Chúa Nhật XXXI Thường niên – Năm C
CHÚA GẶP ÔNG GIAKÊU
GHHV Pio X Đà Lạt
1. Chúng ta đang ở cuối cuộc đời công khai của CGS. Đức Kitô sắp lên Giêrusalem để chịu chết, dù các tông đồ không hiểu ý nghĩa sự loan báo cuộc tử nạn (18,31-33). Vậy chính trong một viễn tượng bi thảm mà sắp diễn ra những biến cố sau đây: Chúa chữa lành người mù trên đường đến Giêrico, ông Giâkêu ăn năn trở lại. Bầu khí này làm nổi bật những cử chỉ của CGS.
Chữa lành bệnh nhân, việc người ta ăn năn trở lại một cách đặc biệt, đối với Đức Kitô thì không phải đơn thuần là những hành vi thương xót có tính cách vật chất hay tinh thần. Chúng có ý nghĩa tiên tri do CGS, thủ lãnh các tiên tri làm chủ. Quả vậy, Ngài biết rằng ngôn ngữ con người có thể diễn tả các ý niệm nhân loại, nhưng bất lực khi biểu lộ một vài thực tại tinh thần cao siêu hơn. Khi tiếp tục truyền thống tiên tri của Israel trong thứ ngôn ngữ này, Ngài không thể không biết rằng các cử chỉ trong một vài hoàn cảnh có thể thay thế cho từ ngữ và có thể nói lên ý nghĩa của cái vô hình một cách hữu dụng hơn. Những cử chỉ tiên tri này của Đức Kitô làm thành một thứ giáo huấn cụ thể dễ hiểu đối với những người đơn hèn nhất, nhưng lại khiến những người khôn ngoan nhất phải thán phục. Chắc chắn đó là một sự chuẩn bị cho những cử chỉ mà CGS phải làm sau đó dưới hình thức nhiệm tích. Việc ông Giakêu ăn năn trở lại dạy ta cách rõ ràng về lòng thương xót của TC, về địa vị người tội lỗi trong chương trình cứu chuộc và về chiều kích mầu nhiệm mà bất cứ nhà nào mở cửa đón đấng Kitô đều đạt được.
2. Lúc gần tới Giêrico, một người mù tuyên xưng Ngài là Con Vua Đavit. Và CGS đã chữa lành ông ta. Người được làm phép lạ quấn quít theo Ngài và tất cả đám đông bắt đầu ca tụng TC và Ngài đã làm những điều kỳ diệu dường ấy. Tiếng vang của việc chữa lành đầu tiên này lan rộng như cát bụi bay tới Giêricô. Một trong những người đầu tiên nghe được tiếng vang này là ông trưởng ty quan thuế.
Lc thường không nói lên các chi tiết liên quan đến những nhân vật mà ông đề cập đến. Tuy vậy, ông cũng cho ta biết tên của viên chức này là Giâkêu. Cái tên này có nghĩa là “người trong sạch”. Về phía Lc, phải chăng đó là chuyện hài hước ? Bởi vì một người thu thuế mệnh danh là “người trong sạch” cho ta cảm tưởng tương tự như một người hà tiện có biệt hiệu là “người quảng đại”. Nếu Lc không muốn làm hề để chúng ta cười thì những người ở Giericô, chính họ chắc chắn biết cái tên này không thích hợp với con người chút nào: Giâkêu, người tôi lỗi do bởi chức vị, dưới mắt họ được gọi tên là kẻ bị khai trừ. Giâkêu là người thu thuế; ông giàu có nhờ đó, nhưng cũng vì đó mà gặp phải bất hạnh.
3. Đức Kitô là người đưa ra sáng kiến giúp ăn năn trở lại. Đã đến lúc CGS xin hoặc nhận sự trợ giúp để tạo nên cơ hội cho Ngài ban ân sủng. Ngài xin người đàn bà xứ Samaria một chút nước để mạc khải cho Ngài biết Ngài có một thứ nước hằng sống làm hết khát và có thể biến cải bất cứ hữu thể nào thành nguồn nước tuôn trào trong cuộc sống vĩnh cửu. Ngài nhận dầu thơm của người đàn bà tội lỗi để minh nhiên hóa việc tha thứ Ngài ban cho bà trước mặt mọi người. Như vậy, TC làm người muốn biểu lộ một tình yêu chứ không phải là một sự thương hại. tình yêu sáng tạo và cứu độ trước hết chấp nhận đường lối đơn giản, thân tình của tình bạn là nhận ngay trước khi trao ban. Và chắc chắn đó là một trong những biểu lộ cao cả nhất của lòng thương xót của TC đối với những hữu thể mà Ngài muốn ban đầy ơn phúc.
Trong khi vị hoàng tử cải trang thành người ăn mày để bố thí mà không đánh mất danh dự, thì CGS đến với người thu thuế đang ở trên cây, như một người giảng rong để kiếm ăn: Ngài nói với ông: “Giâkêu, trèo xuống mau”. Trong cái vội vàng của CGS có một thứ hài hước đầy dịu dàng, gần như là Chúa muốn nói với ông: Giakêu ta đói lắm rồi, vội vàng lên chứ ! Thực vậy Ta muốn khẩn trương tới nhà ngươi để mầu nhiệm cứu độ mà Ta mang đến cho thế giới được hoàn tất nơi ngươi.
“Thấy vậy, mọi người xôn xao và nói: ông này đến trọ nhà một người tội lỗi” (c.7). Gương xấu lên tới tột điểm khi CGS không những chỉ quyết định dùng cơm tại nhà người thu thuế, mà còn muốn ở lại đó một thời gian. Nguyên việc dùng cơm với những người tội lỗi công khai đã là nặng rồi; hơn nữa việc tạm trú trong nhà người tội lỗi công khai chắc chắn làm người ta chỉ trích ầm ĩ. Lời xôn xao này, không phải chỉ do một vài người biệt phái ưa chỉ trích, nhưng chắc chắn là của toàn thể đám đông.
4. “Nhưng Giakêu nhất quyết nói với Chúa: vâng, lạy Chúa, con sẽ lấy nửa gia tài của con để cho người nghèo…” (c.8a). Thật vậy, Giakêu đang đón Đức Kitô nơi cửa nhà ông. Dường như, ông cố ý tuyên bố công khai với hai chủ đích. Một đàng muốn nói lên sự thành tâm ăn năn trở lại của ông, Đàng khác, một cách nào đó, ông có ý khẳng định trước mặt mọi người rằng CGS đã làm đúng khi chọn trọ tại nhà một người không có tà tâm như người ta tưởng. Khi công khai thống hối để nói lên tấm lòng đơn sơ quảng đại của ông, Giakêu đã cho cử tọa thấy và biết cái nhìn phi thường của vị tiên tri ghé qua Giêricô hôm ấy. Cái nhìn của Ngài thành công ở chỗ đụng tới tim đen và từ đó làm lóe lên ánh sáng của TC.
Câu nói của người thu thuế trùng hợp cách kỳ lạ lời cầu nguyện của người biệt phái đầy kiêu căng – xem dụ ngôn thuật lại ở trên – “Tôi dâng một phần mười của cải của tôi” (Lc 18,12). Tuy nhiên giữa người tự kiêu vì đã chu tất của lễ mình dâng và người tội lỗi công khai dưới tác động của ân sủng, bằng lòng cho đi nửa gia tài, thật là khác biệt giữa một lòng sùng đạo cách ngu ngốc với một người như thánh Phanxicô khó nghèo hoặc thánh Gioan TC, là những vị đã bị đảo lộn bởi những tác động đầu tiên của TC. Khi hy sinh như thế, không có gì là nặng nề đối với người biết mình đã được tha thứ.
Thế nhưng, Giakêu để ý ngay đến việc bác ái và công bằng. Ông biết rõ là khi hành nghề, ông đã có thể lạm thu thuế má và bây giờ ông hối hận và muốn sửa lỗi. Ông áp dụng cho ông luật ghi trong sách xuất hành Ai cập (Xac 21,1) được Đavit nhắc lại (2S 12,6) được dự trù trong những trường hợp tương tự. Giakêu cũng phát biểu rằng chỉ có lòng bác ái mới xóa sạch các vết nhơ do việc làm tiền quá đáng của ông, rằng chỉ có sự công bằng mới xóa sạch bất công. Dù sao ông cũng không keo kiệt.
5. Bấy giờ, CGS quay về phía Giakêu, nhưng lại nói với tất cả cử tọa; hình thức văn phạm của Lời Ngài (Ngài nói về ông Giakêu ở ngôi thứ ba) chứng minh điều này. Qua đó, Ngài hòa giải Giakêu với cộng đoàn Israel, trả lại cho ông các đặc quyền thừa tự lời hứa. Ngoài ra, Ngài còn công khai bác bỏ luận điệu của những luật sĩ tham quyền, theo đó , một số người tội lỗi công khai không thể có hy vọng được cứu rỗi. Cuối cùng, những lời này một lần nữa nhắc lại sứ mạng của Con Người “đến tìm kiếm và cứu vớt những gì lạc mất” (x.Lc 15,6.9.24.32).
Khi quảng đại đón nhận ơn cứu độ, Giakêu khẩn trương thi hành lời khuyên quí báu nơi phúc âm Lc: phải mau mắn biến cải những sự giàu có thế gian thành những giá trị thiêng liêng theo định luật nhiệm mầu về sự giao hoán do Đức Kitô đề ra: “Của cải, các ngươi hãy bán đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình những túi tiền không hề hư hỏng, kho tàng không hề hư hao trên trời, nơi trộm cắp không lai vãng và mối mọt không nhấm nát. Bởi vì, kho tàng các ngươi ở đâu thì lòng các ngươi ở đó” (Lc 12,33-34). Thật vậy, phải có ân sủng do sự hiện diện của CGS mới có thể khuất phục cách mau lẹ một nhà tài chánh thay đổi hệ thống kinh tế của mình.
6. Câu chuyện Giakêu có một sắc thái đặc biệt khi được đặt trên hậu cảnh CƯ, gợi lại sự hiện diện đáng sợ của TC trong một vài nơi đặc biệt. TC, đấng xưa kia chỉ vào nơi cung thánh của đền thờ với vẻ lộng lẫy cao cả của vinh quang Ngài, bây giờ đang ở trong nhà người tội lỗi với vẻ đơn sơ của Ngôi Lời Nhập Thể. Chắc chắn, đền thờ Salomon xây đã trở nên nơi gặp gỡ của dân tộc tội lỗi với TC của họ (1V 8,20-40), thế nhưng, thực tế người ta đến đó triều bái hoàng tử để xin Ngài thương xót. Ngày hôm nay TC di tản chiến thuật, chính Ngài đến cư ngụ nhà người tội lỗi.
Có một cái gì đó đã thay đổi trong quan niệm về cung thánh và người Kitô hữu bây giờ không còn thấy Đền thờ của họ như kiểu mẫu thời xưa. Đối với người đàn bà Samaria, CGS mạc khải ngày tàn của các cung thánh muốn trở thành trung tâm của thế giới: TC phải được tôn thờ “trong tinh thần và chân lý” (Gio 4,24). CGS cũng nói cho chúng ta biết thân xác của Ngài là đền thờ mới (Gio 2,19-21). Khi CGS vào nhà ông Giakêu, Ngài chính là đền thờ đích thực, là cung thánh duy nhất, từ đó tuôn ra nước hằng sống cho đời sống vĩnh cửu đến thánh hóa nhà người tội lỗi.
Nhà của người bất xứng, nhờ có Đức Kitô hiện diện, trở thành một nguyện đường, nơi đó cử hành phụng vụ về lòng xót thương và nghi lễ hiệp thông. Giakêu trần tình nơi cửa nhà ông. Không ai cấm ông ngồi bên CGS trong bữa ăn được dọn ra sau khi Ngài vào nhà. Như vậy trong một vài giờ, tại một căn nhà ở Giêrico có cử hành mầu nhiệm thánh, khiến nhà ở của con người trở thành nơi cư trú của Đền thờ chân thật duy nhất là nhân tính của CGS.
KẾT LUẬN
Câu chuyện Giakêu ăn năn trở lại gồm tóm tất cả những từ ngữ cũng như những ý tưởng đặc trưng của Lc: hôm nay, ơn cứu độ; cứu vớt những ai lạc mất; (người) nhỏ bé, (người) tội lỗi, (người) thu thuế; ý định cứu độ của TC là cần thiết; sự vội vàng đón tiếp vào nhà, sự vui mừng. Chính ân sủng dồi dào của TC và thiện ý đầy tràn của con người được tỏ lộ tại Giêricô, thành phố mà từ đó CGS lên Giêrusalem, thành chờ đợi lịch sữ cứu độ hoàn tất, là nơi phát xuất ơn cứu độ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. CGS để ý thấy Giakêu đang ở trên cây sung và Ngài là người có sáng kiến mang lại ơn cứu độ cho ông. Về phía Giakêu, ông ước ao gặp CGS và làm mọi cách để cho Ngài thấy cũng như được thấy Ngài. Sự gặp gỡ kỳ quặc giữa kiểu cách con người và sáng kiến của Chúa xem ra rõ ràng trong cảnh này tại Giêrico. Dù với hai chủ đích khác nhau, hai tiếng gọi đã gặp nhau, tiếng gọi của con người muốn đi ra khỏi chính mình và vận dụng mọi cách để đạt được điều đó và tiếng gọi của Chúa muốn tìm kiếm những ai lạc mất.
2. Giakêu không thiếu gì, ông giàu có, ông đã thỏa mãn được những khát vọng của mình; tuy nhiên, ông vẫn còn kiếm tìm một vật gì khác, một con người nào khác vì cảm thấy tâm hồn băn khoăn; có thể ông không biết CGS là ai, thế nhưng bị một thứ gì đó thúc đẩy ông muốn nhìn xem vị tiên tri này: chỉ ngay sau đó ông mới nhận biết Ngài. Dường như ông Giakêu và CGS, cả hai đều xúc động do cùng một hấp lực hỗ tương.
3. Trong câu sau cùng của trang phúc âm này, CGS xem ra không nói với ông Giakêu, đúng hơn Ngài nói với các nhân chứng, với đám đông. Ngài bắt đầu câu “người này cũng là con cái Abraham”. Qua đó, hình như Ngài muốn nói với chúng ta biết rằng mọi người đều là con TC và nếu chúng ta từ chối hoặc khai trừ ai chính là vì chúng ta ngu dốt, hoặc thiển cận. Rồi Ngài nói tiếp: “Bởi vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì lạc mất”. Ở đây cũng vậy, Ngài muốn dạy chúng ta đừng giới hạn ánh sáng phúc âm, chỉ dành riêng cho những người xem ra xứng đáng đối với chúng ta.
4. Sự gặp gỡ giữa Giakêu tội lỗi và CGS tượng trưng cho chính tâm trạng của chúng ta. Trong mỗi người chúng ta đều có con người tội lỗi và Chúa. Con TC đến sống trong mỗi người tội lỗi; trong mỗi tín hữu, Giakêu vẫn tiếp tục hiện hữu cho đến khi “Chúa dùng quyền năng của Ngài mà kiện toàm những ý định ngay lành”, như thánh Phaolô viết trong thư gởi tín hữu Thessalonica mà chúng ta vừa nghe đọc. Điều này khiến chúng ta vừa bạo dạn để có thể chu toàn những đòi hỏi riêng biệt do đức tin của chúng ta, bất chấp dư luân của “đám đông chung quanh”, cũng như lưu ý chúng ta phải luôn thận trọng khi có ý kiến về những người khác.
5. Người rước lễ cũng đón nhận CGS vào nhà mình. Để việc hiệp thông Thánh Thể trở thành hiện tại của ơn cứu độ, người rước lễ phải sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì Chúa biết.
6. Trong thánh lễ này, chúng ta hãy cầu ngumyện cho nhau, cho mọi người, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ “bị lạc mất” mà Chúa đang tìm kiếm để cứu vớt.