẩn thận và các cửa vào nhà cũng được đóng kín để tránh nguy cơ trộm cướp ban đêm.
Chính vì thế, mà những người đi ra khỏi thành, nếu về trễ thì không thể vào được cổng chính, vì các cổng chính đã đóng chặt và không ai dám mở cửa cho vì sợ kẻ thù tấn công…
Họ chỉ có thể lách vào các cổng phụ, còn gọi là cửa hẹp. Người Dothái cũng gọi cửa này là: “Mắt của cái kim”. Vì thế, chúng ta mới hiểu tại sao thánh sử Luca có nhắc đến ở chương 18, câu 25: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là “cửa hẹp”. Thời đó người đi buôn thường chất đầy hành lý trên lưng lạc đà, muốn qua cửa hẹp thì phải vứt bỏ hết tất cả, và con lạc đà phải khom mình, quỳ gối thì mới mong lọt qua cửa này.
Khi Đức Giêsu lên tiếng mời gọi bước qua cửa hẹp, ấy là Ngài muốn mời gọi người đương thời phải từ bỏ những thứ không cần thiết và sẵn lòng bước qua cửa hẹp. Lời mời gọi ấy chính là biết sống chừng mực, thực thi huấn lệnh của Thiên Chúa cách trung thành và biết hy sinh cũng như chấp nhận mọi khó khăn… phải sống tự chủ và sống có trách nhiệm.
Tuy nhiên, không phải dửng dưng và nghĩ rằng: muốn vào lúc nào thì vào, không! Phải bước vào đúng lúc, đúng nơi, đúng giờ, vì: “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại” (Lc 13,25).
Như vậy, lời mời gọi phấn đấu để vào qua cửa hẹp, ấy chính là sự hoãn cải thường xuyên.
Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng.
- Sứ điệp Lời Chúa
Con người thời nay thường chịu ảnh hưởng bởi nền văn minh hưởng thụ. Họ có khuynh hướng ăn sổi ở thì, chụp giật chớp nhoáng…
Lựa chọn này không chỉ dừng lại ở ngoài xã hội, nhưng nó còn ảnh hưởng và chi phối ngay cả đến đời sống đạo của nhiều người tín hữu. Vì thế, dù có đạo hay không có đạo, dù là Công Giáo hay tôn giáo khác, người ta thường chọn cho mình một sự thoải mái dễ chịu, không muốn gò bó.
Chẳng hạn như: theo đạo nhưng không muốn thực thi Lời Chúa, vì Lời Chúa làm ta phải dẹp bỏ nhiều thứ không phù hợp. Đi lễ phải lựa chọn cha. Cha nào giảng ngắn, giảng hay thì đi… Ít khi đi sớm, đến cận kề giờ lễ mới tới. Đến rồi thì viện đủ mọi lý do để ở ngoài theo kiểu đi lễ “ôm” và đi lễ “lòng vòng”. Lại có người thích giữ đạo theo kiểu “gốc cây”. Họ cũng chọn nhà thờ, nào là nhà thờ đẹp, rộng thoáng mát, và có ghế nệm êm, máy lạnh…
Khi tham dự thánh lễ, nếu cha giảng những giáo huấn của Giáo Hội mà đụng chạm đến cuộc sống của ta là khùng lên và tỏ vẻ khó chịu…
Lại có những người thường ưa nói hành, nói xấu người khác hơn là nhận ra và đón nhận điều tốt nơi anh chị em. Hay vẫn còn những người dùng tiền của công khó của cha mẹ, bản thân hay của người khác vào những chuyện bất chính… Rồi cũng không thiếu những bạn trẻ lao mình vào rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút chích…
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng “đi qua cửa hẹp”, tức là phải từ bỏ những thứ không cần thiết và hãy cố gắng để thay đổi cách sống cho phù hợp với đạo lý Tin Mừng. hãy biết cẩn trọng trong việc lựa chọn, bởi vì, cửa hẹp sẽ đẫn đến sự sống, còn cửa rộng và lối thênh thang như tiền của, sắc dục, và sự dễ dãi sẽ dẫn đến cái chết trầm luân muôn kiếp. Mặt khác, Lời Chúa còn nhắc cho chúng ta biết vào đúng lúc, đúng giờ, bởi vì: hãy sám hối khi ta còn có thể và có cơ hội, kẻo lỡ quá muộn, chúng ta sẽ không còn cơ hội nữa, lúc đó không ai cho vào và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ bị quăng vào nơi khóc lóc và nghiến răng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đi trên con đường của Chúa đã đi, đó là con đường hẹp. Xin cho chúng con luôn biết khước từ những con đường thênh thang rộng rãi, vì con đường này sẽ dẫn đến diệt vong. Amen.
———————————————-
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CỬA HẸP- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin Mừng hôm nay nói đến hình ảnh cửa hẹp. Cửa hẹp là cửa khó đi qua, chỉ dành cho ít người. Kinh Thánh dùng hình ảnh cửa hẹp để chỉ những đòi hỏi của Nước Trời.
Hẹp ở đây không có nghĩa là hẹp hòi hay kém giá trị. Tính từ hẹp chỉ sự thách đố, chông gai, đòi hỏi nổ lực để kiên vững bước đi. Hẹp chỉ sự khó khăn, vất vả, từ bỏ, cần phải “chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”.
Các bài đọc Thánh Kinh hôm nay nói về cửa vào Nước Trời tuy hẹp nhưng không chật mà vẫn rộng thênh thang.
- Cửa hẹp mà không chật
Trong bài đọc 1, Tiên tri Isaia trình bày ý định của Thiên Chúa là muốn qui tụ mọi dân tộc, mọi quốc gia thành một dân duy nhất tin vào Ngài, đến với Ngài và hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài. Điều kiện phải có là lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa.
Tác giả thư Do thái trong bài đọc 2 viết rằng: vì những ai được Chúa thương thì Ngài sẽ nhận làm con. Chúa thương ai thì mới sữa dạy người ấy và có nhận ai làm con mới cho roi cho vọt. Điều kiện là vâng nghe Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Ngài khiển trách.
Bài Tin Mừng nói đến sự nổ lực suốt hành trình đức tin. Vì tất cả mọi người đều được mời gọi vào nhà Chúa Cha và được tham dự Bàn tiệc Thiên quốc. Không phải ai muốn vào cũng được. Cửa hẹp, muốn vào cần phải nỗ lực. Nổ lực sống thực thi ý Chúa, nổ lực trung thành với niềm tin của mình, nổ lực sống tình bác ái yêu thương.
Bất luận là ai cũng có thể được vào Nước Trời, miễn là phải cố gắng. Người ta sẽ từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam vào dự tiệc Nước Trời. Tất cả là do nổ lực và thành tâm thiện chí của mỗi cá nhân; không do định mệnh, không do đặc quyền đặc lợi, cũng không có chế độ ưu tiên nào, chỉ có sự tự do và quyết tâm đi vào của mỗi người trong đức tin mà thôi.
- Nước Trời rộng, muốn vào phải có điều kiện
Người Do thái thắc mắc muốn hỏi Đức Giêsu số lượng những người được vào Nước Trời. Số lượng và lý lịch của những người được vào Nước Trời thì không quan trọng, vấn đề chủ yếu là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Nước Trời rộng bao la, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi buộc phải có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.
– Phấn đấu hạ mình xuống.
Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên, nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để hạ mình xuống. Sống tinh thần yêu thương phục vụ anh em. Chúa dạy rằng: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14, 11); “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối” (Lc 14, 10); “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 26); “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10, 15). Cần phải biến đổi và tự hạ để có thể vào được Nước Thiên Chúa (Mt 18,3-4).
– Phấn đấu để bé nhỏ lại.
Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra, trái lại người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ đi: “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19, 21); “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3). Phải trở nên nhỏ bé như trẻ thơ thì mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).
- Cửa hẹp dẫn vào Nước Trời mênh mông
Thiên Chúa đến với con người qua khung cửa hẹp.Thiên Chúa sai Con Một xuống thế làm người hiến thân chịu chết khổ đau trên thập giá vì loài người và để cứu rỗi muôn người. Thiên Chúa chọn con đường hẹp để mở lối vào khung trời bao la của tình thương. Tình thương cao cả cúi xuống với thân phận thấp hèn của con người. Sau cửa hẹp là tình thương rộng lớn của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Đức Giêsu đã qua. Con người đến với Thiên Chúa cũng phải qua khung cửa hẹp. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Đức Giêsu hạ mình xuống và bé nhỏ đi. Chỉ những ai hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là khung cửa hẹp mà chính là bản thân mình quá cồng kềnh với những thứ danh vọng chức quyền tiền bạc. Chấp nhận thanh tẩy cần thiết, trút bỏ vướng víu để nhẹ nhàng qua khung cửa hẹp mà đến với sự sống đời đời. Sau khung cửa hẹp là tình thương đẹp ngời Thiên Chúa mở ra cho vận mệnh con người.
Cửa Nước Trời không làm bằng vật chất, nhưng là Lề Luật và các phương tiện nên thánh. Nước Trời vừa mang tính hữu hình, vừa mang tính thần thiêng. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật.Vào cửa hẹp phải đi qua một mình, từng người một.Bước qua cửa hẹp là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian.Cửa hẹp nên để qua phải hy sinh, vất vả. Đứng trước cửa hẹp, ai lại không ngần ngại, ai dám khẳng định con đường cứu độ thật dễ dàng, ai dám tự hào về thành công bản thân? “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Lối vào dẫn tới nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.
Khung cửa hẹp, con đường hẹp là con đường tu đức Chúa Giêsu dạy cho chúng ta, nhưng đó không phải là mục tiêu. Mục tiêu là ơn cứu độ, là hạnh phúc, là niềm vui, là Nước Trời, là tình yêu và sự sống mà Chúa dành cho con người. Mục tiêu ấy chúng ta chưa đạt được cách trọn vẹn ở đời này, nhưng cũng đã đạt được một phần nào ngay trong hành trình của cuộc sống đời thường.
Hãy bước theo Đức Kitô. Hãy trở nên giống Ngài bằng cách chấp nhận những thử thách, những thập giá. Vì đó là khung cửa hẹp, chúng ta cần phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh cửu, đón nhận vinh quang phục sinh. Một cuộc “chiến đấu” để cuối cùng có thể nói được như thánh Phaolô: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2Tm 4,6-8).
——————————————-
CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN – NĂM C
CÁNH CỬA NƯỚC TRỜI- Trích Logos năm C
Thành Phố Hồ Chí Minh đang chuẩn bị một dự án lớn : thực hiện 5 cổng chào ở 5 cửa ngõ vào Thành Phố. Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố đã mở ra cuộc thi thiết kế biểu tượng của 5 cổng chào đó. Có 7 đề án được chọn để trao giải, trong đó có đề án “Đôi Chim Hạc” của hai kiến trúc sư trẻ Trần Xuân Hồng và Nguyễn Như Hải được trao giải nhất với phần thưởng trị giá 50 triệu đồng. Đề án “Đôi Chim Hạc” là biểu tượng của cửa ngõ Miền Đông dẫn vào Thành Phố Hồ Chí Minh sẽ được xây dựng trên xa lộ Hà Nội. Đề án của chiếc cổng chào này mang hình ảnh hai con chim hạc vĩ đại chụm đầu vào nhau tạo thành cái cổng lớn đón chào mọi người đi vào Thành Phố. Sở dĩ biểu tượng này được chấm giải nhất vì đã khơi gợi lên những hình ảnh quen thuộc của người dân Việt Nam như cái luỹ tre, cái cổng làng…Và điều quan trọng hơn từ hình ảnh hai con chim hạc đang vươn cổ nói lên khát vọng vươn lên của dân tộc Việt Nam.
Cửa ngõ vào một thành phố hay một đất nước luôn là những cánh cửa mở rộng, lộng lẫy và to lớn cuốn hút mọi người đi vào. Nhưng lối vào Nước Trời thì ngược lại : ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua cửa hẹp như lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay : “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Cánh cửa vào Nước Trời nhỏ hẹp vì Nước Trời luôn là một mầu nhiệm được ẩn giấu mà chỉ có những người cố gắng tìm kiếm mới gặp thấy và biết “thu nhỏ” mình lại mới đi qua được.
Trong cuộc đời mình, chúng ta đã từng đi qua nhiều cánh cửa : cánh cửa vật chất để đi vào một ngôi nhà, cánh cửa tinh thần mở ra một tương lai tươi sáng, cánh cửa trí tuệ để chúng ta bước vào thế giới tri thức. Còn Chúa Giêsu là cánh cửa nhiệm mầu để qua Ngài, chúng ta gặp được niềm hạnh phúc vĩnh cửu : “Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì được cứu” (Ga 10, 9).
CHÚA GIÊSU, CÁNH CỬA NHIỆM MẦU
Chúa Giêsu, cánh cửa ánh sáng.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra một khung trời đầy ánh sáng. Chúa đã nói : “Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng được ánh sáng ban sự sống” (Ga 8, 12). Tất cả những ai đến với Chúa sẽ nhận được ánh sáng chiếu soi đời mình. Chúa mở mắt cho người mù để họ nhìn thấy ánh sáng cuộc đời. Chúa mở trái tim những người khốn cùng để họ tìm thấy hạnh phúc. Quả thật, Chúa Giêsu đã mở ra cho người đang sống trong bóng tối sợ hãi và thất vọng một chân trời sáng của niềm tin và hy vọng.
Chúa Giêsu, cánh cửa sự sống.
Ngày xưa, như người Mục Tử Tốt Lành, Chúa là cửa đàn chiên, mở ra cho đàn chiên nguồn sức sống mãnh liệt nơi cánh đồng cỏ xanh và dòng suối trong lành (Ga 10, 1-10). Ngày nay, Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra cánh đồng cỏ ân sủng cho một thế giới đang đói khát tình thương. Mỗi ngày, Ngài vẫn tiếp tục mở cánh cửa kỳ diệu của bí tích Thánh Thể cho sự sống thần linh tuôn trào vào mọi tâm hồn.
Chúa Giêsu, cánh cửa tình yêu
Chúa Giêsu đã đến với mọi người bất kể sang hèn, công chính hay tội lỗi, ai cũng có thể đến gõ vào cánh cửa tình thương của lòng Ngài. Ngài sẵn sàng mở rộng cánh cửa từ tâm cho những ai tìm đến, như lời Ngài đã phán: “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ sẽ mở cho” (Lc 11, 9).
ĐỂ BƯỚC VÀO CÁNH CỬA NƯỚC TRỜI
Đáng tiếc thay, có nhiều người đã đến gõ cửa nhưng không được vào. Họ là ai ?
- Đó là những người đã tự đóng chặt đời mình trong thù oán và ghen ghét. Họ tự khóa lòng mình trong sự tự cao tự đại trước lòng xót thương của Chúa. Họ tự giam hãm đời mình trong “cái tôi” ích kỷ và để cho tội lỗi cản trở bước chân đến với Chúa. Chúa không khóa cửa, nhưng họ đã từ khước mở cửa để bước vào.
- Đó là những người mang trên mình biết bao của cải cồng kềnh với lòng tham lam, họ mang theo những túi hành trang thừa thãi và vô ích nên không thể vào qua cửa hẹp Nước Trời. Thật ra, cánh cửa lòng Chúa chật hẹp vì chúng ta “quá khổ”, vì ta không biết “gọt đẽo” và “cắt tỉa” chính mình trong hy sinh quên mình. Cánh cửa mở vào hạnh phúc vĩnh cửu chật hẹp vì ta không biết cúi xuống trong tinh thần phục vụ để rửa chân cho anh em, không biết khom mình để vác thập giá mỗi ngày. Cánh cửa thiên đàng chỉ vừa cho những người có tinh thần trẻ thơ và những người bé mọn khiêm nhường.
- Cánh cửa ơn cứu độ luôn mở rộng không phải cho một số ít người, nhưng cho tất cả mọi dân tộc tin vào Thiên Chúa và đến với Người để được hưởng hạnh phúc muôn đời (bài đọc 1, trích sách tiên tri Isaia).
- Cánh cửa của sự giải thoát cũng chỉ mở ra cho người biết chịu đựng những gian nan khốn khó. Vì Chúa dùng sự hy sinh và thử thách để sửa dạy họ (bài đọc 2, trích thư Do Thái). Chỉ có những tâm hồn để cho Chúa “uốn nắn” mới có thể đi qua cánh cửa thử thách của Nước Trời.
Câu chuyện cổ tích “Bạch Tuyệt và Bảy Chú Lùn” của thế kỷ 21 được kể lại như sau :
Cô sinh viên tốt nghiệp đại học tên Nguyễn Võ Thu Minh làm việc tại Câu Lạc Bộ Nhạc Trẻ Số 1, Thành Phố Hồ Chí Minh, trong những dịp tình cờ, đã bắt gặp những “chú lùn” bán vé số, sửa đồng hồ…Qua những cuộc trò chuyện, Thu Minh nhận thấy những “chú lùn” này mặc cảm về bản thân nên thường sống tự ti, khép kín. Những cánh cửa xã hội như đóng lại phũ phàng trước những con người bất hạnh đó. Thu Minh nảy ra ý nghĩ giúp đỡ những con người đặc biệt này để mở ra cho họ cánh cửa tươi sáng trong cuộc sống. “Nàng Bạch Tuyết” ấy đã tập họp được hơn 30 “chú lùn” đưa vào Câu Lạc Bộ nàng đang làm việc, cho họ học nhạc lý, kỹ thuật biểu diễn, xử dụng đạo cụ và quan trọng nhất là nâng cao trình độ văn hóa của họ. Thế là nhóm biểu diễn tạp kỹ mang tên “Chim Cánh Cụt” ra đời vào ngày 01/9/1995, tập họp những “chú lùn”, “cô lùn” cao từ 8 tấc đến 1m30 trên toàn quốc và đã đi biểu diễn khắp nơi, được mọi người ủng hộ và chào đón nhiệt liệt. Lương căn bản của những thành viên trong nhóm khoảng 800.000 đồng một tháng. Hiện nay nhóm “Chim Cánh Cụt” có trụ sở đặt tại đường Đoàn Văn Bơ, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Bằng trái tim nhân hậu, “Nàng Bạch Tuyết” Thu Minh của thế kỷ này đã mở ra cánh cửa hy vọng cho những con người đang đi vào bước đường cùng để họ có thể hội nhập với xã hội con người. Trong Năm Thánh Truyền Giáo này, chúng ta cũng hãy đến với những người nghèo khó và cô đơn với tấm lòng quảng đại để mở ra cho họ cánh cửa nhiệm mầu của tình yêu Thiên Chúa. Nhờ vậy, họ sẽ đón nhận được ánh sáng của niềm tin và hạnh phúc vĩnh cửu họ hằng khát mong.