CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN NĂM C
- BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBKT/HĐGMVN
- THAM DỰ VÀO THIÊN QUỐC – Chú giải của Noel Quesson
- SỨ MẠNG CỦA BẢY MƯƠI [HAI] MÔN ĐỆ – Lm FX Vũ Phan Long, ofm.
- NIỀM VUI CỨU ĐỘ (*) – Inhaxiô Hồ Thông
- CHÚA SAI TÔI ĐI – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
- CHÚA SAI TÔI ĐI LOAN TIN BÌNH AN VÀ HẠNH PHÚC – Carôlô Hồ Bặc Xái
- RA ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG – Lm Giuse Đinh lập Liễm
- ANH EM HÃY RA ĐI – Lm Giuse Đinh Tất Quý
- ĐIỀU KIỆN CẦN CỦA NGƯỜI THỪA SAI – Vinc. Ngọc Biển
- CẨM NANG NHÀ TRUYỀN GIÁO – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
- HÃY RA ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG – Antôn Nguyễn Văn Độ
- SỨ MỆNH TRUYỀN GIÁO – Trích Logos năm C
- LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBKT/HĐGMVN
***
BÀI ĐỌC I: Is 66, 10-14c
“Đây Ta khiến sông bình an chảy vào nó”.
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Các ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem, và hết thảy những ai yêu quý nó, hãy nhảy mừng vì nó. Hỡi các ngươi là những kẻ than khóc nó, hãy hân hoan vui mừng với nó, để các ngươi bú sữa no nê nơi vú an ủi của nó, để các ngươi sung sướng bú đầy sữa vinh quang của nó. Vì chưng Chúa phán thế này: “Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông, và vinh quang chư dân tràn tới như thác lũ. Các ngươi sẽ được bú sữa, được ẵm vào lòng và được nâng niu trên đầu gối. Ta sẽ vỗ về các ngươi như người mẹ nâng niu con, và tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi. Các ngươi sẽ xem thấy, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và các ngươi sẽ nẩy nở như hoa cỏ, và tôi tớ Chúa sẽ nhìn biết bàn tay của Chúa”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 65, 1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20
Đáp: Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa (c. 1).
1) Toàn thể đất nước hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngợi vinh quang danh Người, hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa.
2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta!
3) Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa. Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời.
4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao! Chúc tụng Chúa là Đấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi.
BÀI ĐỌC II: Gl 6, 14-18
“Tôi mang trong mình tôi những dấu thánh của Chúa Giêsu”.
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, phần tôi, ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian. Vì chưng trong Đức Kitô, có cắt bì hay không cũng chẳng có giá trị gì, điều quan trọng là trở nên một tạo vật mới. Nguyện chúc bình an và lòng thương xót đối với những ai rập theo quy tắc đó, và cho cả Israel của Thiên Chúa nữa. Từ nay trở đi, ước gì không ai làm phiền tôi nữa; vì tôi mang trong mình tôi dấu thánh của Chúa Giêsu.
Anh em thân mến, nguyện ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng anh em! Amen.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
All. All. – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – All.
PHÚC ÂM: Lc 10, 1-12. 17-20
“Sự bằng yên của các con sẽ đến trên người ấy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ. “Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ‘Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi’. Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: ‘Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần’. Ta bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này”. Bảy mươi hai ông trở về rất vui mừng và nói rằng: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con”. Người bảo: “Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời”.
Đó là lời Chúa.
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
THAM DỰ VÀO THIÊN QUỐC – Chú giải của Noel Quesson
***
Sau đó. Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.
Là bạn đồng hành của Phaolô, tông đồ các dân ngoại Luca nhấn, mạnh đến điểm này của cuộc đời Đức Giêsu. Trong số bốn thánh sử, Ngài là người duy nhất thuật lại giai đoạn này. Trong lúc Luca viết ra, Ngài đã thấy các cộng đoàn Kitô hữu được khai sinh ở giữa các đô thị và vùng đất của dân ngoại. Một số các nhà thờ địa phương ấy được khai sinh không phải do hoạt động của các tông đồ được chính thức ủy nhiệm, nhưng do hoạt động tông đồ của giáo dân, của các ông, các bà phải di chuyển vì nghề nghiệp và họ đã loan báo Đức Giêsu (Rô-ma 16).
Luca nhấn mạnh rằng chính Đức Giêsu đã thiết lập việc tông đồ của các môn đệ. Đức Giêsu không chỉ sai Nhóm Mười Hai đi (Lc 9, l-6). Người cũng đã sai bảy mươi hai môn đệ,ra đi và hầu như trong cùng một thời gian (Lc 10, 1,20) để thực hiện cùng một sứ mạng… vả lại với nhiều tình huống hơn sứ mạng của hàng giáo phẩm. Người ta sẽ không bao giờ kể lại điều đó cho đầy đủ, Giáo Hội không chỉ và không trước tiên là Giáo Hoàng và các Giám Mục mà là “dân Thiên Chúa”, là mỗi Kitô hữu.
Tôi có tin rằng Đức Giêsu sai tôi đi không? Rằng tôi là “sứ giả” “Người được sai đi” của Chúa đến với người này, người nọ không? Phải có cả các phụ nữ trong số những người được sai đi đó (Lc 8, 13)
“Bảy mươi hai”… ám chỉ tính toàn cầu của các dân ngoại được kể ra trong sách Sáng Thế (St 10), một số thủ bản nói về con số bảy mươi. Dĩ nhiên, con số không hạn chế và cũng không phải là con số của số học. Tất cả mọi người! Tất cả mọi dân tộc.
Cứ từng hai Người một”… Đây là con số mà Luật đòi hỏi để một chứng từ được nhận là có giá trị (đệ nhị luật 19,15). Đó cũng là tập quán của những Kitô hữu đầu tiên đi truyền giáo, không bao giờ họ đi một mình: Phaolô và Bác-na-bê… Bác-na-bê và Máccô… Phaolô và Si-la…
Đời sống hiện đại, công việc nghề: nghiệp, khoa học, học đường, văn hóa đã đề cao giá trị của việc kết hợp thành tổ nhóm. Có phải tôi đang là một ky sĩ độc hành không?
“Đi trước… các nơi mà Người sẽ đến… ” Công việc tông đồ lúc nào cũng phải khiêm tốn. Người ta chỉ có thể chuẩn bị mà thôi. Chính Đức Gỉêsu sẽ đến làm công việc thật sự. Chúng ta chỉ là những kẻ mở đường.
Người bảo các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.
Trong viễn cảnh mà Đức Giêsu nhắm đến, rõ ràng là con số bảy mười hai người đầu tiên tuy khá lớn nhưng sẽ không đủ Những người thợ mới phải không ngừng bắt tay vào công việc. Đức Giêsu nhìn xa trông rộng? “Mùa gặt” là một hình ảnh truyền thống trong Kinh thánh để nói về thời kỳ: sau hết, sự can thiệp của Thiên Chúa vào thời mạt thế (Gian 4,13; Mát-thêu 13,39; Khải Huyền 14, 15-16). Trong Đức Giêsu, thời kỳ sau hết này đã bắt đầu. Đức Giêsu nhìn thấy sự dồi dào của “mùa gặt thánh thiêng” ấy mà Thiên Chúa là chủ mùa gặt.
Tôi có thật sự tin chắc rằng nhiều người, đàn ông cũng như đàn bà sẵn sàng đi theo Tin Mừng? Nhưng các thợ gặt đang thiếu, Đức Giêsu nói. Tức khắc, trước sự thiếu thợ gặt đó (do vậy không chỉ là một nhược điểm của thời đại chúng ta), Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta một giải pháp duy nhất là sự cầu nguyện. Đối với Người, rõ ràng là việc tông đồ không phải là một công việc của con nguời như tuyên truyền hay quảng cáo, nhưng là một công việc của Thiên Chúa, một ân sủng. Tôi có cầu nguyện để có thêm nhiều thợ gặt không? Trước hết là giáo dân… nhưng cả các linh mục, tu sĩ nam nữ. Phần tôi? Tôi có phải là một người thợ gặt làm việc cho công cuộc cứu chuộc không?
Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con di vào giữa bầy sói.
Anh em hãy ra đi? Đây là một mệnh lệnh. “Thầy” sai anh em…
Đức Giêsu không che giấu sự khó khăn trong công việc Và chúng ta tiếp tục ngạc nhiên vì có nhiều người bỏ mất đức tin vì chưng thất bại to lớn trong việc truyền bá đức tin. Tuy nhiên chúng ta đã được cảnh báo rõ. Hình ảnh cũng làm ta kinh ngạc và khó chịu: tín hữu như một con chiên con bị một bầy sói tấn công. Chúng ta chớ gán cho hình ảnh những ý nghĩa mà nó không có. Mọi dân ngoại, mọi người vô ưu đều được Thiên Chúa yêu thương. Nhưng “đàn chiên bé nhỏ” rất cần có chủ chăn bảo vệ (Ga 15, 18; 10, 1.16). Đức Giêsu đã báo trước chó Giáo Hội của người: Giáo Hội thường xuyên ở trong tình trạng nguy hiểm? Những thời kỳ yên tĩnh, bình an đúng ra phải làm chúng ta ngạc nhiêm… Vậy thì hãy có lòng trông cậy.
Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép…
Điều đáng lưu ý là Đức Giêsu sẽ không đưa ra một hướng dẫn nào về “học thuyết”! Người không nói về nội dung của đttc tin… nhưng nói về các thái độ cụ thể của những người đi thuyết giảng! Y phục, hành trang, cách giao tiếp. Các nhà truyền giáo trước hết loan báo Nước Thiên Chúa bằng cách sống của họ!
Trước tiên, Đức Giêsu đặt ra yêu sách sống nghèo khó Không nên ỷ vào các phương tiện của con người.. Đức Giêsu đã không sử dụng các vũ khí của quyền lực, của sự giàu sang của vẻ lộng lẫy, huy hoàng… Đức Giêsu không ra vẻ “trịnh trọng”; Người “vốn giàu sang đã trở nên nghèo hèn”. Yêu sách đầu tiên của Giáo Hội là theo hướng của thầy mình, là trở nên nghèo khó.
Đừng chào hỏi ai dọc đường…
Đây không phải là một mệnh lệnh về sự vô lễ, nhưng về sự cấp bách! Không nên mất thời gian vì những cử chỉ lễ phép quá, mức và dài dòng, vì những lề thói thế tục.
Trong Luca, điều gây ấn tượng mạnh là các sứ giả của Tin Mừng “chạy” khắp nơi: Đức Maria chạy, đi thăm viếng, các mục đồng chạy đến máng cỏ, Phi-líp-phê chạy để đuổi kịp chiếc xe của một người ê-thi-óp (Công vụ 8,30). Còn tôi thì sao? Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói! “Bình an cho nhà này!”. Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ đậu trên người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ quay về với anh em. Giờ đây là một phong cách sống nào đó: sự bình an, niềm vui trong sáng. Một sự hiệp thông của bình an và mềm vui. Hãy có nơi chính mình một sự bình an và chuyển sự bình an ấy cho người khác “Bình an của anh em sẽ đậu trên người ấy…” Tin Mừng cũng chính là điều đó? làm chuyển động một dòng chảy sung mãn hài hòa giữa các con người.
Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em.
Những vấn đề về ăn uống này đối với chúng ta dường như rất ty tiện. Khi người ta biết những cấm đoán theo đúng nghi lễ của người Do Thái, những lời ấy của Đức Giêsu vang lên như một ‘sự giải phóng phi thường: anh em hãy ăn mọi thứ thức ăn mà không cần bận tâm xem những thức ăn ấy tinh khiết hay ô uế. Ở đây, Đức Giêsu xuất hiện với chúng ta như một người thật sự đi trước thời đại của mình. Thật vậy; Người biện hộ cho một sự cởi mở phóng khoáng đối với tục lệ và tập quán của những người khác chấp nhận các tục lệ văn hóa của các dân tộc mà chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng! Điều đó đi rất xa.
Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.”
Tin Mừng này trước tiên rất cụ thể; rất thực tiễn. Đó là một Tin Mừng, bằng hành động làm điều thiện, đẩy lui điều ác an ủi, cứu chữa…
Triều đại của Thiên Chúa. Kế hoạch của Thiên Chúa. Dự án của Thiên Chúa. Người ta chờ đợi Triều đại đó cho thời kỳ sau hết. Triều Đại ấy. có ở đó, Đức Giêsu nói… rất gần? Rất gần anh em. Triều đại trong đời thường, thông thường nhất, của anh em, và anh em không biết khám phá sự gần gũi ấy. Triều đại của Thiên Chúa là gì? Chính là Đức Giêsu. Đó là hạt giống mầu nhiệm của Thiên Chúa được đặt vào chính tấm lòng của con người. Với Đức Giêsu, Thiên Chúa hiển trị, Thiên Chúa ở đó, ngay từ bây giờ. Trong Đức Giêsu, sự hoàn thành của thế gian đã được lan rộng. Tin Mừng là một điều gì rất đơn giản: chính nghĩa của Thiên Chúa sẽ chiến thắng và chính nghĩa ấy là tương lai tuyệt đối của con người, và nó đã bắt đầu! Thế gian sẽ không trường tồn mãi mãi, lịch sử của nhân loại sẽ có lúc kết thúc, nhưng sự chấm dứt này không phải là hư vô, mà chính là Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa, chính là tham dự trước vào sự thành công ấy, chính là ngay từ bây giờ làm cho chính nghĩa của con người thành công vì chính nghĩa của con người chỉ là một với chính nghĩa cửa Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Một cách cụ thể, Triều đại của Thiên Chúa chính là “thực thi thánh ý của Thiên Chúa”: Nguyện “Nước Cha trị đến, ý cha thể hiện dưới đất! Và thánh ý của Thiên Chúa, chính là điều tốt lành trọn vẹn của con người: sự chữa trị các bệnh tật thực sự hư hỏng tính toàn vẹn của con người) là một dấu chỉ của thánh ý ấy: “Anh em hãy cứu chữa con người? ” Triều đại của Thiên Chúa ở đó, rất gần!
Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin gửi trả lại các ông. ‘Tuy nhiên các ông phải biết điều này. Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. “Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy thành Xơđom còn được xử khoan hồng hơn thành đó”.
Rõ ràng Đức Giêsu đắ đối diện với các thất bại, các sự khước từ không tin… Nhưng sự báo trước chính nghĩa của Thiên Chúa phải thành công (cũng là sự thành tựu của chính nghĩa con người?) vẫn tồn tại; dù các ông, có muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa sẽ hiển trị, và đó là Ngày Phán Xét… dĩ nhiên, các ông là những người cố tình và ngoan cố chối từ, các ông sẽ ở lại bên ngoài sự thành công ấy mà lẽ ra làm sự thành công của các ông.
Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: “Thưa Thầy nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”. Đức Giêsu bảo các ông: “Thầy đã thấy Xatan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Nhóm Bảy Mươi Hai đầu tiên không chỉ có thất bại công việc tông đồ của họ đã thành công: những quyền lực của sự ác đã lùi ‘ bước. Đó là một nỗi vui mừng Đức Giêsu làm giảm nhẹ chủ nghĩa đắc thắng có hơi ngây thơ và rất tự nhiên của họ: anh em hãy thán phục, phải! Nhưng nhất là hãy tạ ơn, hãy đi vào nội tâm! Niềm vui chủ yếu là được tham dự vào Thiên quốc, và đã tham dự rồi.
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
SỨ MẠNG CỦA BẢY MƯƠI [HAI] MÔN ĐỆ – Lm FX Vũ Phan Long, ofm
***
1.- Ngữ cảnh
Vừa bắt đầu phần tường thuật cuộc hành trình lên Giêrusalem (9,51), tác giả Luca đưa vào truyện Đức Giêsu cử bảy mươi [hai] môn đệ đi để dọn đường cho Người (10,1-12). Trước đây, ta thấy Người đã phái Nhóm Mười Hai đi rao giảng và chữa lành (9,1-6). Bây giờ đến lượt bảy mươi [hai] môn đệ được sai đi. Bản văn kết thúc với những lời Đức Giêsu chúc dữ cho các thành thuộc miền Galilê và nhận xét của Người về các môn đệ như là đại diện cho chính Người và cho Đấng sai phái Người (10,13-15.16). Bản văn phụng vụ không đọc đoạn này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu chỉ định và sai phái bảy mươi [hai] môn đệ (10,1);
2) Đức Giêsu ban chỉ thị cho bảy mươi [hai] môn đệ (10,2-12);
3) Những nhận định sau khi bảy mươi [hai] môn đệ đi giảng về (10,17-20).
3.- Vài điểm chú giải
– Chúa (1): Danh hiệu kyrios được tác phẩm Lc-Cv dùng cho cả Đức Chúa (YHWH) và Đức Giêsu. Dùng cho Đức Chúa (YHWH) thì đã có trước Lc (x. Mc 11,9; 12,11.29.30.36; Lc4,8//Mt 4,10 [thuộc Q]; Lc 4,12//Mt 4,7; Lc 10,27 [thuộc L]; 2 Cr 3,17-18). Đây là cách dịch YHWH của Bản LXX. Tại Paléttina tiền Kitô giáo, người Do Thái gọi YHWH bằng tiếng Híp-ri là ’âdôn, “Chúa”, tiếng A-ram là mârê’ hoặc mâryâ’, và tiếng Hy Lạp là kyrios. Rất có thể các Kitô hữu gốc Do Thái tại Paléttina đã chuyển danh hiệu “Đức Chúa” này từYHWH sang cho Đức Giêsu, đặc biệt trong tư cách Đấng Phục Sinh. Và như thế, điều này có nghĩa là lời tuyên xưng tiên khởi “Giêsu là Chúa” (1 Cr 12,3; Rm 10,9) là một câu đáp lại kêrygma tiên khởi. Dùng danh hiệu kyrios cho Đức Giêsu có nghĩa là đặt Người trên cùng một bình diện với với YHWH, mà không đồng hóa Người với YHWH, do chỗ không bao giờ Người được gọi là ’abbâ’.
Khi so sánh với Mc (chỉ một lần dùng danh hiệu này cho Đức Giêsu: Mc 11,3), ta thấy Lc dùng thường xuyên (7,13.19; 10,1.39.41; 11,39; 12,42a; 13,15; 17,5.6; 18,6; 19,8a.31.34; [20,44]; 22,61 [2x]; 24,3.34); điều này khiến phải lưu ý. Ở đây, đơn giản là Lc sử dụng một danh hiệu nay đã thành thông dụng vào thời ngài, như phần tường thuật của sách Cv cho thấy (vd: 1,21; 4,33; 514; 8,16…). Trong thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai, nhiều người gọi Người bằng từ kyrios ở hô-cách[1] kyrie (5,8.12; 6,46 [2x]; 7,6; 9,54.59.61; 10,17.40; 11,1; 12,41; 13,23.25; 17,37; 18,41; 22,33.38.49). Trong các ví dụ này, không dễ gì mà xác định được từ nào phải dịch là “ngài” (theo nghĩa trần thế) và từ nào phải dịch là “Chúa” (theo nghĩa tôn giáo). Rất có thể vào lúc viết, tác giả Lc nhắm đến nghĩa tôn giáo, kể cả cho từ ở hô-cách.
Đàng khác, ta phải ghi nhận rằng Lc còn trở ngược lại mà gán danh hiệu kyrios cho giai đoạn đầu của cuộc sống trần thế của Đức Giêsu: lời các sứ thần loan báo cho các mục đồng về “Chúa” ở Bêlem (2,11); lời bà Êlisabét chào Đức Maria là “Thân Mẫu Chúa tôi” (1,43); lời Đức Maria tự nhận mình là “nữ tỳ của Chúa” (1,38). Các danh hiệu này đúng ra nhắm đến YHWH.
Khi sử dụng kyrios cho cả YHWH lẫn Đức Giêsu trong tác phẩm, tác giả Lc nhận danh hiệu này theo nghĩa lâu nay vẫn được hiểu trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, tức là coi Đức Giêsu Phục Sinh ở trên cùng một bình diện với YHWH. Khi rọi phóng danh hiệu này, một danh hiệu phát sinh từ cuộc Phục Sinh, ngược lại sau cho những phần đầu của truyện về Đức Giêsu, tác giả bao trùm tính cách của Đức Giêsu bằng một ảnh hưởng thật ra thuộc về giai đoạn ba của cuộc đời Người.
– bảy mươi hai người khác (1): nghĩa là khác với Nhóm Mười Hai, nhưng cũng rất có thể khác với cả những sứ giả ở 9,52. “Bảy mươi” hay “bảy mươi hai”? Dù có áp dụng phương pháp phê bình văn bản, chúng ta vẫn không thể quyết định dứt khoát cho con số nào. Các thủ bản quan trọng hỗ trợ cho cả hai bên. Đọc vào các tác phẩm Kinh Thánh, ta thấy dường như số bảy mươi có ưu thế hơn: bảy mươi kỳ mục được Môsê chọn (Xh 24,1; Ds 11,16.24); bảy mươi con cháu của Giacóp (Xh 1,5; Đnl 10,22); bảy mươi năm (Dcr 7,5 [?]). Con số bảy mươi hai chỉ xuất hiện chính thức một lần khi sách Ds (31,38) nói đến số bò bê phải dâng cho Đức Chúa. Tuy nhiên, dường như bản văn Cựu Ước nằm đàng sau con số là St 10,2-31, là danh sách các dân trên thế giới: bản văn Híp-ri thì đọc là “bảy mươi”, còn Bản LXX lại đọc là “bảy mươi hai”. Dù sao, tác giả TM III đặt sứ mạng phổ quát của Hội Thánh của ông trên nền tảng là sứ mạng của Đức Giêsu.
– cứ từng hai người một (1): Người ta nói rằng tập tục đi hai người với nhau là của người Do Thái, nhưng ta không thấy trong Cựu Ước có tập tục này. Đi từng cặp có thể là để nâng đỡ lẫn nhau trên đường; nhưng theo nghĩa mạnh hơn, đó là để làm chứng (vì pháp luật đòi phải có chứng của hai người: Đnl 19,15; Ds 35,30. Xem trường hợp Phaolô và Banaba:Cv 13,1; Phaolô và Xila: Cv 15,40; Phêrô và Gioan: Cv 8,14; Banaba và Máccô: Cv 15,40; Giuđa và Xila: Cv 15,32).
– Lúa chín đầy đồng (2): Theo TM Lc, đây là một hình ảnh của thời gian trong đó việc rao giảng về Nước Thiên Chúa được thực hiện (x. 8,15.16-17). Đã đến giờ loan báo Nước Thiên Chúa cách rộng rãi và con số người chấp nhận sứ điệp sẽ đông. Trong Cựu Ước, mùa gặt là một hình ảnh nói về việc Thiên Chúa xét xử muôn dân vào thời cánh chung (Ge 4.1-13;Is 27,11-12).
– hãy xin chủ mùa gặt (2): Chỉ thị này hàm ý là công việc của Đức Giêsu và sứ mạng của các môn đệ nằm dưới sự quan phòng của chính Thiên Chúa: Ngài đang tạo ra một giai đoạn mới trong việc rao giảng nhằm cứu độ và Ngài sẽ là thẩm phán vào “ngày ấy” (c. 12).
– như chiên con đi vào giữa bầy sói (3): Hình ảnh này gợi ra những nguy hiểm, chống đối, thù nghịch, đi theo hoạt động của các môn đệ, cũng như hoạt động của chính Đức Giêsu.
– đừng chào hỏi ai dọc đường (4): Người ta giải thích lệnh này nhiều cách. (1) Các môn đệ không được mất giờ vào việc nói chuyện với dân chúng vì mùa màng cần phải gặt gấp. Họ chỉ nên gửi lời chào đến các nhà và các thành thôi (x. 2 V 4,29). (2) Các môn đệ phải tập trung vào việc rao giảng và chữa lành, chứ không vào những vấn đề trần thế. Quan hệ do việc rao giảng về Nước Thiên Chúa đòi hỏi không được đo lường bằng thái độ lịch sự hay những lời chào hỏi. (3) Đây là một lưu ý về thái độ thù nghịch mà các môn đệ Đức Giêsu, trong tư cách là những tiền hô của Người, phải sẵn sàng đối mặt.
– bình an (5): Cần hiểu “bình an” này theo nghĩa của từ shalôm trong Cựu Ước (do ngữ căn shlm, có nghĩa là “sự đầy đủ, sự toàn vẹn”), diễn tả lòng quảng đại của Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nhằm cứu độ. Và diều này được thực hiện cụ thể nhờ công trình cứu độ của Đức Giêsu (x. 7,50; 8,48; 24,36).
– ai đáng hưởng bình an (6): dịch sát là “con cái của sự bình an”, tức là một người mở ra và có thể đón nhận hoa trái ơn cứu độ do Đức Giêsu mang đến.
– bình an của anh em (6): nghĩa là sự bình an anh em mang đến trong tư cách sứ giả của Thầy.
– vào bất cứ thành nào (10): Cả thành phải đối diện với lời rao giảng và việc chữa lành. Các môn đệ phải làm một hành vi công khai.
– nghe đến danh Thầy (17): dịch sát là “trong / với danh Thầy”, nghĩa là khi kêu cầu danh Thầy. Viêc dùng danh Đức Giêsu trở thành một đề tài quen thuộc trong Cv (3,6; 4,10.17-18.30; 5,40; 9,27).
– Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống (18): Ta có thể hiểu câu văn này theo hai cách: a) “Thầy đã thấy Satan sa xuống như một tia-chớp-từ-trời”: “từ trời” bổ nghĩa cho “chớp” và “trời” là nơi xuất phát “chớp” (P. Joüon; F.W. Lewis); b) “Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống”: cách dịch này gợi đến kiểu Cựu Ước mô tả Satan như “kẻ đối lập”, một công chức của triều đình thiên quốc của YHWH có nhiệm vụ tố cáo loài người (G 1,6-12; 2,1-7; Dcr 3,1-2); vậy cách dịch này muốn nói rằng Satan đã bị trục xuất khỏi vai trò đó (Fitzmyer). Cách dịch này hợp lý hơn.
Đây không phải là một thị kiến của Đức Giêsu tiền hữu, bởi vì sự tiền hữu của Người không được Lc để ý đến trong TM, cũng không phải là một thị kiến Đức Giêsu có trong một lúc xuất thần trong thời gian đi hoạt động. Đây cũng không phải là một thị kiến báo trước về một điều sẽ xảy ra trong cuộc phán xét cuối cùng. Đúng hơn, Đức Giêsu “thấy” đây là một cách nói biểu tượng nhằm tóm tắt các hiệu quả mà các môn đệ đã đạt được khi đi thi hành sứ vụ.
– rắn rết, bọ cạp (19): Ở Paléttina, ai cũng biết rắn và bọ cạp là nguồn gây ra sự dữ thể lý, nhưng Cựu Ước dùng như biểu tượng để nói về mọi thứ sự dữ (x. Đnl 8,15; Ds 21,6-9;Hc 21,2; 1 V 12,11.14; Hc 39,30).
– tên anh em đã được ghi trên trời (20): Lời này gợi ý tới một hình ảnh của Cựu Ước: quyển sách sự sống ở trên trời, ghi tên những người thuộc về dân Thiên Chúa (Xh 32,32-33;Tv 69,28; 56,9; 87,6; Is 4,3; 34,16; Đn 12,1; Ml 3,16-17; Tân Ước dùng lại: Pl 4,3; Dt 12,23; Kh 3,6; 13,8; 17,8; 20,12.15; 21,27).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu chỉ định và sai phái bảy mươi [hai] môn đệ (1)
Ngoài việc sai phái Nhóm Mười Hai đi rao giảng và chữa lành (Lc 9,1-6), TM III kể rằng Đức Giêsu có chọn và cử một nhóm môn đệ khác (bảy mươi hay bảy mươi hai người) đi trước để dọn đường cho Người (10,1-12). Tuy Lc mô tả Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, tác giả không bao giờ cho biết các môn đệ được sai phái đi đâu và sau đó từ đâu trở về. Nhưng qua việc sai phái nhóm môn đệ này, ta hiểu là Đức Giêsu và sứ điệp của Người nhắm đến toàn thể nhân loại.
* Đức Giêsu ban chỉ thị cho bảy mươi [hai] môn đệ (2-12)
Đây là bản văn nhắc lại những chỉ thị ban cho Nhóm Mười Hai ở Lc 9,1-6, nhưng nêu bật hai điểm quan trọng: tính cấp bách và thái độ thù nghịch. Các môn đệ phải đi từng hai người một vì phải hành động trong tư cách chứng nhân. Các ông không được để cho các trở ngại làm chùn bước khi đi rao giảng về Nước Thiên Chúa. Việc chữa lành và loan báo phải làm nhanh như những thợ gặt phải nhanh tay thu hoạch lúa chín về kho. Các ông phải hiểu rằng các ông không được cử đi để làm những bổn phận xã hội, bởi vì những gì các ông phải giảng và phải làm sẽ đặt các ông ra một bên. Các ông sẽ không có giờ mà chào hỏi như quen làm, hay để ý tới loại lương thực các ông sẽ dùng, hoặc tìm nơi trú ngụ tiện nghi hơn. Sứ điệp các ông phải truyền đạt là: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”. Cung cách các ông làm việc là cung cách của các thợ gặt đang vội gặt lúa kẻo lúa bị hư đi. Tuy nhiên, các ông được cử đi như chiên con đi vào giữa bầy sói, nghĩa là không có phương thế tự vệ, như những thọ tạo yếu đuối đứng trước những tấn công gần kề.
Cc. 5-7 bàn đến cách cư xử của các môn đệ trong các nhà; còn cc. 8-9 bàn đến lối sống của các ông trong các thành phố.
Dường như lý do khiến tác giả Lc viết bản văn lặp lại này (“điệp văn”) là sứ mạng rao giảng không chỉ dành riêng cho Nhóm Mười Hai; những “người khác” cũng sẽ tham gia vào việc làm chứng cho Đức Giêsu và cho Lời của Người. Đây là chiều hướng của sách Cv.
Đức Giêsu không tức khắc truyền các môn đệ rao giảng và chữa lành. Vừa ghi nhận “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” xong, Ngài bảo các ông hãy cầu nguyện để xin Thiên Chúa sai thợ gặt đến. Việc gặt lúa là công việc của Thiên Chúa; các môn đệ chỉ là những người thợ được cử đến làm việc mà thôi. Như thế, kết quả của công việc thu hoạch không những lệ thuộc vào sự cộng tác của các ông, mà còn tùy thuộc vào lời cầu nguyện của các ông nữa. Chủ ruộng là Thiên Chúa (người ta phải rao giảng Nước của Ngài). Ở 8,11, Lời của Ngài được ví với hạt giống gieo vào lòng đất. Bây giờ việc rao giảng về Nước được gián tiếp so sánh với một mùa gặt. Đến đây ta ghi nhận rằng Đức Giêsu nhấn mạnh trên nhu cầu có các môn đệ như là các cộng sự viên; còn bản thân Người là người được sai đi rao giảng (4,18) nay sai những “người khác” đi, và đi đông người (10,1); các ông sẽ là những đại diện của Người (10,16).
Các chỉ thị kết thúc bằng một ghi nhận mang giọng đe dọa so sánh các thành đã từ chối các môn đệ tương tự thành quê hương Người là Nadarét, đã từ chối sứ điệp của Người, hoặc làng Samari nọ đã không tiếp đón Người khiến các môn đệ muốn xin lửa trời xuống thiêu hủy (9,53-54), với một thành Cựu Ước trứ danh, là Xơđom, đã bị lửa và diêm sinh thiêu rụi (St 19,24). Vào ngày phán xét, Xơđom với tất cả sự gian ác của thành lại được xử khoan hồng hơn các thành kia vì họ đã loại trừ những đặc sứ của Thiên Chúa. Lời đe dọa này trở thành điểm tựa cho những lời nguyền rủa sau đó (nhưng Phụng vụ không đọc ở đây).
Đến đây, cộng đoàn Kitô hữu thời tác giả Lc thấy những nỗ lực truyền giáo của họ được liên kết với sứ mạng của chính Đức Giêsu. Như vậy, công việc rao giảng của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi được bén rễ trong giáo huấn và lệnh truyền này của Đức Giêsu.
* Những nhận định sau khi bảy mươi [hai] môn đệ đi giảng về (17-20)
Tác giả đã gắn vào truyện Đức Giêsu sai phái “bảy mươi [hai] người khác” một lời tường thuật về việc các ông trở về, phần báo cáo của các ông về kết quả mỹ mãn, và ba lời bình của Đức Giêsu về báo cáo của các ông cho biết những hiệu quả đạt được trong tư cách đại diện của Người. Người ta không thể bỏ qua một bên, sự tương phản giữa sự việc Xatan từ trời rơi xuống và việc tên các môn đệ được ghi trên trời, và bên kia, sự tương phản giữa điều đi theo “danh” Người và hậu quả của công việc họ làm, là “tên” của họ thực sự được ghi trên trời.
Đức Giêsu tóm các hiệu quả của sứ vụ của bảy mươi [hai] ông bằng hình ảnh Satan bị trục xuất khỏi ngai (c. 18). Sau đó (c. 19), Người giải thích thêm sự thất bại của tà thần: trong tư cách đại diện của Đức Giêsu, các môn đệ có “quyền” trên mọi dạng biểu lộ của tà thần (thể lý, biểu tượng, và nhân học). Nhận xét cuối cùng của Đức Giêsu (c. 20) đưa sứ vụ của các môn đệ vào đúng viễn tượng thiên giới: lý do khiến các ông vui mừng là vì chính Thiên Chúa đã ghi tên các ông vào sổ hằng sống, vào danh sách những kẻ được Ngài ưu ái. Đức Giêsu lái sự chú ý của các môn đệ ra khỏi những tư tưởng về một thành công lẫy lừng, gây cảm giác mạnh, để đi đến một nhận định về tư cách của họ trên trời. Có quyền lực trên ma quỷ không bảo đảm cho có sự sống; được ghi tên vào sổ sự sống mới là điều đáng kể.
+ Kết luận
Các đòi hỏi của Đức Giêsu với bảy mươi [hai] môn đệ giống với những đòi hỏi đối với Nhóm Mười Hai (9,1-6). Hẳn đây cũng là những yêu cầu mà các nhà thừa sai mọi thời phải đáp ứng: loan báo hòa bình thiên sai và Nước Thiên Chúa đang đến, trong sự dịu êm và nghèo khó, nhân ái và phục vụ, vô vị lợi và chấp nhận nếp sống bấp bênh, thiếu tiện nghi và an toàn. Chỉ với cái giá này, các môn đệ mới đạt được chiến thắng trên Thần Dữ và công trạng được Thiên Chúa ghi nhớ.
5.- Gợi ý suy niệm
- Đức Giêsu đã ghi nhận: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Tuy nhiên, Người lại mời các môn đệ cầu xin chủ mùa gặt gửi thợ đến. Như thế, Ngài nhắc các ông nhớ rằng Thiên Chúa là Chúa của dân chúng và tất cả những gì liên hệ đến dân chúng thì đều ở dưới quyền chúa tể của Thiên Chúa. Ai muốn thật sự giúp đỡ dân chúng, thì không thể tự mình đi theo sáng kiến riêng và nhân danh mình, nhưng phải được chủ mùa gặt sai đi.
- Chính Đức Giêsu đã sai các môn đệ đi. Người xử sự như là chủ mùa gặt. Thật ra Người làm nhân danh Thiên Chúa và làm vì lòng từ bi thương xót đối với dân. Các môn đệ ra đi phải chu toàn sứ mạng theo chiều hướng này.
- Hành lý các môn đệ mang theo chẳng có gì, ngoài sứ điệp phải truyền đạt. Các ông không là gì khác ngoài tư cách sứ giả của sứ điệp này và các ông không mang theo gì ngoài sứ điệp này. Rõ ràng các ông cần mộthành trang và mộtnơi cư ngụ. Tuy nhiên, các ông không được đòi hỏi gì và bận tâm gì cả. Các ông chỉ phải hoàn toàn quan tâm đến sứ điệp của các ông mà thôi. Một đòi hỏi phải nghèo khó, khiêm nhường và chấp nhận yếu đuối như thế, thì ngược lại với cám dỗ muốn đạt hiệu năng bằng mọi giá.
- Việc loan báo Tin Mừng không thể là chuyện của mộtcá nhân riêng lẻ mà là việc của mộtcộng đoàn, cho dù ở dạng phôi thai. Không người môn đệ nào có thể tự cho rằng mình có sứ điệp Kitô giáo và có thể phản ảnh được hết sự phong phú của sứ điệp. Chính là trong đối thoại mà tôi sẽ nói về một vị Thiên Chúa đã chấp nhận đối thoại với loài người cho đến độ trở thành một người trong loài người.
- Chúng ta không phải là những người bảo thủ. Chúng ta cảm phục những lời dạy bảo của Đức Giêsu khi đi đường với hành lý gọn nhẹ; Người dạy phải tin tưởng vào Người và tin tưởng sứ điệp mà chúng ta mang theo. Tuy nhiên, có những nơi và những tình huống đòi buộc, thì chúng ta phải dùng đến những nguồn vật chất để cung cấp cho những nhu cầu thể lý của người dân. Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ chúng ta cả thân xác lẫn linh hồn. Vì vậy, các Kitô hữu phải gây quỹ để xây dựng bệnh viện, trại mồ côi, trường học, nhà cửa cho những ai lâm cảnh khốn khó.
Có những Kitô hữu gương mẫu đã thực hiện những công việc tốt lành này, trong số đó, có những người được phong thánh, có những người được biết đến như là những người tốt lành và là những người yêu thương kẻ bần cùng. Họ có thể giỏi với gạch vữa. Nhưng trong tim, họ không đặt tin tưởng vào “túi tiền”, “bao bị” hay “giày dép”, nhưng họ đặt tin tưởng vào Đấng đã sai họ đi với những lời, “Hãy ra đi…”. Nhiều người đã đối diện với “những con sói” tham mồi, tham vọng và uy quyền đang chống lại họ. Họ đã vượt qua những thế lực tiêu cực này, không phải bằng việc đọ súng với nhau, nhưng vượt qua bằng cách nhớ lại Đức Giêsu đã nói rằng họ sẽ có Thánh Thần cùng đồng hành (Siciliano).
[1] Vocative.
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
NIỀM VUI CỨU ĐỘ (*) – Lm. Inhaxiô Hồ Thông
***
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm C này là “niềm vui cứu độ”.
Is 66: 10-14
Ngôn sứ I-sai-a loan báo cho thành thánh Giê-ru-sa-lem điêu tàn sau năm mươi năm thử thách niềm vui về cuộc tái thiết thành đô sắp đến.
Gl 6: 14-18
Thánh Phao-lô nhắc cho các tín hữu Ga-lát nhớ rằng căn nguyên duy nhất của ơn cứu độ là thập giá của Đức Ki-tô. Chính qua con đường thập giá này, con đường của những thử thách mà thánh nhân phải chịu ở nơi thân xác của mình, thánh Phao-lô đã tự chứng tỏ là một thừa sai đích thật của Tin Mừng.
Lc 10: 1-12, 17-20
Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giê-su sai bảy mươi hai môn đệ ra đi thi hành sứ vụ. Nhờ vào tinh thần siêu thoát: không dính bén đến mọi sự vật trần thế, họ có một niềm vui thuần khiết, đó là không có gì ngoài sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ cho hết mọi người.
BÀI ĐỌC I (Is 66: 10-14)
Bản văn này trích từ tác phẩm của vị ngôn sứ vô danh, được gọi với biệt danh là I-sai-a đệ tam, một môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Thầy ông đã thi hành sứ vụ an ủi những người lưu đày ở Ba-by-lon; về phần mình, ông thực hiện sứ vụ tương tự như thầy mình là an ủi những người lưu đày này khi họ được hổi hương trở về Giê-ru-sa-lem, sau khi được vua Ba-tư là Ky-rô giải phóng vào những năm 539-538 trước Công Nguyên. Tuy nhiên, trước thực trạng điêu tàn của đất nước, họ chán nản ê chề.
- “Khăn tang” bao phủ Giê-ru-sa-lem:
Những người hồi hương ngậm ngùi trước cảnh tang thương: thành thánh Giê-ru-sa-lem không còn như xưa, nhưng điêu tàn và nghèo khổ. Đền Thờ vẫn hoang phế trơ gan cùng tế nguyệt suốt năm mươi năm trường sau cuộc tàn phá. Còn họ, họ khóc thương những người thân đã không còn nữa, nhà cửa bị đổ nát và đất đai bị cưỡng đoạt.
Trong cảnh ngộ thương tâm như vậy, vị ngôn sứ cất cao giọng loan báo niềm vui về cuộc tái thiết thành thánh sắp đến: “Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem, và hoan hỷ vì Thành hạnh phúc, hỡi những ai hằng mến yêu Thành”. Trước đây, trong đoạn văn chuẩn bị đoạn văn này, vị ngôn sứ viết: “Đức Chúa phán: Này đây Ta sắp sáng tạo trời mới đất mới…Phải, này đây, Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng” (Is 65: 17-19). Vì thế, những người hồi hương “đang khóc vì Thành đau khổ, hãy cùng Thành hớn hở tưng bừng”, vì Giê-ru-sa-lem sẽ được thịnh vượng và tràn đầy niềm vui.
2.Những viễn cảnh của Giê-ru-sa-lem tương lai:
Chúng ta đang đọc một đoạn trích từ bài thơ vĩ đại mang những dấu nhấn khải huyền. Giê-ru-sa-lem được mô tả như tiên trưng Giê-ru-sa-lem thiên giới: thành nhận được sự phú túc, thịnh vượng và niềm vui, cũng như con cái của thành được “hưởng nguồn an ủi và thỏa thích nếm mùi vinh quang”. Bởi vì Thiên Chúa đã mang đến cho thành ơn cứu độ và sự tái sinh.
“Này Ta đổ hòa bình tuôn xuống Thành Đô khác nào sông cả, khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ”. Chúng ta ghi nhận hai hình ảnh tương phản: hòa bình bắt nguồn từ Thiên Chúa được sánh ví với sông cả, nghĩa là những dòng nước hiền hòa, uy nghi, trong khi vinh quang của chư dân, tức nguồn phú túc của họ, được sánh ví với “thác vỡ bờ”, mà những dòng nước của nó thì thất thường, thậm chí nguy hiểm nữa.
3.Đức Chúa ân cần săn sóc dân Ngài như mẹ hiền âu yếm con thơ:
Đức Chúa cứu độ vì Ngài là một Thiên Chúa hằng giàu lòng xót thương. Vị ngôn sứ sánh ví việc Thiên Chúa quan tâm đến dân Ngài như mẹ hiền âu yếm con thơ: “Các con sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, nâng niu trên đầu gối”. Những người hồi hương bất hạnh cảm thấy mình được an ủi vỗ về trong tình mẫu tử của Thiên Chúa; lòng họ sẽ vui hưởng niềm hoan lạc và bản thân của họ sẽ tràn đầy sức sống “như cỏ đồng xanh”.“Chúa sẽ tỏ quyền lực của Người cho các tôi tớ biết”, nghĩa là Thiên Chúa sẽ ân cần săn sóc những ai trung thành với Người; trái lại, Người sẽ trừng phạt những quân vô đạo.
Niềm hoan hỷ của Giê-ru-sa-lem sau những năm thử thách cam go được sánh ví với niềm vui mà các tông đồ được hưởng sau những công lao khó nhọc từ sứ vụ của họ như Tin Mừng Lu-ca hôm nay tường thuật.
BÀI ĐỌC II (Gl 6: 14-18)
Bản văn này là phần cuối Thư gởi tín hữu Ga-lát. Phần kết này mang một cung giọng nồng nàn đầy sức thuyết phục. Thánh Phao-lô tiếp tục lấy mình làm mẫu gương để hỗ trợ cho những lời khuyên nhủ của thánh nhân.
1.Cắt bì đích thật:
Ở giữa những Ki-tô hữu Ga-lát gốc lương dân, những người Ki-tô hữu gốc Do thái tự phụ là mình tuân giữ phép cắt bì. Để trả lời cho những người Ki-tô hữu gốc Do thái này, thánh Phao-lô nói rằng thánh nhân không hãnh diện về bất cứ điều gì khác ngoài thập giá của Đức Ki-tô. Ấy vậy, luật của thập giá, chính là đóng đinh những đam mê xác thịt và những ham muốn trần thế vào thập giá để nên một với Đức Ki-tô. Đó mới là cắt bì đích thật. Thập giá là nguồn ơn cứu độ duy nhất. Nghi thức xưa không còn có nghĩa lý gì nữa; chỉ duy một điều đáng kể đó là “trở thành một thọ tạo mới”.
2.Dân Ít-ra-en mới:
Thánh Phao-lô cầu chúc bình an và xót thương cho tất cả những ai bước theo con đường này, con đường của những ai biết đoạn tuyệt với Do thái giáo. Thánh nhân liên kết những Ki-tô hữu gốc lương dân với “Ít-ra-en của Thiên Chúa”, họ cũng trở nên con cái của Lời Hứa, như thánh nhân đã nói trước đó: “Nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì anh em là dòng dõi ông Áp-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa” (Gl 3: 29).
3.Tông Đồ đích thật:
“Từ nay, xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi”. Lời phiền hà này được ngỏ với vài tín hữu Ga-lát, họ đặt vấn đề tính chính thống tước vị Tông Đồ của thánh nhân. Thánh Phao-lô đáp lại khi nhắc nhở rằng thánh nhân “mang trên mình những dấu tích của Đức Giê-su”, ám chỉ đến đòn vọt và những hành động hung bạo mà thánh nhân đã phải chịu ở Ga-lát (Cv 14: 19-20; x. 2Cr 6: 4-10). Những dấu tích này không phải là những dấu chỉ của tước vị Tông Đồ chính thống của thánh nhân sao?
Lời chào cuối thư đặc biệt ngắn. Đây là lời chào duy nhất ở đó những người nhận thư được gọi “anh em”. Đây là lời nguyện xin sau cùng cho sự hiệp nhất.
TIN MỪNG (Lc 10: 1-12, 17-20)
Chỉ duy một mình thánh Lu-ca kể cho chúng ta câu chuyện “Chúa Giê-su sai bảy mươi hai môn đệ ra đi thi hành sứ vụ”. Như thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, trước đó thánh Lu-ca cũng đã thuật lại câu chuyện “Chúa Giê-su sai nhóm Mười Hai ra đi thi hành sứ vụ” (Lc 9: 1-6; Mt 10: 5-15; Mc 6: 7-13). Những lời khuyên bảo và những chỉ thị Chúa Giê-su ban cho trong hai trường hợp sai đi gần như tương tự nhau. Tại sao lại có sứ vụ mới này?
1.Dấu chỉ phổ quát:
Con số bảy mươi hai (hay bảy mươi, theo vài thủ bản) rõ ràng quy chiếu đến bản liệt kê các dân tộc trên mặt đất của chương 10 sách Sáng Thế. Tất cả nhân loại đều là con cháu của ông Nô-ê và bị phân tán thành bảy mươi dân tộc theo bản Kinh Thánh Hy-bá, hay thành bảy mươi hai dân tộc theo bản Kinh Thánh Hy-ngữ.
Sứ vụ của nhóm bảy mươi hai môn đệ báo trước việc loan báo Tin Mừng khắp tận cùng thế giới; sứ vụ này chuẩn bị “các nơi mà chính Người định đến”. Sứ vụ bao la đến độ Đức Giê-su phải nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin Chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về”.
2.Ý nghĩa của việc sai đi:
Sự kiện một kinh sư sai các môn đệ của mình ra đi thi hành sứ vụ là một điều mới mẻ. Không một kinh sư nào ở Ít-ra-en, dù có đông đảo các môn đệ đến thế nào đi nữa, lại nẩy sinh ý tưởng là sai các môn đệ ra đi truyền bá sứ điệp của mình. Ấy vậy, Đức Giê-su “sai phái” các môn đệ ra đi thi hành sứ vụ. Trong Cựu Ước, chính Đức Chúa“sai phái” các sứ giả của Người ra đi thi hành sứ vụ, vì thế ngôn từ tự nó đã mặc lấy cung giọng thời thiên sai. Đức Giê-su là “Đấng được Chúa Cha sai phái” để rồi đến lượt mình, Ngài sai phái các môn đệ của Ngài. Các tác giả Tin Mừng nhiều lần kể ra cử chỉ này của Đức Giê-su.
Ở đây, Đức Giê-su sai các môn đệ cứ từng hai người như Ngài đã làm như vậy đối với nhóm Mười Hai. Nếu có hai người cùng nhau làm việc, thì công việc sẽ dễ dàng hơn; nhưng nhất là, theo Lề Luật, một biến cố chỉ được chứng thực nếu có ít nhất hai nhân chứng. Ngoài ra, sứ điệp Tin Mừng không là công việc của một cá nhân, nhưng một tập thể, một cộng đồng, toàn thể Giáo Hội.
3.Tinh thần siêu thoát:
Các môn đệ có nguy cơ gặp phải một thế giới thù nghịch: “Này Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói”. Chẳng quan trọng gì. Sự khó nghèo và niềm cậy trông vào ơn Quan Phòng của Chúa, đó phải là dấu hiệu của vị thừa sai. Không túi tiền bạc, không bao bị để đựng vài vật dụng cá nhân hay thức ăn, thậm chí giày dép cũng không.
“Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”. Đây là lời khuyên thích hợp cho những người Đông Phương, vốn thích những hình thức chào hỏi xã giao dài dòng. Người môn đệ chỉ có một hành trang đích thật, đó là sự bình an tự tại mà người ấy có thể truyền đạt. Bình an mà người môn đệ Chúa Giê-su trao ban vượt quá lời chào bình an (shalom) của người Do thái, vì đó là sự bình an bắt nguồn từ Chúa. Sự bình an này được nhân cách hóa; nếu sự bình an này bị khước từ, nó “sẽ trở về với anh em”.
4.Ở giữa dân ngoại:
Chúa Giê-su căn dặn nhóm bảy mươi hai môn đệ: “Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó”. Một huấn thị thật ý nghĩa trong khi thi hành sứ mạng giữa muôn dân, nhưng không được gặp thấy trong những lời dặn dò cho nhóm Mười Hai. Huấn thị này hàm chứa một bữa ăn được dọn ở tại nhà dân ngoại. Thánh Phao-lô cũng sẽ phát biểu như thế: “Nếu có người ngoại nào mời anh em…, thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần phải đặt vấn đề lương tâm” (1Cr 10: 27), vì “trái đất và muôn loài muôn vật trên trái đất đều là của Chúa” (1Cr 10: 26). Ngay từ bây giờ, Chúa Giê-su loan báo rằng người Ki-tô hữu được phép ăn mọi thứ thức ăn, không còn phân biệt những thức ăn thanh sạch với thức ăn không thanh sạch nữa. Hiển nhiên, huấn thị của Ngài nhắm đến scông cuộc loan truyền Tin Mừng ở giữa muôn dân.
5.Những thất bại:
Đức Giê-su báo trước cho các môn đệ những thất bại, tuy nhiên những thất bại sẽ không ngăn cản được công việc loan truyền Tin Mừng: “Vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra ngoài đường phố mà nói: ‘Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại cho các ông. Tuy nhiên các ông biết điều này: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần”.
Việc “phủ bụi chân” là cử chỉ người Do thái thường làm khi trở về đất Pa-lét-tin, để không đưa bụi trần vào đất thánh của họ (như tín đồ Hồi Giáo cỡi giày dép trước khi bước vào đền thờ). Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba, bị trục xuất khỏi thành An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, “liền giũ bụi chân” (Cv 13: 51), cử chỉ này không bày tỏ sự khinh bĩ nhưng bày tỏ thái độ đoạn tuyệt.
6.Niềm vui đích thật:
Bảy mươi hai môn đệ trở về, lòng hớn hở; họ đã chứng kiến uy quyền của triều đại Thiên Chúa và sự thất bại của những quyền lực sự ác. Nhân danh Chúa Giê-su, họ đã trục xuất ma quỷ.
Chúa Giê-su khẳng định với các môn đệ rằng Ngài có quyền trên ma quỷ và Ngài thông ban quyền này cho họ. Ở đây, Ngài sử dụng kiểu nói thánh vịnh và ngôn ngữ khải huyền để cho họ thoáng hiểu rằng Ngài đã đến trần thế này cốt là để chiến thắng Ác Thần. Quả thật, thánh Vịnh 91 hứa với người công chính là Thiên Chúa sẽ ban ơn phù trợ: “Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc…”. Chính Thánh Vịnh này mà Xa-tan trích dẫn khi nó thử thách Đức Giê-su trong hoang địa (Lc 4: 10-11), vì thế, Đức Giê-su đã chiến thắng Ác Thần này ngay từ lúc ấy. Còn câu nói:“Thầy đã thấy Xa-tan từ trời sa xuống như chớp” được gợi hứng từ ngôn ngữ của các sách khải huyền nói về sự sa ngã của các thiên sứ. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su cũng loan báo bằng những ngôn từ như vậy: “Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài” (Ga 12: 31).
Thánh Lu-ca viết chương này như tham dự trước sứ vụ của Giáo Hội trong sách Công Vụ mà chính thánh ký cũng là tác giả. Trong sách Công Vụ, thánh nhân kể ra nhiều lần các môn đệ hớn hở vui mừng. Tên của họ “đã được ghi trên trời”: ám chỉ đến Sách Sự Sống, hình ảnh kinh điển của các sách khải huyền, mà nhiều đoạn văn Cựu Ước đã gợi lên rồi (Xh 32: 32; I s 4: 3; Tv 60: 29; Đn 12: 1). Điều này muốn nói rằng họ sẽ được liệt vào số những người được chọn và chính Thiên Chúa sẽ là nguồn hạnh phúc của họ.
(*) Tựa đề do BTT. WGPBR. đặt
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
CHÚA SAI TÔI ĐI – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
***
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2- Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3- Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?
4- Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
CHÚA SAI TÔI ĐI LOAN TIN BÌNH AN VÀ HẠNH PHÚC – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
***
“Ngài sai họ đi từng hai người một” (Lc 10,1)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Is 66,10-14c) : Khi dân do thái đang vừa trở về từ chốn lưu đày, ngôn sứ Isaia loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban bình an và hạnh phúc tràn trề cho họ.
– Đáp ca (Tv 65) : Ca tụng những phúc lành của Thiên Chúa.
– Tin Mừng (Lc 10,1-12.17-20) : Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi loan báo Tin Mừng.
– Bài đọc II (Gl 6,14-18) : Thánh Phaolô loan báo những phúc lành mà Thập giá Chúa Giêsu ban cho các tín hữu.
- DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi như những sứ giả của sự bình an và hạnh phúc. Ngày nay Chúa cũng sai chúng ta như thế. Nhưng muốn là những sứ giả của bình an và hạnh phúc thì trước tiên chúng ta phải có bình an và hạnh phúc trong lòng chúng ta. Đó là hai ơn rất quý mà chúng ta hãy xin Chúa ban trong Thánh lễ này.
- GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta chỉ lo đến phần rỗi của riêng mình mà không nghĩ đến việc cứu rỗi người khác.
– Trong cuộc sống chung đụng với người khác, chúng ta chưa thực sự là những người mang lại bình an và hạnh phúc cho họ.
– Chúng ta chưa được như Thánh Phaolô, biết sung sướng hãnh diện vì Thập Giá Đức Kitô.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I(Is 66,10-14c)
Vua Cyrus nước Ba Tư vừa tiêu diệt đế quốc Babylon và ký sắc lệnh cho phép dân do thái hồi hương. Trong bầu khí phấn khởi vui mừng đó, ngôn sứ Isaia nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ ban phúc lành cho dân. Điều đáng lưu ý là phúc lành quý giá nhất chính là ơn bình an : “Ta sẽ làm cho bình an chảy đến nó (Giêrusalem) như con sông”.
- Đáp ca(Tv 65)
Tv này reo mừng Thiên Chúa và ca ngợi về những ơn lành của Ngài.
- Tin Mừng(Lc 10,1-12.17-20)
Đoạn Tin Mừng này đã được Phụng vụ cắt bớt khúc giữa (cc 13-16), để chỉ còn lại hai phần chính : Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng (cc 1-12), và các môn đệ rao giảng xong trở về kể chuyện cho Ngài nghe (cc 17-20)
a/ Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng :
– Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.
– “Từng nhóm hai người” : Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
– “Hãy cầu xin” : Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
– “Như chiên non vào giữa sói rừng” : Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.
– “Đừng chào ai dọc đường” : việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.
– “Bình an cho nhà này” : đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45,23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.
– “Cứ ở lại nhà ấy” : gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.
– “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình” : sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình).
– “Thợ đáng trả lương” : đây là một nguyên tắc (1Tm 5,18 ; 1Cr 9,11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9,14-18).
– “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy” : Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10,27).
– “Hãy chữa lành các bệnh nhân“ : đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến.
– “Phủi bụi chân” : người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.
– Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.
b/ Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Chúa Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ : Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”)
- Bài đọc II(Gl 6,14-18) (Chủ đề phụ)
Trong đoạn thư này gởi tín hữu Galata, Thánh Phaolô chia xẻ cho họ biết một Tin Mừng đặc biệt mà Ngài khám phá ra, đó là giá trị tuyệt vời của thập giá Đức Kitô :
– Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người
– Thập giá trở thành lẽ sống của Phaolô
– Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc của Ngài.
- GỢI Ý GIẢNG
* 1. Những kẻ mang bình an
Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào một nhà nào là “Bình an cho nhà này”. Như thế nghĩa là họ sẽ làm những sứ giả của sự bình an. Nói cách khác, làm sứ giả của bình an là sứ mạng đầu tiên của người môn đệ Chúa.
Bắc Ai Len là một đất nước mà hai khối dân Công giáo và Tin lành thù ghét nhau và nhiều lần bắn giết nhau. Vào một dịp lễ Giáng sinh, một Linh mục công giáo đi sang bên kia đường để đến thăm một Mục sư Tin Lành. Vị Mục sư rất cảm động, đón tiếp vị Linh mục rất niềm nỡ. Ít lâu sau Vị Mục Sư cũng sang bên kia đường để thăm vị Linh mục. Tình thân giữa hai người ngày càng thắm thiết hơn. Tuy nhiên một vài tín đồ lớn tuổi thì nổi giận. Họ tìm đủ cách để cấp trên của Giáo Hội thuyên chuyển vị Mục sư ấy đi nơi khác.
Vị Linh mục và Vị Mục sư trên chỉ làm điều mà tất cả các môn đệ Chúa Giêsu phải làm, đó là làm những sứ giả của bình an và hòa giải trong một xã hội có nhiều chia rẻ.
Bình an không phải là một cái gì tiêu cực do không có chiến tranh và thù hận. Nó đòi phải có tinh thần cởi mở, tình huynh đệ, lòng khoan dung, thiện chí và ước muốn hòa giải. Nó buộc chúng ta đi đến với người khác. Nó giúp chúng ta gỡ bỏ những rào cản của nghi kỵ, sợ hãi, thành kiến và óc cố chấp.
Trước lúc Rước Lễ, chủ tế chúc “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đây thực là một món quà quý giá mà thế gian không thể ban tặng được. Tiếp đó chủ tế kêu gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Đáp lời Ngài, chúng ta chào nhau, đến bắt tay nhau hoặc ôm hôn nhau. Ước chi những cử chỉ đó không phải chỉ là hình thức mà thực sự bày tỏ lòng thân thiện của chúng ta. Cuối Thánh lễ, chủ tế lại chúc “Chúc anh chị em ra về bình an”. Câu này có nghĩa là chúng ta đã đến nhà thờ lãnh nhận bình an của Chúa, vậy khi ra về chúng ta cũng hãy mang bình an ấy đến cho mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ.
* 2. Mênh mông lúa đồng
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói : “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp : “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên : “Đã thấy !” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên : “Đã thấy !”
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích : “Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh : “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên !” Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.
Ông John Kener kết luận : “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.
Đã qua 2000 năm nhưng lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3%.
Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù ; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói : “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc 10,3) (…)
“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình : Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticano II cũng long trọng khẳng định : “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Thánh Cha Gian Phao lô II cũng quả quyết : “Không một ai trong những người rin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này : Đó là toan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).
Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “Ra đi”.
Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.
Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như trong tâm hồn.
Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.
Thánh Phao lô đã phải thốt lên : “Khốn cho thân tôi : nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Nhưng việc làm mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói : “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng”.(TP)
* 3. “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít“
Catherine de Hueck Doherty làm việc trong một quán bar ở Mahattan. Đến 4 giờ sáng, cô nói lời tạm biệt với các khách uống rượu. Một người hỏi :
– Cô đi đâu ?
– Tôi phải đu Nhà thờ dự Thánh lễ, vì hôm nay là Chúa nhật.
– Thế cô là người công giáo hả ?
– Đúng vậy.
Nhiều người trong đám khách rất ngạc nhiên vì không ngờ Catherine có thể vừa là một người công giáo ngoan đạo vừa làm việc tại một nơi phức tạp như vậy. Vài tuần sau, một người trong đám khách trở lại nói với Catherine : “Cô đã khiến tôi suy nghĩ nhiều. Cô có thể vừa sống đạo tốt vừa làm việc ơ một nơi như thế này, thì tại sao tôi không thể !” Và người ấy đã trở lại nhà thờ.
Lần khác, Catherine đang trên đường tới trạm xe điện ngầm thì gặp một bà cụ. Bà cụ mở lời “Cô có vui lòng nói chuyện với tôi giây lát không ?” Cô vui vẻ nhận lời. Hai người đã nói chuyện với nhau trong suốt chặng đường. Sau đó hai người còn kết thân với nhau và Catherine thường xuyên tới thăm viếng bà cụ cho tới ngày bà cụ qua đời.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Một kitô hữu có ý muốn làm thợ gặt như cô Catherine thì không bao giờ thiếu dịp để gặt lúa cho Chúa.
* 4. Mảnh suy tư
Tông đồ là kẻ được sai đi.
Vì thế làm tông đồ rất khác với làm chuyên viên. Làm chuyên viên thì cần phải có tài năng. Còn làm tông đồ thì chỉ cần đi theo lệnh Chúa sai, đến với người Chúa sai mình đến, và mọi việc khác hầu như Chúa sẽ làm tất cả.
- Chuyện minh họa
a/ Đi giảng
Ngày kia, thánh Phanxicô Assadi nói với một thày dòng : “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.” Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thày dòng thắc mắc hỏi : “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà !” Thánh Phanxicô đáp : “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó ! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao ?”
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô-hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ.
b/ Khuôn vàng thước ngọc
“Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe ; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe”.
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi người Kitô hữu cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Người. Với ước mong trở nên những sứ giả Tin mừng cứu độ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
- Hội thánh là dấu chỉ ơn cứu độ Chúa sẵn sàng ban cho hết thảy mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gửi nhiều thợ gặt lành nghề / đem tin mừng đến cho mọi loài thọ tạo.
- Khát vọng sâu xa nhất của con người ở mọi thời đại / là được sống bình an và hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh / để hết thảy mọi người đều được sống hạnh phúc và an bình.
- Tin tưởng vào Chúa quan phòng là thái độ người Kitô hữu cần có suốt cuộc đời của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa / mỗi khi gặp thử thách gian truân.
- Số linh mục trên thế giới ngày nay thiếu hụt trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết góp phần vào việc đào tạo linh mục tương lai của các giáo phận / bằng lời cầu nguyện / cũng như bằng việc rộng rãi giúp đỡ Chủng viện.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con đem Tin mừng cứu độ, mang sứ điệp yêu thương đến cho biết bao anh chị em chưa nhận biết Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết dùng đời sống bác ái yêu thương và phục vụ tận tụy, mà làm tròn sứ mạng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
RA ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG – Lm Giuse Đinh lập Liễm
***
- DẪN NHẬP.
Đức Giêsu đã đi rao giảng Tin mừng Nước Trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi ngườiø được nghe biết Tin mừng. Mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ :”Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về”(Lc 10,2).
Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và đã trở về trong hân hoan. Đức Kitô cho họ biết họ hãy vui mừng vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước Trời.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn muốn cho công việc rao giảng Tin mừng ấy phải được tiếp tục trong Hội thánh. Vậy những ai được và phải loan báo Tin mừng ấy ? Đó là mọi Kitô hữu. Tất cả những ai đã được chịu phép rửa tội đều có sứ mạng nên thánh và truyền giáo (Redmptoris Missio)). Như vậy, các thợ gặt trong cánh đồng truyền giáo không phải chỉ là các Linh mục và nam nữ tu sĩ mà là mọi người mang danh là Kitô hữu. Chúng ta hãy tham gia vào việc truyền giáo bằng cách sống sâu sắc niềm tin của mình và cố gắng trở nên muối đất và ánh sáng cho trần gian trong mọi môi trường xã hội mình đang sống.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 66,10-14c.
Vua Cyrus nước Ba tư vừa tiêu diệt đế quốc Babylon và ký sắc lệnh cho phép dân Do thái hồi hương. Tuy đã được thoát khỏi ách lưu đầy, dân Do thái vẫn tỏ ra chán nản vì Giêrusalem vẫn chưa được phục hưng như bao người mong đợi. Tiên tri Isaia yên ủi họ bằng cách nêu lên những niềm hy vọng về một tương lai còn mờ mịt. Sau những cơn đau dữ dội của việc sinh con, người phụ nữ Sion cảm thấy vui mừng thư thái.
Đó là hình ảnh dân Do thái, một dân tộc được Chúa săn sóc với một tình yêu của một người mẹ. Chúa sẽ ban phúc lành cho dân, và phúc lành quí giá nhất là bình an.
+ Bài đọc 2 : Gl 6,14-18.
Đây là đoạn cuối thư gửi cho tín hữu Galata, thánh Phaolô nói lên trọng tâm của Đạo thánh là mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô. Có những người coi thập giá là cớ vấp phạm, có người cho là sự điên rồ, nhưng thánh Phaolô đã khám phá ra giá trị tuyệt với của nó :
– Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người và ban cho họ sự sống mới.
– Thập giá là lẽ sống của thánh Phaolô :”Đối với tôi, không một vinh quang nào khác ngoài vinh quang thập giá Đức Kitô”.
– Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc của ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 10,1-12.17-20.
Bài Tin mừng được chia thành hai phần :
- a) Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng.
Trong bài Tin mừng, Luca và chỉ có Luca tường thuật việc Đức Giêsu tuyển chọn 72 môn đệ và sai đi trước “đến các thành và các nơi mà chính Ngài sẽ tới”. Con số 72 được nhắc đến, phải chăng là để ám chỉ 72 nước phát xuất từ miêu duệ ông Noê sau đại hồng thủy, hình ảnh thế giới được kêu gọi đón nhận Tin mừng. Luca nhấn mạnh rằng không riêng gì các Tông đồ, mà tất cả mọi người được Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin mừng, vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến”(Lc 10,2).
- b) Khi đi truyền giáo trở vê.
Sau một thời gian đi truyền giáo trở vê, các môn đệ vui mừng kể lại cho Đức Giêsu nghe về những thành công của mình, nhất là thành công trên ma quỉ. Trong tình thân mật thầy trò, Ngài chia vui với các ông, đồng thời cũng nhắc nhở các ông rằng những thành công ấy đáng ghi nhận , nhưng thành công lớn lao là họ được Thiên Chúa coi họ là công dân Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”).
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Này Thầy sai các con đi
- CÁNH ĐỒNG TRUYỀN GIÁO HÔM NAY.
- Cánh đồng lúa chín Sichar.
Đức Giêsu đã ra đi rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa. Ngài nhận thấy dân chúng muốn được nghe rao giảng Tin mừng. Có những người quên ăn quên ngủ đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng, đến nỗi thấy họ đói, Ngài đã làm cho bánh hoá nhiều hai lần để nuôi sống họ. Ngài thấy cánh đồng truyền giáo còn rộng rãi bao la bát ngát trải rộng ra trước mắt Ngài. Cánh đồng lúa chín là mối ưu tư hàng đầu của Ngài, nên khi đi qua cánh đồng lúa chín Sichar, đúng là tức cảnh sinh tình, Ngài đã bộc lộ tâm tư với các môn đệ :”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến gặt lúa của Người”(Lc 10,2).
- Cánh đồng truyền giáo hôm nay.
Chúng ta nhận thấy trên thế giới hôm nay có gần 7 tỷ người, nhưng mới có 1,5 tỷ người biết Chúa. Tại Á châu, trong số 3,5 tỷ người mới chỉ có 100 triệu tín hữu Công giáo, tính theo tỷ lệ là 2,6%. Như vậy, cứ 100 cánh đồng lúa chín, mới có 2,6 cánh đồng có thợ gặt, còn 97,4 cánh đồng bị bỏ hoang. Chưa kể toàn bộ cánh đồng đã bị bỏ hoang mãi cho đến thế kỷ 16 mới có thợ gặt. Đặc biệt thánh Phanxicô Xaxiê không chỉ là thợ gặt mà là máy gặt.
Riêng tại Việt nam chúng ta, dân số hiện nay lên tới 86 triệu, mà số người Công giáo mới tới hơn 6 triệu, tính ra mới được 7%, còn lại 93% kia thì sao ? Cánh đồng truyền giáo của chúng ta vẫn còn trải ra trước mắt.
Vì thế, trước tình trạng khẩn cấp ngày nay, Thượng Hội đồng Giám Mục Á châu đã được tổ chức tại Roma, từ ngày19/04 đến 15/05/1998, gồâm có 158 vị đại diện hàng Giám mục Á châu và một số Giám mục đại diện các châu lục khác, cùng với một số chuyên viên, tất cả 230 vị dưới quyền hướng dẫn của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II để bàn về vấn đề truyềân giáo của Á châu ngày nay.
- Đức Giêsu sai các môn đệ đi truyền giáo.
Chỉ có Luca tường thuật việc Đức Giêsu chọn 72 môn đệ và sai đi trước “đến các thành và các nơi mà chính Ngài sẽ tới”. Con số 72 hay 70 (tùy theo thủ bản Hy lạp hay Hy bá) có liên hệ với con số 72 dân tộc làm nên nhân loại theo bản thống kê dân số của Kinh Thánh sau cơn đại hồng thủy (St 10,10).
Theo các giáo phụ của Giáo hội Công giáo, số 72 là con số có tính cách biểu tượng của các dân tộc và quốc gia trên thế giới vào thời Đức Giêsu sinh sống.
- Cousingiải thích thêm : Bảy mươi hai ông thực ra không phải chỉ là những giao liên tiền trạm, nhưng họ chính là những đại sứ đặc mệnh toàn quyền, giống như nhóm Mười Hai, có quyền lực trên các thần dữ (9,17) và có trách nhiệm công bố Nước Thiên Chúa (10,11). Như thế tác giả muốn xác định rằng không chỉ có Mười Hai ông mới được chính thức được Đức Giêsu bổ nhiệm đi truyền giáo trước lễ Vượt qua. Nhưng khi Đấng Phục Sinh hiện ra, thì cả Nhóm Mười Một với những người đồng hành sẽ là những người được Chúa trao cho sứ mạng truyền giáo (Fiches dominicales C, tr 239).
- TƯ CÁCH CỦA NHÀ TRUYỀNGIÁO.
- Tinh thần hiệp thông.
Đức Giêsu sai “Cứ từøng hai người” đi trước Ngài vì họ phải hoạt động với tư cách chứng nhân. Theo truyền thống Kinh Thánh, người ta không được đặt tin tưởng vào lời xác quyết của một người duy nhất, mà cần phải có lời của hai hoặc ba nhân chứng.
- Cousinquả quyết : “Con số hai không do ngẫu nhiên, bởi vì khi có tranh cãi (Đnl 19,15), câu nói đáng tin phải dựa trên lời của hai hoặc ba nhân chứng, trường hợp giả dụ được nói đến ở câu 10-11. Trong sách Công vụ Tông đồ, Luca sẽ minh hoạ công việc truyền giáo của “từng cặp”, như Phaolô và Barnabê (13,2-4), Barnabê và Marcô, Phaolô và Sila (15,39-40).
(Fiches dominicales C, tr 240).
- Tinh thần chịu đựng.
Đức Giêsu nhắên nhủ các môn đệ :”Thầy sai các con đi như chiên con đi giữa bầy sói” (Lc 10,3). Các con hãy ra đi ! Đây là một lệnh truyền. Ngài không che giấùu sự khó khăn trong việc truyền giáo. Sự khó khăn này do kẻ thù của Nước Trời gây ra. Các ông sẽ bị bắt bớ bởi đó là số phận của những kẻ được gọi để rao giảng Nước Trời. Đứng trước những khó khăn, các môn đệ như con chiên giữa sói rừng. Con chiên thì hiền lành. Vì thế các môn đệ phải có lòng khoan dung, nhân hậu và yêu thương thù địch, chứ không thù oán như thái độ của Giacôbê và Gioan đối với người Samaria (Lc 9,54).
- Tinh thần siêu thoát.
“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép…”. Đức Giêsu đòi các môn đệ phải có tinh thần siêu thoát đối với của cải vật chất. Nói rõ ra, Ngài đòi các môn đệ phải sống khó nghèo thực sự, vì khó nghèo là điều kiện để được vào Nước Trời (Lc 6,20). Không nên ỷ vào các phương tiện của con người. Đức Giêsu đã không sử dụng võ khí của quyền lực, của giầu sang, lộng lẫy, huy hoàng… Do đó, yêu sách đầu tiên của Giáo hội là theo gương của Thầy mình là trở nên khó nghèo.
- Tinh thần nhanh nhẹ.
“Đừng chào hỏi ai dọc đường”.
Đây không phải là một lệnh về sự vô lễ, nhưng là một sứ mệnh khẩn cấp không được trì hoãn. Giống như xưa kia người đầy tớ của tiên tri Êlisê trong sách các Vua (2V 4,29), các sứ giả được lệnh lên đường đừng mất nhiều thì giờ trong việc chào hỏi dài dòng của người phương Đông.
Lời khuyên nhủ này có ý nhắc nhở các môn đệ hãy tránh xa những chuyện vô ích thường thấy trong xã hội Cận đông thời Đức Giêsu. Người môn đệ đi truyền giáo đừng chia trí nhưng dồn nỗ lực vào việc rao giảng Nước Trời là điều cấp bách.
- Tinh thần kiên nhẫn.
“Vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón”.
Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này. Ngài đã phải đối diện với những thất bại, những sự khước từ, chống đối, không tin. Do đó, Ngài muốn truyền cho các môn đệ kinh nghiệm đó để các ông đừng ngạc nhiên, đừng thất vọng. Nhưng các ông hãy tin chắc rằng, dù các ông có muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa sẽ hiển trị, Nước Thiên Chúa sẽ phổ biến khắêp nơi.
Tuy nhiên, về phía các ông, trong thời gian rao giảng Tin mừng, các ông sẽ gặp phải sự chống đối và khước từ. Các ông hãy nhẫn nhục chịu đựng, đừng nổi nóng lên như trường hợp ông Giacôbê và Gioan muốn xin lửa trên trời xuống đốt cháy dân làng Samaria đã dám từ chối không tiếp nhận Đức Giêsu và các ông. Sau cùng, những thất bại cấp thời của các ông vẫn góp phần vào việc làm thành một thành công lớn : Nước Chúa sẽ hiển trị. Đừng sợ thất bại vì ngạn ngữ Pháp có nói :”Thất bại là mẹ thành công”.
III. ƠN GỌI RA ĐI TRUYỀN GIÁO.
- Sứ mạng truyền giáo của mọi người.
Khi xuống thế làm người, một phần nào đó, Đức Giêsu bị hạn chế trong không gian và thời gian, nhưng quyền năng của một Ngôi Vị Thiên Chúa nơi Ngài đâu có bị giảm sút. Thế mà, thay vì sống trăm tuổi hay trường thọ hơn nữa để có đủ thời giờ rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân thì Ngài lại chỉ sống có 33 năm và dành vỏn vẹn có 3 năm để đi giảng đạo. Thêm vào đó, Ngài còn nhờ đến mấy ông quê mùa, dốt nát phụ giúp công việc truyền đạo khi chọn 12 Tông đồ và 72 môn đệ. Kết quả là sau 20 thế kỷ, nhân loại nay đã gần 7 tỷ người mà chỉ có một tỷ rưỡi Kitô hữu. Tại sao Chúa không dùng quyền phép bắt nhân loại theo đạo cả mà phải nhờ đến con người phụ giúp và còn dạy phải xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt truyền giáo ?
Lý do là vì Chúa muốn mọi tín hữu phải thâm tín rằng việc rao giảng tin mừng, mở rộng Nước Chúa là công việc của con người, chứ không phải để mặc Chúa lo toan, định liệu cả. Vì thế, Khi Đức Giêsu bảo chúng ta xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt, điều đó chứng tỏ Chúa muốn trao cho chúng ta trách nhiệm là phải lo lấy phần rỗi của mình và của anh em nữa.
Ngay khi lãnh Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu đã được Chúa Cứu Thế kêu mời tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Trong hiến chế tín lý Lumen gentium, công đồng VaticanII nhấn mạnh rằng ơn gọi nên thánh phổ quát bao gồm trong lời mời gọi mọi người tiến đến sự trọn hảo của lòng bác ái. Sự nên thánh và sứ mạng truyền giáo là những khía cạnh bất khả phân ly của ơn gọi dành cho mọi người đã chịu phép rửa tội. Cam kết trở nên thánh thiện hơn được liên kết chặt chẽ với sứ mạng truyền bá thông điệp cứu độ.
Trong thông điệp Redemptoris Missio của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô 2, đoạn 9, có nhắc lại rằng :”Mọi tín hữu được mời gọi đến với sự thánh thiện và sứ mạng truyền giáo”.
- Việc Tông đồ giáo dân.
Bảy mươi hai môn đệ còn là hình bóng của mọi tín hữu được kêu mời tham gia vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm. Đức Giêsu đã nói :”Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”. Vậy thợ gặt là ai ? Trước đây người ta thường dành danh xưng “thợ gặt” cho các Linh mục. các tu sĩ nam nữ, các nhà truyền giáo. Đây là một nhầm lẫn. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không cảm nghiệm nơi mình nỗi lo âu của Đức Giêsu trước cánh đồng lúa chín mênh mông. Những tác vụ đa dạng sẽ làm nảy sinh những hình thức hoạt động khác nhau nơi mỗi người, nhưng ai nấy theo cách của mình, đều được gọi và làm việc ở đồng lúa chín (L. Sintas).
Thánh Luca cho biết các cộng đoàn Kitô hữu được khai sinh ở giữa các đô thị và vùng đất của dân ngoại. Một số các nhà thờ địa phương ấy được khai sinh không phải do hoạt động của các tông đồ được chính thức ủy nhiệm, nhưng do hoạt động tông đồ của giáo dân, của các ông, các bà phải di chuyển vì nghề nghiệp và họ đã loan báo Đức Giêsu (Rm 16).
Giáo hội được xây dựng trên nền tảng Tông đồø thì đồng thời cũng dựa trên sức mạnh của từng viên gạch nối kết đó đây xuất hiện những Giáo hội địa phương giữa vùng đất “ngoại” do những người đàn ông đàn bà giáo dân gầy dựng. Giáo hội Triều tiên chẳng hạn đã được khai lập đầu tiên không phải do các Linh mục thừa sai mà do chính giáo dân bản xứ, như ngày xưa, tiếng gọi của một người Macédonia :”Hãy vượt biển, đến cùng chúng tôi”(Cv 16,9) đã hấp dẫn Phaolô và là nguyên do của giáo đoàn.
Truyện : Đôi tay của Chúa.
Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và tin tưởng của người dân trong làng vừa mới đuợc giải phóng khỏi tay quân Đức Quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng minh cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.
Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được. Vì các mảnh vụn lớp thì bị bể quá nhỏ, lớp thì đã bị nát thành như bụi.
Sau nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn những người dân trong làng, mà còn thu hút được nhiều khách du lịch đến vùng này để đọc tận mắt hàng chữ đầy ý nghĩa. Các bạn có thể đoán được hàng chữ này không ? Đó là : “CHÍNH BẠN LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”.
- Truyền giáo bằng sống niềm tin.
Trong bí tích Rửa tội, Linh mục hỏi người chịu phép rửa :
– Hôm nay con xin gì cùng Hội thánh ?
Người chịu phép thưa :
– Thưa, con xin đức tin.
Linh mục hỏi tiếp :
– Đức tin sinh ơn ích gì cho con ?
Người chịu phép thưa :
– Thưa, đức tin đem lại cho con sự sống đời đời.
Như vậy, Thiên Chúa đã ban đức tin cho người chịu phép rửa tội, và một khi đã là một Kitô hữu thì phải có đức tin. Một Kitô chỉ có đức tin thôi chưa đủ, còn phải sống đức tin nữa, nghĩa là phải thể hiện đức tin ấy trong cuộc sống hằng ngày. Chính vì thế, thánh Giacôbê đã quả quyết :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Có người cho rằng sống đức tin Kitô giáo là biết “sống tử tế” với mọi người. Sống tử tế là sống thế nào cho xứng với danh hiệu là “Kitô hữu”, người được mang tên Chúa, được thuộc về Chúa. Một trong những cuốn phim gây nhiều chú ý nhất ở ngoại quốc trong thập niên 80 là phim “Truyện tử tế” của đạo diễn Trần văn Thủy. Cuốn phim này được hãng truyền hình Pháp S.R.K mua và được trình chiếu trong chương trình có tên “Đại dương”. Khi một ký giả ngoại quốc hỏi :”Những người Kitô Việt nam có thể làm gì để giúp dân tộc họ sống tử tế”? Nhà đạo diễn đã trả lời :”Điều người ta mong đợi ở các người Kitô hữu Việt nam là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin.
Lời phát biểu của nhà đạo diễn trên đây đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết Chúa. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn. Sống trong một xã hội còn nhiều giả dối, gian manh, lừa đảo, tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người với nhau. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu chúng ta (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng, năm C, tr 161).
Truyện : Đức tin sống động
Felix Frankfurter là một quan toà nổi tiếng của toà án tối cao của Hoa kỳ. Một lần kia ông được đưa vào bệnh viện, ở đó ông quen biết một y tá có tên là Lucy. Họ có những lúc ngồi nói chuyện thân mật và ông biết nhiều điều về Lucy.
Trước đó, chưa bao giờ ông gặp được người nào có lòng quảng đại và nhân hậu như chị. Và ông bắt đầu tự hỏi và suy nghĩ, cố gắng phám phá suối nguồn của thái độ của chị. Điều ông khám phá như sau : Suối nguồn ấy không có gì là bí ẩn. Nó đơn giản , chỉ là sự áp dụng thực hành đức tin của chị.
Lucy không bao giờ biết đức tin sống động của chị có ảnh hưởng như thế nào, nhưng chịâ đã làm cho Đức Giêsu hiện diện cụ thể trong bệnh viện này. Chị đem đến đôi bàn tay mà Đức Giêsu cần đến. Đức Giêsu cần những nhân chứng cho người ta như chị Lucy đến nỗi Người có thể trở thành Đấng an ủi như Người muốn làm.
Một quan hệ thật sự với Đức Giêsu sẽ có một ảnh hưởng cả khi người có mối quan hệ ấy không đề cập đến Đức Giêsu. Dĩ nhiên, những người tin vào Đức Giêsu và yêu mến Người, cũng sẽ, khi thuận lợi, nói về Đức Giêsu một cách rõ ràng cởi mở (McCarthy).
- Truyền giáo bằng đèøn sáng và muối đất.
Đức Giêsu đã gọi các môn đệ của Ngài là muối cho đời và ánh sáng cho thế gian (Mt13-14). Muối, ánh sáng và thành xây trên núi là những hình ảnh nói lên vai trò chứng tá của môn đệ Chúa trên trần gian.
Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn, nhưng muối có hai công dụng chính : ướp cho khỏi hư và làm gia vị. Người môn đệ phải giữ cho xã hội khỏi suy thoái, đồng thời giúp cho sự thăng tiến của xã hội. Người Kitô hữu mang danh nghĩa là con cái Thiên Chúa, phải hết sức bảo vệ và phát triển danh nghĩa ấy trong môi trường thế gian, nếu không làm như vậy, thì người Kitô hữu đã bị biến chất và trở nên vô dụng, vô tích sự.
Còn ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật. Người Kitô hữu là con cái sự sáng, phải dùng đời sống gương mẫu và chứng tá của mình để soi dẫn cho những người chung quanh biết đường về cùng Thiên Chúa. Việc tỏa sáng bằng đời sống gương sáng và chứng tích để lôi cuốn, phải được coi là bổn phận của người Kitô hữu vì “đèn thắp lên là để soi sáng cho mọi người trong nhà”.
Là muối, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống toả lan tình nghười. Dù chỉ là ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của một Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống.
Truyện : Ảnh hưởng của chứng từ.
Ông Pi-tơ Bơ-rốt là một người ngoài công giáo, ông hằng ước ao chứng kiến đời sống thánh thiện của Giám mục Fénelon. Ngày kia ông đã liên lạc với vị Giám mục thời danh xin ngài cho ông tới thăm một thời gian.
Vị Giám mục đã niềm nở tiếp đón khách và đối xử ân cần đến nỗi Pi-tơ Bơ-rốt còn thấy thoải mái hơn cả ở nhà mình. Tuy nhiên chỉ lưu lại được vài ngày ông đã thu dọn hành lý, chào vị Giám mục và ra đi trước thời hạn dự định.
Khi được hỏi tại sao ông lại vội vàng bỏ đi như vậy, ông Pi-tơ Bơ-rốt đã thú nhận :”Tôi không thể ở lại lâu hơn. Vì nếu còn ở lại sớm muộn tôi cũng sẽ theo đạo Công giáo mất, một điều mà hiện tại bản thân tôi chưa muốn”.
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
ANH EM HÃY RA ĐI – Lm Giuse Đinh Tất Quý
***
Chúng con yêu quí,
Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng do thánh sử Luca thuật lại.
- Qua bài Tin Mừng này, chúng ta thấy bên cạnh 12 người được Chúa tuyển chọn cách đặc biệt mà Chúa gọi làTông Đồ, còn có một số những người khác không phải là tông đồ nhưng cũng được Chúa sai đi để cùng với Chúa loan báo Tin Mừng cho mọi người.
Tin Mừng không cho chúng ta biết chính xác số môn đệ này là bao nhiêu nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay thánh sử Luca nói tới con số 72.
Tại sao lại chỉ có 72 thôi? Hình như có một điều gì đó phải nói thêm cho rõ về vấn đề này. Cha học Kinh Thánh cha thấy trong sách Sáng Thế Ký là cuốn sách đầu tiên trong toàn bộ Kinh Thánh, cha thấy đoạn 10 trong sách đó khi nói về số dân trên mặt đất sau trận lụt Đại Hồng Thuỷ kinh khiếp thời ông Nôe là 72. Như vậy có thể nói con số 72 là số dân của cả loài người thời đó. Như vậy khi nói đến con số 72 có lẽ thánh Luca đã ngầm cho mọi người hiểu rằng đó là cả loài người. Tại sao thánh Luca làm thế? Thưa vì việc truyền giáo là việc quan trọng có liên hện đến cả loài người nên cả loài người đều có bổn phận phải truyền giáo. Cả loài người có nghĩa là tất cả mọi người đều có bổn phận phải truyền giáo. Truyền giáo không còn phải là bổn phận của những người được tuyển chọn như các tông đồ thuở xưa hay như các Giám Mục, linh mục ngày nay mà là bổn phận của mọi người.
Chính vì thế mà Công đồng Vaticano II đã phải nhấn mạnh: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng quả quyết:“Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi nhiệm vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).
Cha đọc trong sách Sách Giáo Lý Chung (1270 2472), cha thấy Sách Giáo Lý Chung cũng nói: “Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận phải tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh” (x.LG 10), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (x.LG 17; AG 7,23). Như vậy mọi người chúng ta đều có bổn phận trong cánh đồng truyền giáo của Chúa.
- Nhưng cha hỏi chúng con: một người giáo dân bình thường như chúng con có thể truyền giáo bằng cách nào đây?
Chắc chắn chúng ta không thể làm việc truyền giáo như các tông đồ thuở xưa hay như các Giám mục, linh mục tu sĩ ngày nay nhưng chắc chắn Chúa cũng muốn cho chúng ta phải truyền giáo theo cách của chúng ta.
Thế chúng ta có thể tuyền giáo bằng cách nào?
Cha đọc lại Tin Mừng cha thấy trước khi bảo các môn đệ đi truyền giáo Chúa đòi các ngài phải cầu nguyện trước. Chúa Giêsu không bảo các môn đệ lên đường ngay, nhưng Chúa dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo khởi sự từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gương thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín, thế mà chỉ nhờ lời cầu nguyện, thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Tin Mừng.
Tiếp đến cha thấy có rất nhiếu cách để chúng ta có thể đem Chúa đấn cho những người khác. Có rất nhiều cách nhưng cách phù hợp với chúng ta nhất là cố gắng sống cuộc đời phục vụ yêu thương như Chúa Giêsu. Cha tưởng đây là cách tốt nhật chúng con có thể làm và làm ngay được.
Cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này: Tại nước Trung hoa trong những năm trước 1950 có rất nhiều giáo sĩ được gởi tới để truyền giáo tại nước này. Người ta đã mở các lớp dạy tiếng bản xứ cho những người truyền giáo ngoại quốc để có thể dễ dàng tiếp xúc với dân địa phương.
Tại một lớp học nọ, có khoảng 70 người theo học. Trong buổi học đầu tiên, vị nữ giám đốc của trường bước vào lớp học. Bà này đi từ trên xuống, rồi từ cuối lớp đi lên, tươi cười nhìn các học viên rồi đi ra không hề nói một lời nào.
Các học viên đều ngạc nhiên về thái độ của bà giám đốc trường. Một lát sau, bà quay lại lớp và hỏi:
– Quí vị đã tiếp thu được điều gì cho ngày hôm nay chưa?
Mọi người ngơ ngác không biết trả lời sao, vì bà đã dạy gì đâu?
Thế nhưng có một người đứng lên và nói:
– Chúng tôi chưa nghe bà nói một lời dạy nào thì có gì đâu mà tiếp thu. Nhưng chúng tôi để ý thấy một điều là khi bà đến lớp này bà xức loại nước hoa rất thơm.
Cả lớp ồ lên cười. Lúc đó bà giám đốc mới tươi cười nói:
– Tôi có ý xức nước hoa thật nhiều cho quí vị để ý đấy. Nếu quí vị nhận ra thì hôm nay quí vị đã học được một bài học rồi. Qua điều này tôi muốn nói rằng, quí vị sẽ sống ở đây khoảng hai năm như những người câm, vì quí vị không nói chuyện được với người Trung Hoa. Tuy nhiên quí vị vẫn có thể để lại chung quanh quí vị một mùi thơm đặc biệt qua cách sống của mình, để dầu không nói một lời nào, mọi người vẫn nhận ra hương thơm của Chúa qua quí vị.
Là con cái Chúa, chúng ta có thể đem đến cho đời hương thơm ngọt ngào của Chúa qua nếp sống hằng ngày mà không cần phải nói lời nào.
Như thế mọi người đều có thể truyền giáo bắng cách sống một đời sống tốt đẹp giữa mọi người nhất là giữa những người chưa nhận biết Chúa.
Cha còn muốn kể thêm cho chúng con câu chuyện này:
Một lần kia các nhà truyền giáo Công giáo hỏi ý kiến ông Gandhi. Ông Gandhi là người mà dân tộc Ấn độ coi ông như một vị thánh sống. Họ hỏi ông về việc họ phải làm gì để các người theo đạo Hinđu chấp nhận bài giảng trên núi của Đức Giêsu. Ông Ganđhi trả lời: “Các ông hãy nghĩ về bí quyết của những bông hoa hồng. Mọi người đều yêu thích chúng, vì ngoài vẻ đẹp và màu sắc sặc sỡ, hoa còn tỏa ra mùi thơm thoang thoảng như diệu kỳ của nó. Vậy các ông hãy “tỏa hương thơm!”
Thánh Phanxicô Xavie được sai đến Ấn độ để rao giảng Tin Mừng tại đó. Một hôm đang khi giảng có một người đàn ông rất lực lưỡng thình lình xuất hiện trước mặt Ngài. Người này chẳng thèm hỏi một câu, nói một lời. Ông ta căng mắt nhìn chằm chằm vào Ngài rồi bình thản tiến đến gần và nhổ một bãi nước miếng thật lớn vào mặt thánh nhân. Thánh Phanxicô bình thản coi như không có truyện gì xẩy ra. Ngài đưa tay vào trong túi áo rút ra một chiếc khăn “mu-xoa” đưa lên lau mặt rồi lại tiếp tục nói về Chúa Giêsu.
Đứng trước thái độ hiền lành và chịu đựng như thế người đàn ông kia hết sức ngạc nhiên. Im lặng suy nghĩ một chút rồi ông quay ra nói với mọi người:
– Ông này giảng về đạo của Ông Giêsu. Tôi chưa biết ông Giêsu là ai. Vì theo đạo của Ông Giêsu mà ông này đã làm được những việc người khác không làm được. Vậy thì đạo của ông ấy là đạo thật.
Rồi sau đó ông xin được học đạo và được chính thánh Phanxicô rửa tội cho.
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
ĐIỀU KIỆN CẦN CỦA NGƯỜI THỪA SAI – Jos.Vinc. Ngọc Biển
***
Khi nói đến truyền giáo, Giáo Hội muốn chúng ta trở về căn gốc để hiểu và thấy được rằng: Đức Giêsu chính là nhà thừa sai đầu tiên được Chúa Cha sai xuống trần gian để loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
Khi đến trong thế giới con người, Đức Giêsu đã thi hành xuất sắc sứ vụ thừa sai mà Chúa Cha trao phó cho Ngài. Sứ vụ ấy không chỉ dừng lại nơi bản thân và cuộc đời của Đức Giêsu, nhưng nó được trao truyền cho những người tiếp bước. Khởi đi từ các Tông đồ, rồi đến các môn đệ và chúng ta, đồng thời sẽ còn được tiếp diễn mãi cho đến tận thế.
Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về vai trò, tinh thần, sứ mạng của người được sai cũng như những cách thức thực hiện sứ vụ thừa sai.
- Vai trò của nhà thừa sai
Bài đọc I cho chúng ta thấy vai trò thừa sai của tiên tri Isaia: ông loan báo cho dân về một giai đoạn tự do, không còn bị lệ thuộc trong thân phận nô lệ bên Babylon nữa. Bởi vì vua Ba Tư đã ký và cho phép dân Israel hồi hương, kết thúc giai đoạn lưu đày. Tuy nhiên, lòng dân vẫn chưa thấy bình an, nỗi lo vẫn còn đó…! Biết được sự trăn trở của dân, nên tiên tri Isaia đã trấn an họ bằng việc loan báo Chúa sẽ ban bình an và vinh quang cho Giêrusalem. Bổn phận của họ là kiên trì và tin tưởng vào Người để được no nê, sung sướng, bình an, được vỗ về, an ủi và nâng niu. Giống như người mẹ yêu thương con mình thế nào, Thiên Chúa cũng yêu thương dân của Người như vậy.
Sang Bài đọc II, Thánh Phaolô đã sống sứ vụ cốt lõi thừa sai của mình khi tập trung vào mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô.
Vì thế, ngài đã mạnh dạn tuyên bố niềm xác tín đó của mình khi nói: “Trong khi người Dothái đòi dấu lạ, và người Hylạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, cớ vấp phạm cho người Dothái, sự điên rồ đối với người dân ngoại (Hylạp)” (1 Cr 1,22-23).
Không chỉ nói, mà cả cuộc đời của ngài diễn tả niềm vui vì được kết hợp với Đức Giêsu chịu đóng đinh: “Đối với tôi, không một vinh quang nào khác ngoài vinh quang thập giá Đức Kitô”.
Như vậy, vai trò thừa sai của thánh Phaolô chính là gắn bó mật thiết nơi mầu nhiệm thập giá Đức Kitô.
- Tinh thần của nhà thừa sai
Sang bài Tin Mừng, sau khi đã gợi hứng cho các môn đệ về sứ vụ thừa sai qua hình ảnh cánh đồng lúa chín vàng, Đức Giêsu bắt đầu sai họ ra đi để thu hoạch.
Trước tiên, Ngài sai “từng hai người một” ra đi loan báo Tin Mừng. Khi sai các môn đệ đi từng hai người như thế, Đức Giêsu muốn cho các ông hiểu rằng: khi loan báo về Nước Trời, điều quan trọng là tính hiệp thông, hiệp nhất để cùng nhau sống và làm chứng cho sự thật.
Thứ đến, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ thấy trước những khó khăn thử thách, những rào cản trên cuộc hành trình ấy: “Thầy sai các con đi như chiên con đi giữa bầy sói” (Lc 10,3). Ngài nói trước những khó khăn như vậy để cho các ông thấy rằng, trong khi loan báo về Nước Trời, không thiếu những kẻ không muốn vào mà lại còn tìm cách ngăn cản không cho những người khác vào. Cuộc sống và hành trình này không phải lúc nào cũng xuôi trèo mát mái, mà luôn gặp phải những bão táp cuồng phong.
Tiếp theo, tinh thần siêu thoát, nhẹ nhàng là hành trang của người môn đệ. Đức Giêsu không chấp nhận nhà thừa sai mang những thứ cồng kềnh. Bởi vì những thứ đó sẽ làm cho người thi hành sứ vụ sinh ra nặng nề và đôi khi bỏ cuộc chỉ vì những chuyện phụ thuộc như “củ hành, củ tỏi”. Vì thế, Ngài nói:“Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép…”. Người môn đệ phải sống nghèo thực sự. Có sống nghèo, các ngài mới có sự cảm thông, liên đới và chấp nhận tất cả vì sứ mạng.
Hơn nữa, loan báo về Nước Trời là một sự cần kíp, cấp bách đến độ phải ưu tiên hàng đầu. Vì thế, Đức Giêsu căn dặn các ông rằng: “Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Lý do, đây là mệnh lệnh khẩn trương, đòi hỏi người môn đệ phải nhanh nhẹn. Bởi vì, khi loan báo Tin Mừng, không được quan tâm đến những chuyện bên lề quá nhiều để rồi quên đi việc chính yếu.
Cuối cùng, là tinh thần kiên nhẫn. Phải chăng chính Đức Giêsu đã cảm nghiệm sâu sắc khi người dân quê của Ngài nhận định về mình: “Ông ấy chẳng phải là con bà Maria hay sao, cha ông ta lại không phải là bác thợ mộc…?” Rồi biết bao chống đối, ngờ vực, không tin, bị bắt bớ, đánh đòn… Nhân đây, Đức Giêsu muốn dạy cho các ông phải có tinh thần kiên trì, chịu đựng, không được nóng vội.
Như vậy, qua bài Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã truyền lại cho các môn đệ tinh thần thừa sai của chính Ngài, để các ông ra đi thi hành sứ vụ theo Thiên Ý chứ không phải theo cách thế phàm trần.
- Sứ mạng thừa sai của mỗi chúng ta
Khi sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu muốn cho mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ mạng ngôn sứ phổ quát của Ngài. Sứ mạng ấy được khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Từ đó, chúng ta xác định căn tính truyền giáo thuộc về chúng ta. Bao lâu chúng ta không truyền giáo, thì bấy lâu ta đánh mất bản chất của mình. Bởi vì: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Nỗi lòng thao thức của Đức Giêsu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít…” phải là lời chất vấn lương tâm mỗi chúng ta.
Là Kitô hữu, chúng ta cùng đồng lòng và cảm nghiệm với Đức Giêsu trước những cánh đồng bao la đang độ chín vàng… Tham gia vào sứ mạng truyền giáo là chúng ta đang đóng góp cho Giáo Hội những viên gạch, hạt cát để xây nên tòa nhà Giáo Hội, nơi đó là niềm vui, hạnh phúc và bình an.
Thiết nghĩ, trong cuộc sống của con người thời nay, niềm tin đang bị đánh cắp hay bị đặt sai chỗ bởi những chủ thuyết tương đối, dẫn đến tình trạng bình thường hoá mọi mặt, kể cả những giá trị đạo đức, những chân lý đức tin. Đứng trước thực trạng trên, chúng ta có bổn phận phải thực thi sứ vụ thừa sai của mình về Chúa cho anh chị em chúng ta.
Sứ vụ ấy được khởi đi từ trong gia đình: chồng làm chứng cho vợ, vợ làm chứng cho chồng, vợ chồng sống chung thủy. Cha mẹ nêu gương sáng cho con cái. Con cái hiếu nghĩa với cha mẹ. Bạn bè sống tốt với nhau trong môi trường, công ty, xí nghiệp. Hàng xóm láng giềng ăn ở hài hoà, sẵn sàng giúp đỡ nhau những lúc cần kíp…
Khi sống đời chứng tá bằng những giá trị Tin Mừng như thế, chúng ta sẽ gặp không ít những khó khăn, thử thách trong đời sống. Không thiếu gì những cám dỗ làm cho muối ra nhạt, ánh sáng bị lu mờ. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn luôn nhớ mình thuộc về Đức Kitô, có tránh nhiệm mang Ánh Sáng ấy soi sáng thiên hạ.
Lạy Chúa Giêsu, còn biết bao nhiêu người chưa nhận biết Chúa, nhiều chiên lạc chưa được đưa về ràn. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con trở nên những thừa sai đích thực, luôn sẵn sàng, hăng say loan báo Tin Mừng cho những người chưa nhận biết Chúa. Ước gì mọi người con của Chúa trên trần gian này đều được quy tụ thành một ràn chiên duy nhất, dưới sự lãnh đạo của Vị Mục Tử Tối Cao là chính Chúa. Amen.
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
CẨM NANG NHÀ TRUYỀN GIÁO – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
***
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện bằng cách cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các Tông đồ ra đi thực tập truyền giáo. Chúa Giêsu còn chọn thêm nhiều môn đệ nữa. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy 72 môn đệ được sai phái thêm sau chuyến sai đi Nhóm Mười Hai (Lc 9,1-6) vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Thánh Luca muốn nhấn mạnh rằng, không riêng gì các Tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các môn đệ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo”1.
- Hành trang Tông đồ
Hành trang đi đường chỉ là: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Chuyến đi nào cũng cần đến những hành trang. Hành trang cồng kềnh bước đi sẽ chậm. Hành trang gọn nhẹ bước tới sẽ nhanh. Hàng trang càng được tinh giản chỉ còn lại những gì thiết yếu nhất thì bước chân cũng sẽ thanh thoát khai lối cho mùa sứ vụ.
Hành trang của những kẻ lên đường xem ra chẳng có gì. “Gậy và dép” như gợi lại buổi Xuất hành. Nhẹ nhàng quá! Bận vướng với của cải đất đai sản nghiệp đùm đề làm sao có đủ tự do để bứt ra mà dứt khoát lên đường?
Hành trang của những kẻ lên đường xem ra chẳng có gì. “Không bánh, không bị, không tiền, không hai áo”. Nghèo khó quá! Chả bù cho con người ngày nay luôn biết tích lũy lo xa, có của ăn chưa đủ, còn có của để dành nữa. Nhưng cái nghèo về tài sản lại cho thấy cái giàu về đức hạnh. Không lo chiếm hữu hoặc gắn bó với của cải vật chất, người Tông đồ trở nên thanh thản lên đường bất cứ lúc nào. Không bận vướng những thứ lỉnh kỉnh làm nặng bước đi hoặc làm chùn bước tới, người Tông đồ học sống tinh thần phó thác để chỉ biết đợi chờ tất cả nơi một mình Thiên Chúa.
Xem ra chẳng có gì. Mà thực ra lại có tất cả. Bởi hành trang đích thực của họ chính là Chúa, Đấng đã nên sản nghiệp cho những kẻ được sai đi 2.
Hành trang ấy còn có ý nghĩa đặc biệt nữa. Đó là các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.
- Cây gậy
Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
- Đôi dép
Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em“.
- Tấm áo
Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.
Chúa Giêsu còn trao cho các môn đệ những quyền năng của Ngài: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.
Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động Tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.
- Phương thức hoạt động Tông đồ.
Sứ vụ loan báo Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác. Khi sai đi “từng hai người một“, Chúa Giêsu mong các môn đệ hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.
Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động Tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá về tính hiệp nhất khi gắn bó với Đấng đã sai mình, chứng tá về tình huynh đệ khi nhận ra mình được sai đi “từng hai người một”. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.
Chúa Giêsu gọi các môn đệ và sai đi truyền giáo. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.
Như thế, Tông đồ là người lên đường chứ không phải xuống đường. Lên đường là một tinh thần nhạy cảm của Tin Mừng được thể hiện qua lối sống gắn bó với sứ vụ. Nhạy cảm với những thao thức của thời đại để tìm đổi mới tư duy, nâng cao tầm nhìn, nới rộng kiến thức, mong diễn đạt Tin Mừng sát với ngôn ngữ hiện tại. Nhạy cảm với nhu cầu của tha nhân bằng muôn ngàn cách thể hiện lòng nhân ái vốn là điểm sáng của giới luật yêu thương, đồng thời là dấu hiệu dễ nhận ra nhất của Tin Mừng cứu độ. Nhạy cảm với Giáo Hội để tìm hiệp nhất. Nhạy cảm với đồng nghiệp để tìm huynh đệ nâng đỡ cộng tác. Nhất là, nhạy cảm với Chúa để tìm thuộc về Ngài mỗi ngày một hơn. Và dọc dài sứ vụ, tư thế lên đường sẽ làm nên hình ảnh chứng nhân 3.
- Sứ vụ Tông đồ là sống chứng nhân
Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phaolô VI quả quyết ít nhất hai lần rằng, phương thức thứ nhất để rao truyền Phúc Âm chính là làm chứng bằng một cuộc sống Kitô hữu đích thực (x. số 21 và 41).
Có ba cách làm chứng: nói, làm và sống. Hiệu năng nhất là cách thứ hai và thứ ba. Ai cũng biết nói thì dễ, làm khó hơn, và sống như mình nói lại càng khó hơn nữa. Chính việc làm và đời sống làm cho lời mình nói đáng tin hơn. Nhưng cả khi người ta chưa nói hay không thể nói, chưa làm hay không thể làm một số điều nào đó, thì người ta đã có thể sống điều mình xác tin và muốn chia sẽ.
Theo Đức Phaolô VI, làm chứng bằng cuộc sống, bằng hành động cụ thể là một cách rao giảng thầm lặng, không nghe được, nhưng thấy được và rất hữu hiệu, nhất là đối với con người thời nay vì hai lý do: một là vì thời nay (thời của khoa học thực nghiệm và của óc thực tiễn), người ta nhạy cảm với việc làm và dị ứng với lời nói và các học thuyết, hai là vì trong thế giới trần tục hoá ngày nay, như ở Việt Nam chẳng hạn, tôn giáo bị đẩy ra bên lề như chuyện riêng tư, thế nên không phải bất kỳ ở đâu và lúc nào người ta cũng có thể, hay nên trực tiếp rao giảng Tin Mừng. Năm 1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo: “Hãy để cho đời sống các ngài nói với chúng tôi như đoá hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ đơn sơ để cho hương thơm của mình toả lan. Cả người mù không nhìn thấy hoa hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới sự cao cả của nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm đời sống. Đối với tôi, đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu chứ không phải chú giải nó”.
Vậy để loan báo Tin Mừng thuyết phục, người Kitô hữu phải sống thế nào cho cuộc đời mình trở thành đáng tin. Đới sống đáng tin thì tự nhiên lời nói cũng đáng tin. Làm tông đồ, rao giảng Phúc Âm đặc biệt thích hợp cho ngày nay là làm cho đời sống Kitô hữu đáng tin. Như vậy toàn bộ cuộc sống ta đều phải “làm chứng”: lời ăn tiếng nói, cách cư xử, giao tiếp, trong gia đình, ngoài xã hội, khi làm việc, khi vui chơi giải trí… Đối với người có ý thức truyền giáo thì nhất nhất việc gì, khía cạnh nào của đời sống họ cũng có thể là lời loan báo. Lời trách nặng nề nhất của người chưa biết Chúa đối với tín hữu Công giáo có lẽ là: Người Công giáo các anh (các chị) không mấy đáng tin; các anh (các chị) nói một đường làm một nẻo. Đức tin, giáo lý nghe thì thật hay nhưng không thấy đem lại cho xã hội một cái gì thật sự tốt đẹp và mới mẻ. Lời phê bình đó có lẽ là quá đáng nhưng thiết tưởng ta chẳng cần cãi lý làm gì, hãy coi đó như một lời nhắc nhở để chúng ta nhìn lại cuộc sống “chứng tá” của mình. Xã hội này đang suy thoái trầm trọng về đạo đức: tham nhũng, thối nát, dối trá, bất công, xì ke ma túy, sa đoạ … Ta có còn là men, là muối, là ánh sáng nữa không? 4.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu,xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát,không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui,như người tìm được viên ngọc…. quý,biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.(Mana).
- “Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103.
- “Với cả tâm tình”, trang 117-120, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.
- “Với cả tâm tình”, trang 121.
- “Đạo trong đời”, trang 252-255, Lm Nguyễn Hồng Giáo.
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
HÃY RA ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
***
Câu đầu trang Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới (x. Lc 10, 1). Như thế, sứ mạng loan báo Tin Mừng không chỉ dành riêng cho nhóm 12 Tông Đồ, mà còn được trao cho các môn đệ khác nữa. Ðây là một đặc điểm tiêu biểu của thánh sử Luca khi muốn nhấn mạnh đến sứ mạng phổ quát của việc loan báo Tin Mừng trong đó chúng ta có nhiệm vụ này.
Trong Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo Năm 2011, khi nhắc đến tính chất thời sự và cấp thiết của sứ vụ truyền giáo mà Chúa Kitô đã ủy thác cho Giáo Hội. Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết : “Sứ vụ này vẫn chưa được hoàn tất… Một cái nhìn chung về nhân loại cho thấy sứ mạng ấy vẫn còn ở giai đoạn khởi đầu và chúng ta phải hết sức dấn thân phục vụ sứ mạng ấy” (J.P. II, RM 1). Chúng ta không thể tiếp tục an tâm khi nghĩ rằng sau hai ngàn năm, vẫn còn những dân tộc không biết Chúa Kitô và chưa được nghe biết sứ điệp cứu độ của Ngài.“
Đúng là “lúa chín thì nhiều, nhưng thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Lời Chúa Giêsu cách đây gần 2000 năm vẫn còn luôn thời sự, Ngài mời gọi chúng ta : “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người” (Lc 10,2). Cánh đồng của Thiên Chúa thật bát ngát mênh mông, những người được sai đi thỏa sức làm việc. Nhưng Chúa Kitô không phải chỉ giới hạn trong việc sai đi, Chúa còn trao cho các nhà truyền giáo những quy luật rõ ràng để hành xử. Trước hết, Chúa “sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới ” (Lc 10,1), để họ giúp đỡ lẫn nhau và làm chứng cho tình yêu huynh đệ. Chúa cảnh báo cho họ biết trước là họ sẽ như “chiên ở giữa sói rừng” (Lc 10,3), nghĩa là trước sự dửng dưng, không đón tiếp, có khi bị từ chối, bị ngược đãi, bị bắt bớ bởi thế gian dành cho họ, hiền hoà là thái độ luôn cần phải có. Vì là sứ giả hòa bình, nên họ phải mang trong mình sứ điệp hoà bình ấy như lời Chúa dạy : “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này” (Lc 10,3), và Chúa khuyên họ : “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép” (Lc 10, 4). Tại sao vậy? Thưa là để người được sai đi sống với những gì Chúa Quan Phòng an bài cho họ ; họ sẽ chăm sóc cho những kẻ đau yếu như là dấu chỉ của lòng thương xót Chúa; nơi nào họ bị khước từ, thì đi nơi khác, chỉ cần cảnh báo nơi đó về trách nhiệm khước từ Nước Thiên Chúa. Thánh sử Luca làm nổi bật lòng hăng say của các môn đệ vì những kết quả tốt của sứ mạng, và ghi lại lời nói đẹp sau đây của Chúa Giêsu : “Các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời” (Lc 10,20).
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới, con người đang tìm kiếm sự sung túc, dễ dàng, công danh sự nghiệp và thành công như mục đích của cuộc sống, gây thiệt hại cho các giá trị luân lý, sống xa rời Sứ điệp Tin Mừng, và sống như thể không có Thiên Chúa.
Trang Tin Mừng trên đây khơi dậy nơi chúng ta, những người đã lãnh nhận bí tích Rửa tội ý thức làm nhà thừa sai của Chúa Kitô, những kẻ được gọi để chuẩn bị đường cho Chúa, bằng lời nói và bằng chứng tá đời sống. Vì Thánh Phêrô nói : “Tin mừng không phải là một thiện ích dành riêng cho người lãnh nhận, nhưng là một hồng ân cần phải được chia sẻ, một tin vui cần phải thông truyền. Hồng ân – Nghĩa vụ này được ủy thác không phải chỉ cho vài người, nhưng cho tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa…” (1 Pr 2,9).
Vì vậy không lạ gì khi Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền của Hội Thánh luôn nhấn mạnh cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn thân thực hiện. Hội Thánh phải cảm thấy lệnh truyền rao giảng Tin Mừng của Chúa chất vấn mình mãnh liệt, để Đức Kitô được rao giảng khắp nơi.
Là những tín hữu trong Đức Kitô, chúng ta phải tiếp bước Thánh Phaolô Tông Đồ, là “tù nhân của Đức Kitô vì anh em, những người dân ngoại” (Ep 3, 1), ngài đã chịu đau khổ và chiến đấu để đem Tin Mừng đến giữa dân ngoại (x. Cl 1, 24-29), không ngại tiêu hao sức lực, thời giờ và của cải để loan báo Sứ điệp của Đức Kitô.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris Missio viết: “Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới hàng triệu anh chị em chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình yêu của Thiên Chúa, chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô” (số 86).
Khi công bố Năm Đức Tin, Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết rằng : “Đức Kitô hôm nay cũng như hồi ấy, sai chúng ta đi khắp các nẻo đường trên thế giới để loan báo Tin Mừng của Người cho mọi dân tộc trên mặt đất” (Tông Thư Porta Fidei, 7).
Hướng tới kỷ niệm 90 năm thành lập Ngày Thế Giới truyền Giáo vào chúa nhật 23 tháng 10 năm 2016 tới đây với chủ đề “Giáo Hội Truyền Giáo, Chứng Tá Của Lòng Thương Xót”, Đức Giáo hoàng Phanxicô đề cao vai trò của phụ nữ và các gia đình trong việc biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài khẳng định : “Khi đón nhận và theo Chúa Giêsu qua Tin Mừng và các bí tích, nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta trở thành một món quà nhưng không, dấu chỉ lòng nhân lành của Ngài” (Misericordiae Vultus 3).
Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trên việc loan báo Tin Mừng, đặc biệt trên những ai đang làm việc trên cánh đồng truyền giáo. Nguyện xin Mẹ Maria, Mẹ Hội Thánh, Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng đồng hành với tất cả các sứ giả của Tin Mừng. Amen.
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
CÁC CON HÃY ĐI – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
***
Tin Mừng hôm nay cho thấy có một số đông những người vây quanh Chúa Giêsu. Nhìn đồng lúa chín vàng, Chúa nói với họ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người” (Lc 10, 2). Và Người đã chọn trong đám đông đó một số người. Anh hãy theo Ta, anh và cả anh nữa. Cho đến người thứ bẩy mươi hai…
Như thế, ngoài số Mười Hai Tông Đồ ra còn có rất nhiều môn đệ được Chúa gọi đi theo Chúa. Trong số các môn đệ Người, Chúa Giêsu đã chọn ra bảy mươi hai người khác và giao cho một sứ vụ cụ thể. Người đòi hỏi họ như đòi hỏi Nhóm Mười Hai, là dứt khoát từ bỏ những dính béng với của cải trần thế và phó thác hoàn toàn cho sự quan phòng của Thiên Chúa toàn năng.
Chọn xong rồi, Chúa sai họ cứ từng hai người một, đi đến các thành và các nơi mà Người định tới. Một người trong số họ đã có thể trả lời trong sự lúng túng : “nhưng lạy Thầy, con đến chỉ để lắng nghe Thầy thôi vì tất cả những gì Thầy nói đều tốt đẹp!”
Chúa cảnh báo họ đề phòng những hiểm nguy đang chờ đợi họ. “Các con hãy đi! Này Ta sai các con như chiên con vào giữa sói rừng” (Lc 10, 3). Và bằng cách dùng các hình ảnh quen thuộc của dụ ngôn, Chúa nói thêm: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” (Lc 10, 4). Diễn đạt bằng ngôn ngữ biểu cảm của Chúa Giêsu là : Hãy để sự trợ giúp của con người sang một bên. Thày sai các con đi, các con cứ đi và như thế đã là đủ. Cho dù các con ở xa tít tắp, Thầy vẫn ở bên cạnh các con, đồng hành với các con.
Bẩy mươi hai người này khác với mười hai môn đệ kia, Chúa chọn gọi mười hai ông để ở với Người, còn bẩy mươi hai môn đệ ở lại với gia đình và nghề nghiệp của họ. Và sống điều họ khám phá ra khi ở bên Chúa Giêsu : để làm chứng, mỗi người một địa vị, đơn giản là để giúp đỡ những người xung quanh để họ được gần gũi Chúa Giêsu hơn.
Cuộc phiêu lưu của họ kết thúc tốt đẹp : “Bảy mươi hai trở về vui mừng” (Lc 10, 17). Ngồi quanh Chúa Giêsu, họ kể cho Chúa nghe những kinh nghiệm từng gặp, và họ khám phá ra nét đẹp của đời nhân chứng.
Biến cố thời xa xưa ấy ngày hôm nay nhắc nhớ chúng ta rằng, đây không phải là một ký ức đơn thuần lịch sử. Chúng ta cảm thấy mình có liên quan : chúng ta có thể đến gần Chúa Giêsu hiện diện trong các nhà thờ và tôn thờ Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích chúng ta “mang Chúa Giêsu Kitô đến cho mọi người và dẫn mọi người đến gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là đường, là sự thật và là sự sống, Người đang thực sự hiện diện trong Giáo hội và nơi con người hôm nay”.
Thánh Công đồng Vatican II, trong Sắc Lệnh về Tông đồ Giáo dân, nhắc nhở chúng ta rằng, sau khi rửa tội mỗi người Kitô hữu được mời gọi để thực hiện một sứ mệnh nhân danh Chúa : “Vậy Thánh Công Ðồng nhân danh Chúa hết sức kêu mời tất cả các giáo dân, hưởng ứng sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hãy mau mắn, đại độ và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, Ðấng giờ đây đang tha thiết mời gọi họ. Ước gì giới trẻ hiểu rằng lời mời gọi này được đặc biệt gởi tới họ và ước gì họ vui mừng và quảng đại đón nhận. Quả thật chính Chúa một lần nữa nhờ Thánh Công Ðồng này, mời gọi tất cả các giáo dân hãy kết hợp với Người ngày một mật thiết hơn và nhận thức được những gì của Người cũng là của chính mình (x. Ph 2,5), họ hãy tham gia vào sứ mạng cứu rỗi của chính Người và một lần nữa Người sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến (x. Lc 10,1). Như thế giáo dân hãy chứng tỏ mình là cộng tác viên của Chúa, cộng tác vào cùng một công cuộc tông đồ của Giáo Hội bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Những cộng tác viên phải luôn luôn thích nghi với những đòi hỏi mới của thời đại và không ngừng ra sức phục vụ Chúa bởi biết rằng khó nhọc của mình không phải là uổng phí trong Người (x. 1Cor 15,58).”(số 33)
Chúa Giêsu Kitô muốn thấm nhuần nơi các môn đệ của Người sự mạnh dạn tông đồ; chính vì lý do đó mà Chúa Giêsu nói với họ: “Này Ta sai các con” (Lc 10, 3). Và Thánh Gioan Kim Khẩu giải thích rằng : “Như thế đã đủ để ban cho các con sự can đảm, điều này cũng đủ để ban cho các con niềm tin để các con không còn sợ hãi trước sự tấn công của kẻ thù”.
Sự can đảm của các Tông Đồ và của các môn đệ đến từ chính Thiên Chúa là Đấng đã chọn họ và sai họ đi. Như Phêrô đã quả quyết trước Thượng Hội Đồng rằng, nhân danh Chúa Giêsu Kitô thành Nagiarét, “vì dưới gầm trời này, không có môt Danh nào khác đã được ban xuống cho nhân loại để phải nhờ vào đó mà chúng ta trông được giải thoát “ (Cv 4,12).
“Các con hãy đi”. Lời Chúa Giêsu ngày hôm nay vẫn còn rất cấp bách. Xin cho các bạn trẻ đáp lại sự sai đi của Chúa. Amen.
———————
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
SỨ MỆNH TRUYỀN GIÁO – Trích Logos năm C
***
“Mười Hai Tên Đầu Trộm Đuôi Cướp” là tựa đề cuốn phim được xây dựng trên một câu chuyện có thật xảy ra trong thời đệ nhị thế chiến. Một viên sĩ quan Mỹ được trao cho nhiệm vụ thành lập một đội quân đi giải cứu các binh sĩ Hy Lạp bị quân đội Đức quốc xã giam giữ. Đây là một sứ mệnh vô cùng khó khăn, 90% là thất bại. Khó có người nào trong đội quân này hy vọng sống sót trở về. Viên sĩ quan biết rõ điều đó và không muốn đưa binh sĩ mình vào cuộc phiêu lưu tự sát như thế. Do đó, ông tìm đến một trại tù nơi có những quân nhân vô kỷ luật đang bị giam giữ. Họ là những kẻ trộm cướp, giết người hoặc là những phần tử có tiền án. Tuy nhiên, nghề trộm cướp và kỹ năng bắn giết là những điều mà viên sĩ quan đang cần đến. Quả đúng như vậy, “mười hai tên đầu trộm đuôi cướp” đã được tuyển chọn và được đặt vào đúng chỗ của mình để hành động. Họ có cơ hội để phục vụ chính nghĩa và làm lại cuộc đời. Họ là những con người bị loại bỏ trong xã hội, nhưng đã hoàn thành sứ mệnh được trao phó cách tốt đẹp. Cuối cùng, họ đã trở về và được chào đón như những vị anh hùng [R.Veritas, Mỗi Ngày Một Tin Vui].
Chúa Giêsu cũng chọn cho mình 12 tông đồ tuy không phải là những phần tử “đầu trộm đuôi cướp”, nhưng cũng không phải thành phần ưu tú trong xã hội. Họ là những dân chài thất học, thậm chí là người thu thuế bị coi là kẻ tội lỗi. Chúa đã trao cho các tông đồ sứ mệnh đi rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, loan báo Tin Mừng là một sứ mệnh lớn lao không chỉ được trao cho “Nhóm Mười Hai”, nhưng còn được trao cho nhiều người khác nữa. Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đã chọn thêm 72 môn đệ nữa và sai họ đi rao giảng Tin Mừng. Điều đó chứng tỏ truyền giáo là sứ mệnh của mọi người trong Giáo Hội.
Thông thường, khi một người được trao sứ mệnh, người ấy sẽ được trang bị các phương tiện giúp hoàn thành sứ mệnh một cách tốt nhất. Binh sĩ được trang bị quân trang, quân dụng, điệp viên được cung cấp những thiết bị chuyên môn…Nhưng các sứ giả Tin Mừng được Chúa Giêsu sai đi sẽ “không mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” là những thứ cần thiết nhất cho một người đi đường xa. Chúa Giêsu muốn các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng chỉ mang hành trang duy nhất là lòng tin yêu : Niềm tin và tình yêu.
Truyền giáo là một sứ vụ đặc biệt : người tông đồ được sai đi loan báo tin vui bình an ở giữa nơi không bình an: “Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng”. Các sứ giả Tin Mừng phải đi vào những chỗ hiểm nguy đầy gian khổ, để đem bình an đến cho mọi người. Muốn được thế, người tông đồ phải “có đầy Chúa” trong lòng để đem Chúa đến cho mọi người, vì Chúa chính là sự bình an.
Loan báo Tin Mừng còn là nhiệm vụ đặc biệt vì đó không phải việc “phá huỷ, chém giết” nhưng là “chữa lành và xoa dịu”. Các môn đệ được sai đi để cứu chữa các bệnh nhân và xua trừ ma quỷ. Người tông đồ rao giảng sứ điệp Tin Mừng của Nước Thiên Chúa là vương quốc tình yêu đã đến gần. Truyền giáo chính là đem tình yêu đến chốn hận thù, khơi lên tình yêu để xóa tan những chia rẽ và ghen ghét.
“Một con chim én không làm nên mùa xuân”. Cũng vậy, một người thợ không làm nên mùa gặt, một sứ giả không làm nên công cuộc truyền giáo. Sứ vụ loan báo Tin Mừng luôn cần đến nhiều bàn tay góp sức tạo nên sợi dây chuyền liên đới và sự hiệp nhất. Vì thế, Chúa Giêsu khi truyền cho các môn đệ đi loan báo Tin Mừng, Ngài đã sai “từng hai người” ra đi. Muốn cho công cuộc phúc âm hóa mang lại những thành quả tốt đẹp, mọi người trong Giáo Hội phải hiệp nhất nên một. Chính sự hiệp nhất là sức mạnh của công cuộc truyền giáo.
Trước khi ra đi để thi hành một sứ mệnh, người ta thường tuyên thệ hoặc tuyên bố sự quyết tâm. Nhưng trước khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa dạy các môn đệ biết cầu nguyện : “Các con hãy xin Chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người”. “Cầu nguyện là hơi thở người tín hữu”, và là sức sống của công cuộc truyền giáo. Nếu không có cầu nguyện, việc loan báo Tin Mừng chỉ là “cuộc tuyên truyền” về đạo giáo. Người tông đồ cầu nguyện cho chính mình, cầu nguyện cho việc truyền giáo của Giáo Hội, nhất là cầu nguyện xin Chúa ban thêm nhiều thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo hôm nay.
Trong giải bóng đá Châu Âu 2004 [Euro 2004], ngoài những trận cầu nảy lửa, những pha bóng tuyệt diệu, người hâm mộ bóng đá trên khắp hành tinh còn được thưởng thức những giây phút đầy cảm xúc khác. Đó chính là phần trình diễn ca khúc chính thức cho Euro 2004 của ca sĩ Nelly Furtado là bài hát mang tên Forca trên sân vận động Esta’dio tại Lisbon, Bồ Đào Nha.
Ca sĩ Nelly Furtado là người Bồ Đào Nha và bài hát Forca do chính cô sáng tác. Cô thường nghe người ta la lớn tiếng: Forca, forca nghĩa là : Tiến lên, tiến lên trong các trận bóng đá. Đó là những tiếng la lớn cổ vũ cho tinh thần quyết thắng của các đội bóng. Nelly đã lấy chữ forca đặt tên cho ca khúc của mình.
Đội bóng đá Bồ Đào Nha đang được cả đất nước trao cho một sứ mệnh lớn lao : Chiến thắng đội tuyển Hy Lạp trong trận chung kết vào sáng mai (05/7/2004). Cả dân tộc Bồ Đào Nha đang đứng lên hô to lời forca : Tiến lên ! Để cổ vũ cho đội tuyển nhà đạt được ước mơ ấp ủ từ lâu : Vô địch bóng đá Châu Âu !
Trong Năm Thánh Truyền Giáo, Giáo Hội Việt Nam cũng đang kêu gọi và cổ vũ từng người chúng ta tiến lên cách mạnh mẽ hăng say trên cuộc hành trình truyền giáo, đem Tin Mừng đến cho mọi người bằng con tim rực cháy tình yêu.
———————————-
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN NĂM C
13. LÚA CHÍN ĐẦY ĐỒNG – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
***
Theo số liệu báo cáo trong tuần Tĩnh tâm năm 2015, thì tổng số giáo dân trong Giáo phận Bà Rịa chúng ta là: 261.535/1.059.500 người, chiếm tỉ lệ 24,7%.
Còn nếu so với cả nước tính tới 30/12/2013 thì số tín hữu là 6.606.495/hơn 90.000.000 người, chiếm tỉ lệ khoảng 7,3 % Một tỉ lệ thật “khiêm tốn” nếu so với khoảng thời gian 400 năm Tin mừng được loan truyền tại Việt Nam chúng ta.
Còn về số người tân tòng được rửa tội, nếu tính riêng tại Giáo phận Bà Rịa chúng ta, thì số người lớn được rửa tội trong năm 2015 là 608 người, chiếm tỉ lệ khoảng 0, 23% số giáo dân của cả giáo phận, một tỉ lệ quá nhỏ, nhưng đa số là do lập gia đình.
Nhớ lại những ngày đầu Tin mừng mới được rao giảng trên mảnh đất Việt Nam chúng ta, thì dù ngôn ngữ bất đồng, mỗi năm các cha thừa sai cũng đã rửa tội được hơn 1000 tân tòng. Chẳng hạn như từ tháng 3.1629 – 5.1630 (10 tháng) đã rửa tội được 2188 người[1]. Tất cả những điều đó cho thấy nhu cầu truyền giáo hiện nay tại Việt Nam chúng ta thật là cấp bách đúng như lời Chúa Giêsu trong bài Tin mừng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
- Sứ mạng lên đường:
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít” luôn là một thao thức của Chúa Giêsu, đặc biệt là trong hơn 3 năm rao giảng công khai của Ngài. Chính nỗi niềm thao thức đó đã khiến Chúa Giêsu quên ăn, quên ngủ, không quản mệt nhọc để rao giảng cho dân chúng biết về Tin mừng cứu độ. Trước mắt của Chúa Giêsu, cánh đồng truyền giáo thật bao la, nhưng đang thiếu nhiều tay thợ gặt lành nghề đến để thu hoạch mùa lúa. Ngài nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người”.
Và không chỉ là một lời cầu xin chủ ruộng, Chúa Giêsu muốn các môn đệ làm một việc tích cực hơn, đó là sẵn sàng lên đường, cộng tác với Ngài trong sứ vụ loan báo Tin mừng. Và như để phần nào đáp ứng nhu cầu cấp bách cho cánh đồng truyền giáo, ngoài nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu còn phải “chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông đi trước Người đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới”.
Đối với Chúa Giêsu, sứ vụ loan báo Tin mừng luôn là một ưu tư hàng đầu của Ngài. Không có gì có thể ngăn cản Ngài thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Cho dù đó là lệnh cấm của hàng lãnh đạo tôn giáo Do Thái, hay sự mệt mỏi về thể xác của chính bản thân Ngài. Chính vì thế, cùng với lệnh truyền cho các môn đệ ra đi, Chúa Giêsu còn căn dặn các ông: “Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Khi căn dặn các môn đệ “Đừng chào hỏi ai dọc đường”, không phải là Chúa Giêsu muốn các môn đệ ra đi với một thái độ bất lịch sự, nhưng Ngài muốn các ông nhớ đến sự cấp bách của sứ vụ mà các ông đã lãnh nhận. Các ông cần tránh khỏi tất cả những gì làm cản trở các ông thi hành sứ vụ, kể cả những điều nhìn bên ngoài có vẻ chính đáng như lời chào hỏi chẳng hạn. Đồng thời, qua đó, Chúa Giêsu còn muốn các ông đặt việc loan báo Tin mừng lên vị trí ưu tiên hàng đầu.
Mặt khác, sứ vụ loan báo Tin mừng tuy cao quý, nhưng để làm tốt lại không phải là dễ dàng, Chúa Giêsu đã cảnh báo trước cho các môn đệ: “Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng”. Các thế lực sự dữ bên ngoài và ngay cả sự ích kỷ, lười biếng của bản thân luôn là những cản trở mà người môn đệ cần hết sức chú ý để vượt qua. Chỉ cần một phút lơ là, một chút tự ái là người môn đệ có thể dễ dàng buông trôi sứ vụ mà mình đã lãnh nhận.
Chính vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy hết lòng cậy trông vào ơn Chúa trong khi thi hành sứ mạng tông đồ. Việc tông đồ trước hết và trên hết là của Thiên Chúa. Ngài chỉ muốn chúng ta thành tâm và hết sức cộng tác vào công việc đó, còn kết quả thì để cho Ngài. Do đó, cùng với lệnh truyền sai đi, Chúa Giêsu đã nhắn bảo các môn đệ: “Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”. Chúa Giêsu muốn các tông đồ thi hành sứ vụ với một tinh thần khiêm tốn, phó thác và cậy trông hoàn toàn vào Ngài.
- Sứ điệp được loan báo:
Ra đi làm sứ giả loan Tin mừng, trở nên một thợ gặt trong cánh đồng truyền giáo của Thiên Chúa, thì sứ điệp đầu tiên mà người môn đệ cần loan báo đó là sự bình an. Bình an cũng chính là sứ điệp đầu tiên mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Ngay trong đêm Giáng Sinh, lúc Chúa Giêsu vừa mở mắt chào đời, các thiên sứ đã hát mừng “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 14). Đây là một sự bình an không dựa vào bảo đảm của thế gian, nhưng là thứ bình an nội tâm đến từ bên trong, kết quả của một tâm hồn trong trắng, ngay thẳng. Vì thế, cùng với lệnh truyền sai đi, Chúa Giêsu đã nhắn bảo các môn đệ: “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: “Bình an cho nhà này””. Đây là sứ điệp quan trọng của người môn đệ. Và hơn cả một lời chào. Sự hiện diện của người môn đệ phải là một sự hiện diện đem lại sự bình an, hiệp nhất cho tất cả những ai mình gặp gỡ.
Muốn thế, người môn đệ phải biết bỏ mình đi, chấp nhận những thiệt thòi, sẵn sàng hy sinh bản thân, bước theo con đường thập giá mà Chúa Giêsu đã đi. Con đường thập giá, một con đường trước mắt tuy có đau thương, thua thiệt, nhưng chắc chắn sẽ dẫn đến bình an và đem lại một sự sống vĩnh cửu. Chính vì thế, thánh Phaolô trong thư gởi cho các tín hữu Galata đã tuyên bố: “Phần tôi ước gì tôi đừng khoe mình về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
Thập giá của Đức Kitô không những là nguồn đem lại bình an, nhưng còn là mối dây đem lại sự hiệp nhất. Với cái chết của mình, Chúa Giêsu đã phá tan bức tường ngăn cách giữa người Do Thái và dân ngoại, nối liền đất với trời (x. Ep 2, 14-16). Chúa Giêsu đã đến để “loan Tin mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần” (Ep 2, 18). Như thế, cùng tin vào Chúa Giêsu, từ đây không ai còn là người xa lạ, nhưng tất cả sẽ được quy tụ nên một trong một thành Giêrusalem mới mà ngôn sứ Isaia đã báo trước: “Ta sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông và vinh quang chư dân tràn tới như thác lũ”.
Khi xưa, đứng trước đám đông dân chúng người Do Thái, Chúa Giêsu đã thao thức và đã mời gọi các môn đệ cùng cộng tác với Ngài trong việc loan báo Tin mừng cho họ. Ngày hôm nay, nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội cũng đang thật lớn lao. Đặc biệt, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, Giáo Hội Việt Nam cũng đang kêu mời mỗi người chúng ta lên đường rao giảng Tin mừng cho anh chị em của chúng ta. Việc rao giảng Tin mừng này cần được bắt đầu bằng đời sống đạo trong mỗi gia đình Công Giáo chúng ta. Kế đó, chúng ta hãy can đảm hy sinh, dẹp bỏ tự ái, sẵn sàng cộng tác vào các công tác tông đồ ngay tại Giáo xứ thân yêu chúng ta đang sống. Nhờ đó, ngày càng có thêm nhiều thợ gặt để thu hoạch cánh đồng lúa của Đức Kitô. Amen.
[1] Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh, Lịch sử Giáo Hội Việt Nam, tập 2, Đại Chủng Viện Thánh Giuse, 1994, trang 266.