Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật II Thường Niên – Năm A
Chiên Thiên Chúa
(Ga 1, 29-34)
Chú giải của GHHV Đà lạt
1. Đâu là cơ cấu của đoạn văn này ?
2. Gio-an Tẩy giả “đã không biết” (cc. 31- 33) Chúa Giê-su theo nghĩa nào ? Ông chẳng phải là anh họ của Người sao ?
3. Đâu là mối liên lạc giữa thị kiến khả giác và chứng từ của Gio-an Tẩy giả ?
4. Về việc thị kiến Thần khí, có sự khác biệt nào giữa Tin Mừng thứ tư và Tin Mừng Nhất Lãm ?
5. Trong thị kiến ấy, con chim câu có nghĩa gì ?
6. Trong quan điểm của Gio-an, đâu là ý nghĩa của phép thanh tẩy bằng Thánh Thần, vốn là phép phân biệt và xác định nhân vật lịch sử Giê-su ?
7. Trong câu 34, giữa hai dị bản “Con Thiên Chúa” và “Tuyển nhân của Thiên Chúa”, nên chọn dị bản nào hơn ?
8. Thành ngữ “Chiên Thiên Chúa” (c. 29) quy chiếu về cái gì ?
9. Đâu là ý nghĩa của biến cố này ?
1. Đoạn văn ta đang nghiên cứu là thành phần của một bản văn dài (1, 19- 51) phân chia chứng từ của Gioan Tẩy giả về Chúa Giêsu ra làm hai ngày:
– 1, 19- 28 : chứng từ gián tiếp và có tính cách tiêu cực.
– 1, 29- 34 : chứng từ trực tiếp và tích cực.
Hai ngày ấy được tiếp nối bằng hai ngày khác, tường thuật việc các môn đồ đầu tiên đến cùng Chúa Giêsu :
– 1, 35- 42 : An rê, người môn đồ vô danh, Simon con Gioan.
– 1, 43- 51 : Philipphê, Nathanael.
Trong cơ cấu của toàn bộ này, C.H.Dodd (Historical Trađition in the Fourth Gospel, Cambridge, 1963, tr. 248tt) tìm ra được một lược đồ tam phần (schéma tripartite) chung cho 4 đoạn nói về Gioan Tẩy giả trong, Tin mừng thứ tư ( 1, 6- 8 ; 1, 19- 34 ; 3, 22- 30 ; 10, 41- 42). Mỗi lần như vậy, người ta nói :
1. Gioan không phải là : ánh sáng (1, 8), Messia (1, 20 ; 3, 28) ; ông không làm dấu chỉ ” nào (10, 41).
2. Ông là: chứng nhân của ánh sáng (1, 7), của Đấng Messia (1, 29-34 và 3, 27- 30), của Chúa Giêsu (10, 41).
3. Ông làm công việc : dẫn thiên hạ tin vào Chúa Kitô và theo Người (1, 7. 33- 42, (3, 31- 36 ?) ; 10, 42).
Chứng từ tích cực, đúng nghĩa của Gioan Tẩy giả về Chúa Kitô chiếm vị trí chủ yếu trong cả bốn trường hợp. Đó là vì đối với thánh sử, Gioan tự bản chất là chứng nhân của Chúa Kitô : ông đã đến để làm chứng …… để làm chứng cho sự sáng…”(1, 7). Ông đã làm chứng cho Sự thật …” (5, 33). Đây đúng là nét chính yếu và riêng biệt của Tin mừng thứ tư.
Chứng từ dài nhất của Gioan Tẩy giả nằm ở 1,19- 34. Đoạn này làm thành một khối biệt lập, được phân định rõ ràng bằng một kiểu đóng khung : công thức “Và đây là chứng của Gioan” (1, 19) đối lại với công thức “Vì đã được xem thấy nên tôi xin đoan chứng: chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa (hoặc Con Thiên Chúa)” (1, 34). Như vậy chủ đề căn bản là chứng từ của Gioan Tẩy giả về Chúa Giêsu.
Nhưng như ta đã thấy lúc nãy, đoạn chứng từ này phân thành hai ngày:
– Ngày đầu (1,19- 28) được dành cho việc Gioan làm chứng (với tính cách chuẩn bị) trước mặt các sứ giả của Biệt phái về Đấng xứng đáng hơn” đã đến đây rồi, đang có mặt “giữa họ”, nhưng còn “ẩn danh” và “tới sau Gioan”. Chứng từ có vẻ tiêu cực theo nghĩa là Gioan tuyên bố mình không phải là: Messia, Con, Ngôn sứ ; ông xóa mình trước “Đấng đến sau ông”.
– Ngày thứ hai (1, 29- 34) dành cho chứng từ đích thực của Gioan Tẩy giả về Chúa Giêsu và nhắm một đám đông vô giới hạn, tức là Israel và “thế gian ” (1, 29- 31), vì điều Thiên Chúa hoàn tất trong Israel thì nhắm tói toàn thể nhân loại.
2. Cơ cấu của 1, 29- 34. Đoạn văn này, hình như thu thập và sắp xếp lại nhiều yếu tố có nguồn gốc khác nhau, được kết cấu theo lối nhị cú chuyển hoán (chiasme).
c. 29 (Gioan) thấy Chúa Giêsu đến với ông thì nói : này là Chiên của Thiên Chúa…”.
c. 30 “Chính Người là Đấng tôi đã nói : Sẽ đến sau tôi một người đã vượt trước tôi, vì Người đã có trước tôi”.
c. 31 “Phần tôi, tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ mình ra cho Israel; mà tôi đã đến thanh tẩy bằng nước”.
c. 34 Và tôi đã được xem thấy nên xin đoan chứng: chính Người là vị Tuyển nhân của Thiên Chúa (Con Thiên Chúa ?)”.
c. 33b “Người thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại trên ai, thì chính Người là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần”.
c. 33a tôi chưa hề biết Người, nhưng Đấng đã sai tôi đến thanh tẩy bằng nước, chính Ngài đã nói với tôi:
c. 32 và Gioan đã đoan chứng rằng: “Tôi đã trông thấy Thần khí đáp xuống, như chim câu, và đã lưu lại trên Người”.
Tính cách nhất thống của toàn bộ được chỉ rõ qua kiểu đóng khung : Chiên Thiên Chúa ” (1, 29 – “Tuyển nhân của Thiên Chúa ” (Con Thiên Chúa) (c.34). chóp đỉnh hay khúc ngoặt của bản văn nằm ở câu 32 : “tôi đã trông thấy Thần khí đáp xuống và đã lưu lại trên Người”. Như vậy đoạn văn, qua cơ cấu của nó, đặt trọng tâm vào việc nhìn thấy Thần khí đáp xuống từ trời và lưu lại trên Chúa Giêsu, nền tảng và đối tượng đoan chứng của Gioan Tẩy giả.
3. Việc Gioan hai lần quả quyết (cc. 31. 33) mình không biết Chúa Giêsu đã đóng khung cho câu 32. Sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa: vị Tẩy giả không biết Đấng mà phép rửa bằng nước của ông đang, chuẩn bị, dọn đường cho. Để diễn đạt sự vô tri đó, thánh sử dùng động từ “oida”. I. de la Potterie đã xác định ý nghĩa của nó như sau : Động từ “oida” chỉ sự hiểu biết xét như đã thủ đắc, có tính cách chắc chắn tuyệt đối, trong lúc động từ “ginôskô ” chỉ quá trình thủ đắc tri thức.
Lúc thánh sử bảo rằng Gioan Tẩy giả không biết Đấng đến sau ông, điều ấy chẳng có nghĩa: Chúa Giêsu đối với ông chỉ là một kẻ xa lạ, nhưng có nghĩa: ông không biết Người như là Messia, ông chưa có đầy đủ ánh sáng đức tin, chưa thấy trong Người vị Tuyển nhân của Thiên Chúa. Cha de la Potterie đã có lý khi nhấn mạnh đến mối tương quan giữa sự vô tri này của Gioan Tẩy giả và sự vô tri của người Do thái ở 1,26. Trên điểm này, Gioan Tẩy giả còn giống với người Do thái là những kẻ đã chẳng hề có ý niệm nào về lai lịch của Đấng đang ở giữa họ: chính cảnh mặc khải ở sông Giođanô sẽ cho Gioan Tẩy giả cái nhìn đức tin ấy.
Thành ra việc nhìn thấy Thần khí có hai mục đích: kéo Goian Tẩy giả ra khỏi sự vô tri của ông, đồng thời đặt ông vào trong ơn gọi thực sự ; khi mặc khải cho ông thấy .Tuyển nhân của Thiên Chúa, thị kiến đó biến đổi ông từ kẻ làm phép rửa bằng nước thành chứng nhân của Thần khí, hay đúng hơn thành chứng nhân của Đấng có Thần khí lưu lại bên trên. Chính vì lý do đó mà ông, đã “đến ” (c. 31). Phép rửa bằng nước chỉ là một giai đoạn chuẩn bị cho vai trò quan yếu đó vậy.
Về vấn đề này, ta có thể so sánh 1, 31 : ‘Tôi đã đến thanh tẩy trong nước ” (thanh tẩy: hiện tại phân từ, chỉ một sự kiện đơn giản) với 1, 7 : “ông đã đến để làm chứng: … để làm chứng cho sự sáng” (mệnh đề chỉ mục đích) và với 1, 31 : tôi đã đến thanh tẩy bằng nước để Người được tỏ mình ra cho Israel”. Cái thị kiến kéo Gioan Tẩy giả ra khỏi sự vô tri của ông chẳng những đã mặc khỏi cho ông sứ mệnh đích thật, mà còn cho ông đủ khả năng chu toàn nó.
4. Chứng từ của Gioan Tẩy giả mở đầu bằng lời tuyên bố. “Tôi đã chiêm ngắm Thần khí (tetheamai) ” nơi câu 32, và kết thúc với câu 34: tôi đã xem thấy và tôi xin đoan chứng …” hay dịch cách khác : Vì đã xem thấy, nên tôi xin đoan chứng. Chứng từ như thể dựa trên một thị kiến vậy.
Mối liên hệ giữa chứng từ và thị kiến xuất hiện nhiều lần trong Tin mừng thứ tư : x. 3, 11. 32 ; cũng xin xem 1 Ga 1, 2 và 4, 14. Tuy nhiên phải phân biệt hai hành động. Chứng tá không giản lược thành một thị kiến khả giác, hoàn toàn có tính cách vật chất, ngoại trừ trương hợp Chúa Giêsu, Đấng mà chứng tá là mặc khải trực tiếp về những thực tại thiên giới. Trong trường hợp chứng nhân loài người, có một sự phân cách giữa đối tượng của thị kiến và đối tượng của chứng tá: biến cố người ta đã thấy cho biết một điều khác không trông thấy được, và chính thực tại dấu ẩn này là cái người ta sẽ làm chứng cho. Dầu sao, việc nhìn thấy bên ngoài vẫn quan trọng: vai trò của chứng nhân tận mắt không thể bị xem nhẹ. Tại sông Giođanô, Gioan Tẩy giả đã nhìn thấy một sự kiện bên ngoài: Thần khí đáp xuống và lưu lại trên Chúa Giêsu (1, 32) ; nhưng cái ông làm chứng, chính là thiên sai tính của Người.
Thiết tưởng nên nhấn mạnh đến vai trò, tầm quan trọng và bản chất của thị kiến khả giác. Việc nhìn thấy bên ngoài, điều kiện của chứng tá, tượng trưng cho một trong nhiều trường hợp mà một hạn từ của Gioan phải được hiểu vừa trên bình diện kinh nghiệm khả giác, vừa trên bình diện thực tại thiêng liêng. Thị kiến không còn là một cái nhìn nào đó, nhưng là cái nhìn dẫn đến đức tin, nhìn biến cố như là dấu chỉ. Kẻ đã thấy thì làm chứng cho ý nghĩa của biến cố mình mục kích. Có thể nói ông làm chứng cho ý nghĩa ấy xét như nó đã được ông nhìn thấy trong biến cố.
Ta nên chú ý đến việc nghiên cứu các động từ được thánh sử dùng trong đoạn văn này đây để chỉ cái nhìn. Nơi 1, 29, ông sử dụng tiếng blepein: Gioan thấy (nhận thấy) Chúa Giêsu đang đến với mình. Động từ rõ ràng diễn tả tri giác bằng mắt.
Nơi câu 32 Gioan Tẩy giả đoan chứng cho việc ông đã nhìn thấy Thần khí đáp xuống trên Chúa Giêsu và lưu lại trên Người”. Động từ được dùng là theasthai ở thì quá khứ (“tetheamai”) : nó mô tả thị kiến như một việc chiêm ngưỡng, theo dõi diễn tiến của biến cố để đi sâu vào ý nghĩa. Thành thử nó cho thấy có sự tiến triển trong tri giác. Bởi thế người ta đã dịch : “Tôi đã chiêm ngưỡng (đã trông thấy) Thần khí đáp xuống … và Ngài đã lưu lại trên Người “. Việc chuyển từ phân từ (“đáp xuống”) qua trực thuyết cách aoriste (indicatif aoriste) (“và Ngài đã lưu lại”) có tác dụng làm cho ta chứng kiến và như thể chiêm ngưỡng được chính diễn tiến của biến cố vậy.
Trong các câu 33- 34 (có lẽ thuộc về một truyền thống khác) xuất hiện động từ horân. Trước tiên nó được dùng ở thì aoriste c. 33) để chỉ việc loan báo cho Gioan Tẩy giả hay rằng ông sẽ được nhìn thấy (tận mắt) cái dấu chỉ sẽ đưa ông đến chỗ nắm được một thực tại siêu việt nhờ sự soi sáng của Thiên Chúa: “Ai mà ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại bên trên .. “. Động từ cũng trở lại với trực thuyết cách quá khứ (indicatif parfait) (c.34) để chỉ chính tri giác ấy, cái tri giác mà lần này được thủ đắc và đào sâu đến độ nắm được thực tại trên. Trong thị kiến và nhờ thị kiến, Gioan Tẩy giả được mặc khải cho biết tư cách thiên sai của Chúa Giêsu. Ông đã “thấy” và ông đoan chứng rằng “chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa (Con Thiên Chúa)”. Động từ horân ở thì quá khứ (parf’ait) diễn tả cái nhìn đã hoàn toàn được đào sâu và làm cơ sở cho một chứng từ ‘bảo đảm và trường tồn từ nay (nghĩa của thì Parfit trong Hy ngữ : heôraka hai memarturêka).
5. Đối tượng chủ yếu của thị kiến là Thần khí, như trong Nhất lãm. Nơi Mt (3, 16), Ngài được gọi là Thần khí Thiên Chúa (theo, không có mạo từ) ; nơi Lc (3,22), Thánh Thần ; nơi Ga (1, 32tt) như nơi Mc (1, 10), Thần khí ; nhưng nơi Ga, nguồn gốc thiên giới (ex ouranou “từ trời” không có. mạo từ) cho thấy Ngài là Thần khí Thiên Chúa hay Thánh Thần.
Như Mt và Lc, Gioan nói rằng Thần khí xuống “trên Chúa Giêsu (epi; Mc dùng chữ “phía”, eis). Điểm đặc biệt của Gioan là sự kiện Thần khí “lưu lại” trên Người. Chi tiết này được đề cập hai lần (cc. 32. 33) và được coi như thuộc thành phần dấu chỉ phân biệt Đấng mà Thần khí ngự lên trên.
Các nhà chú giải hầu hết đều cho đó là một quy chiếu mặc nhiên về sấm ngôn Is 11, 2 : “Một chồi sẽ xuất từ gốc Giessê và từ rễ nó, lộc sẽ mọc lên : trên Người Thần khí Giavê sẽ đậu xuống …”. Vẫn biết bản Hy lạp (LXX) của Isaia không sử dụng động từ menein lưu lại) nhưng dịch là anapausetai, Gioan vẫn chọn động từ menein vì đó là một tiếng thần học chuyên môn của ông. Như việc Thần khí đậu trên chồi nhà Đa-vít trong Is 11, 2, việc Thần khí lưu lại trên Chúa Giêsu trong Ga1, 32- 33 là một dấu chỉ, ban cho Gioan Tẩy giả, nói lên mối tương quan thường xuyên, thân thiết và hoàn hảo giữa Thần khí Thiên Chúa và Chúa Giêsu. Cùng với Y.Godet, ta có thể coi việc sử dụng chữ “epi” với accusatif sau động từ “lưu lại “, một động từ tự bản chất ở thể tĩnh, như là thành ngữ diễn tả tính cách sống động của mối tương quan ấy.
6. Thần khí đáp xuống “… như một chim câu (đến) từ trời ” (1, 32). Chi tiết này cũng gặp thấy trong Tin mừng Nhất Lãm. Nó được mở đầu bằng chữ hôi (hôsei, nơi một, nhấn mạnh sự so sánh). Lc nói rõ là Thần khí ngự xuống dưới hình dạng thể xác, (somatikô eidei).
Về ý nghĩa chim câu, có nhiều lập trường khác biệt. Theo J.Jeremias the Theology of the New Testament, London, SCM Press, 1971, t.I. tr. 52), lối so sánh Thần khí với chim câu hoàn toàn vắng bóng trong Do thái giáo cổ. Và ông bảo, điều đó giải thích tại sao người ta đã đi tìm những điểm song song – có lúc thật kỳ lạ – trong lịch sử các tôn giáo. Nhưng, vẫn theo Jeremias, tất cả mọi dự tính đó đều phát xuất từ một thiên kiến sai lầm cho rằng trong trình thuật Tin Mừng nguyên thủy, Thần khí thực sự được tượng trưng bằng một con chim câu. Theo ý ông, đầu tiên (Mc 1,10) chỉ có vấn đề so sánh, tương tự như lối so sánh mồ hôi của Chúa Kitô trong cơn hấp hối với “những giọt máu nặng hạt” (Lc 22,44). Ông bảo điều này không có nghĩa là mồ hôi của Chúa Kitô đã biến thành máu, nhưng có nghĩa là cơn phiền não của Người dữ dội đến nỗi mồ hôi từ thân Người toát ra nhiều như máu chảy. Cũng vậy, Jeremias còn viết, kiểu nói “như một chim câu” chẳng có ý bảo rằng Thần khí hiện ra dưới hình dáng một con chim câu, nhưng là Ngài đáp xuống trên Chúa Giêsu với tiếng rung nhẹ của con chim đó. Jeremias nghĩ rằng hình ảnh đã dần dần bị vật chất hóa khi người ta biên soạn các Tin Mừng ; và quá trình vật chất hóa hình ảnh này xuất hiện trong bản văn Lc (22, 44), do ảnh hưởng của môi trường Hy lạp.
Lập luận của Jeremias bảo rằng trong truyền thống Do thái hoàn toàn vắng bóng lối biểu tượng chim câu-Thần khí xem ra khó bác bỏ. Và đấy chính là cái giảm giá trị lối giải thích dựa trên St 1 , 2 cho rằng chim câu trong phép rửa của Chúa Giêsu tượng trưng Thánh Thần – vì trong bản văn này quả có hình ảnh Thần khí bay là đà ” (trên nước) như một con chim, ít là theo một lối giải thích tàm tạm, nhưng không gì cho thấy con vật đó là một chim câu (chỉ có một bạn văn của các giáo sĩ hiểu theo nghĩa ấy – x.strack-billebeck, I, 312) – hoặc dựa trên St 8,8 là bản văn thường được viện dẫn để bênh vực cho lập trường. Bản văn này quả có nói tới một con chim câu, nhưng chẳng có gì cho thấy chim câu ấy chỉ Thần khí. Tuy nhiên lối giải thích do Jeremias đề ra không nhất thiết bó buộc phải theo.
Thực vậy trong truyền thống Do thái có biểu tượng về chim câu. Nó không liên hệ tới Thần khí nhưng tới Israel, đặc biệt là Israel bị lưu đày đang khao khát hồi hương và cầu xin Thiên Chúa trợ giúp. Biểu tượng ấy thường gặp trong Cựu ước (Hs 7, 11 ; 11, 11 ; Is 60, 8 ; Tv 55, 7- 8 ; 68, 13 ; 74, 19 ; Dc 1, 15 ; 2, 14 ; 5, 2 ; 6, 8) và trở lại trong các ngụy thư hay văn chương giáo sĩ (Strack-bill. I, 123tt).
Trong Thánh vịnh 56, 1, bản Massorètes viết: ” theo cung điệu chim câu của các thần xa lạ ” (BJ). Thế nhưng bản Hy lạp lại dịch là: “Theo cung điệu dân lưu đày của các thánh nhân Ngài” (huper tou la ou apo tôn agiôn memakrummenou) và bản Targum: “Ad laudandum pro ecclecia quan similatur columbae silentii, in tempore quẹo elongati suốt a civitatibus sui…”
Trong sách Êdơra thứ tư (5,23- 27), ta đọc đọc bài thơ nhỏ sau đây :
“Giữa muôn chim trong tạo vật Ngài đã gọi một chim câu,
Giữa muôn thú trong tạo thành Ngài đã yêu một cừu cái,
Giữa muôn dân thuộc mọi chủng tộc Ngài đã chọn một dân
riêng,
Giữa muôn nước trong vũ hoàn Ngài đã giữ lấy một gia sản”.
Theo E.R. Goodenough (Jewish Symbols in the Grece-Roman Penod, t.8, New-haven, 1 956, tr.42tt), trong truyền thống Do thái, Israel thường được tượng trưng bằng một con chim câu. Tác giả này tham chiếu sách Edơra thứ 4, Pseudo- Philon, Targum Esther v.v… Nhưng ông thêm: chim câu chỉ Israel mà đôi cánh là việc thực thi Lề luật, thế nên hình các con chim câu khắc trên tráp đựng Ngũ kinh có lẽ vừa biểu hiệu đặc tính đồ vật được cất giữ, vừa tượng trưng Israel trên tráp Lề luật”. Xa hơn, ông còn viết : “Theo giả thuyết tự nhiên nhất, chúng tôi có khuynh hướng nghĩ rằng hình chim câu khắc trên mộ và trong các hội đường Do thái tượng trưng cho Israel, dân ưu ái của Thiên Chúa, hay cá nhân người Israel, hoặc tượng trưng cho ơn cứu rỗi vì tình yêu và sự bất tử mà Thiên Chúa ban cho người tín hữu, kẻ trung thành “.
7. Đi từ sự kiện đó, A.Feuiliet ngh rằng chim câu đáp xuống và lưu lại trên Chúa Giêsu tượng trưng và tiên trưng kết quả chính yếu của việc tuôn đổ Thần khí, tức là việc thiết lập Israel mới, thiết lập cộng đoàn hoàn hảo của thời ân sủng. Thành ra cái được biểu hiệu không trực tiếp là Thần khí, nhưng là hậu quả của việc Ngài hiện diện trong Chúa Giêsu, hậu quả cho dân Thiên Chúa. Như vào ngày Hiện xuống, các lưỡi lửa không trực tiếp tượng trưng Thần khí, nhưng tượng trưng các ngôn ngữ mà 12 sứ đồ sắp bắt đầu nói ra dưới ơn linh ứng của Ngài, và, sâu xa hơn, tượng trưng việc Phúc âm hóa vũ trụ; thì cũng vậy, chim câu trong phép rửa có ý chỉ điều này là dân thiên sai phải xuất phát từ trong con người Chúa Giêsu Messia, vua và tôi tớ của Giavê.
Kiểu nói: “Chính Người là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần” (c. 33b) giúp chú giải thị kiến; nó giải thích cho Israel hiểu con người Chúa Giêsu, con người mà trên đó Thần khí đã đáp xuống và dừng lại.
Công thức thanh tẩy trong Thánh Thần” của Gioan có nhiều tiếng song song trong Nhất Lãm và trong Công vụ, nhưng vẫn rất khác biệt. Nơi Mt (3, 11) và Lc (3, 16), việc loan báo phép rửa trong Thánh Thần được nối kết với hình ảnh lửa, và cả hai đều liên hệ với lời loan báo việc giá lâm gần kề của “kẻ mạnh hơn “, tức là của Đức Messia, Đấng đến thực thi cuộc phán xét sau cùng. Trong viễn tượng ấy, Thần khí, được liên kết chặt chẽ với lửa, chỉ sức mạnh thần linh, hơi thở vũ bão sẽ hoàn thành cuộc xét xử đó (x.Ts 4,4tt ; Hênoc 62,2). Trong nghĩa này, không phải Thánh Thần, mà Gioan Tẩy giả loan báo là sẽ được Đấng Messia tuôn đổ, nhưng chính là hơi thở mạnh mẽ sẽ tiêu diệt ác nhân Is 11 đã đề cập tới (Is 11, 4).
Tuy nhiên, công cuộc ấy cũng là công cuộc ân sủng. Nó nhằm mục đích thiết lập dân cánh chung, tinh tuyền và thánh thiện của Thiên Chúa. Chính khía cạnh này đã được giữ lại có lẽ bởi Mc (1, 8) là người không đề cập tới lửa, và bởi lu ca (Cv 15) là người dời câu nói (“thanh tẩy bằng Thánh Thần”) vào lễ Ngũ tuần.
Tin Mừng thứ tư nằm trong cùng chiều hướng ấy. Nhưng điểm đặc biệt của nó vẫn luôn là việc làm nổi bật con người Chúa Giêsu, bằng hai cách :
1) cắt ngang câu nói : “Phần tôi, tôi thanh tẩy bằng nước ” đặt
ở 1, 26, nhưng phản đề chỉ được đưa ra ở 1, 31 .33 , nơi không còn đối nghịch giữa hai phép rửa cho bằng hai nhân vật : Gioan-Giêsu ;
2) dùng hiện tại phân từ với định quán từ, để chỉ một chúc vụ kéo dài và đặc trưng hơn là một hành động chốc lát : chính Người là Đấng thanh tẩy (sát chữ: “là Tẩy giả “) trong Thánh Thần ” (1, 33b).
Thành ra có sự đối lập giữa hai nhân vật trong vai trò lịch sử hơn là đối lập giữa hai phép rửa: Gioan Tẩy giả với vai trò chứng nhân và Chúa Giêsu với vai trò thanh tẩy trong Thánh Thần.
Trong viễn tượng Gioan, phép rửa trong Thánh Thần, phép rửa phân biệt và xác định nhân vật lịch sử Giêsu, ám chỉ cái gì ? Trước tiên nên để ý rằng không có mạo từ trước chữ “Thánh Thần”. Điều đó nhắm mục đích quy hướng sự chú ý chẳng phải trên bản thân của Thánh Thần, nhưng là trên hành động, trên luồng sinh khí của Ngài. Nên có lẽ phải dịch : “trong quyền năng của Thánh Thần”. Chúa Giêsu sẽ thanh tẩy trong quyền năng của Thánh Thần vậy.
Đúng ra danh xưng ấy liên hệ đến điều gì ? Khó mà xác định ngay được. Nhưng phần tiếp theo của Tin Mừng, với các hình ảnh và công thức khác nhau, sẽ dần dần cho thấy điều đó. Tuy nhiên ta có thể nói :
1) trong viễn tượng Tin Mừng thứ tư, phép rửa bằng Thánh Thần không có ý nghĩa phán xét cánh chung như trong truyền thống Mt-Lc ;
2) nó cũng không nhắm tới phép rửa được đề cập ở 3, 22 và 4, 1 vì phép rửa này chẳng phải là phép rửa trong Thánh Thần. Vậy phải chăng nó chỉ phép rửa Kitô giáo? Có lẽ một cách gián tiếp, nhưng viễn tượng chắc hẳn rộng hơn. Phép rửa trong Thánh Thần nhắm tới và xác định toàn thể hoạt động, công trình của Chúa Giêsu. Sứ mệnh của Người, đối với nhân loại, chủ yếu sẽ là một phép rửa trong Thánh Thần”.
Các nhà chú giải hầu như nhất trí quy chiếu thành ngữ “trong Thánh Thần” về các bản văn Cựu ước loan báo việc tuôn tràn Thần khí Thiên Chúa trên cộng đoàn : Is 32, 15tt; 44, 3tt; Ed 36, 25- 29 ; Ge 3, 1. Ta cũng có thể nhắc lới, như là bằng chứng của niềm chờ mong ấy, nhiều bản văn Qumrân như LQS IV, 19- 23 ; và Chúc thư tổ phụ Lêvi 18, 6- 9 ; Tv Salomon 17, 29- 42. Trong các bản văn này, biểu lộ niềm tin tường vào chương trình của Thiên Chúa, tin tưởng rằng vào thời cánh chung, qua việc tuôn đổ Thần khí, Ngài sẽ tạo cho mình một dân tộc thánh, tuân phục Lề luật, một dân biết” Ngài. Qua việc Thần khí ngự xuống và đậu lại, Chúa Giêsu được chỉ định như là tác nhân của cuộc tuôn tràn thời cánh chung ấy. Chính Người là Đấng thực hiện công việc. Trước đó, nơi câu 32- 33, lời ám chỉ mặc nhiên về Is 11,2 đã quy hướng theo nghĩa này.
Tính cách mới mẻ hoàn toàn, làm nên mặc khải chủ yếu của Tân ước, hệ tại chỗ gán cho Chúa Giêsu một hành vi được coi như thuộc về Thiên Chúa. Thật vậy, trong Do thái giáo, không bao giờ việc tuôn tràn Thần khí được gán cho Đấng Messia: chỉ có Kitô giáo mới dám làm việc ấy. Đó cũng là chủ đề trong diễn từ của Phêrô ngày lễ Ngũ tuần : ” Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại ; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy … Và bây giờ, Người đã lĩnh nơi Cha ơn đã hứa là Thánh Thần mà đổ xuống ” (Cv 2, 32 tt).
8. Lời tuyên bố sau cùng của Gioan Tẩy giả (c. 34) xác nhận và củng cố lối giải thích trên. Gioan Tẩy giả tổng lược và tổng hợp chứng từ của ông trong công thức: “Vì đã thấy, nên tôi xin đoan chứng chính Người là Tuyển nhân của Thiên Chúa”.
Có một vấn đề phê bình văn bản được đặt ra cho câu này. Phần lớn các bản văn đọc là “Con Thiên Chúa” (“huios”). Một vài bản văn (như P 5, Sin., nhiều thủ sao của bản La-tinh cổ và Syri cổ, thánh Ambrôsiô) lại đọc: “Tuyển nhân của Thiên Chúa” (“eklektos”). Vài bản khác phối hợp cả hai cách : “Con được chọn” (electus Tilius).
Dầu cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa” ít được theo trong truyền thống thủ sao, nó cũng vẫn được một số lớn nhà chú giải giữ lại: Harnack, Loisy, Lagrange, Windisch, Cullmann, Van den Bussche, de la Potterie, Schnackenburg, Boismard, Brown, Barrett, Mollat … Theo Jeremias mục Pais (tou theo)”, TWNT), cách đọc “Con Thiên Chúa” hình như đã thay thế cách đọc nguyên thủy “Tuyển nhân của Thiên Chúa” vào thế kỷ 4, để chống lại dưỡng tử thuyết trong Kitô học. Mặt khác, dựa trên nhiều khuynh hướng thần học, khó mà tưởng tượng rằng các sao lục viên Kitô giáo đã đổi tiếng “Con Thiên Chúa” thành “Tuyển nhân của Thiên Chúa”, trong lúc một sự thay đổi theo chiều ngược lại xem ra khả dĩ hơn. Thành thử cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa” có thể nên giữ lại vì danh nghĩa là cách đọc khó hơn”. Cách đọc “Con Thiên Chúa” có thể là do ảnh hưởng của các trình thuật Nhất lãm về phép rửa Chúa Giêsu.
Cách đọc “Tuyển nhân của thiên Chúa” xem ra quy chiếu về Is 42, 1 : nầy là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ Tuyển nhân của Ta mà hồn Ta sủng mộ. Ta đã đặt Thần khí Ta trên Người”. Do đó Chúa Giêsu được chỉ định như là “Tôi tớ Giavê” mà nét phân biệt, như trong sấm ngôn Is 11, 2 và trong trường hợp của ngôn sứ ở 61, 1, là sự hiện diện của Thần khí Thiên Chúa “trên Người”, hiện diện để giúp thi hành sứ mệnh canh tân dân Thiên Chúa bằng cách dạy họ biết Lề luật Ngài. Việc ám chỉ Is 11, 2, hàm chứa trong tiếng menein (lưu lại) của cc. 32. 33, nhấn mạnh tính cách trường tồn và tràn đầy của việc Thần khí hiện diện trong Chúa Giêsu ; còn việc ám chỉ Is 42 ; 1 có lẽ nhắm mục đích nhấn mạnh trực tiếp hơn tính cách riêng biệt của sứ mệnh người là thanh tẩy “trong Thánh Thần ” nghĩa là vãn hồi pháp luật, công bình và chân lý.
Nếu chấp nhận cách đọc “Tuyển nhân của Thiên Chúa”, ta được một lối đóng khung rất đặc biệt cho cả phần 1, 29- 34. Quả vậy, hình như công thức “Chiên Thiên Chúa ” có thể được giải thích, ít ra một cách nào đó, khi đem quy chiếu về kiểu nói “Tôi tớ Thiên Chúa ” của Is 42. 9.
Hãy giải thích đôi chút lời quả quyết vừa nêu. Nhiều tác giả tự hỏi phải hiểu chữ “Chiên Thiên Chúa” thế nào. Thông thường, người ta coi đó như một tiếng ám chỉ chiên Vượt Qua hoặc chiên hy tế của Đền thờ, hay “Tôi tớ Giavê ” trong sấm ngôn Is 53, 7, kẻ được hình dung như con chiên bị đem đi giết, như con cừu trước thợ xén lông, và mang lấy nỗi khổ cùng các hành vi bất công của chúng ta. Về chiên Vượt Qua hay chiên hy tế thường ngày, thật sự không có vấn đề liên hệ vì chẳng có chỗ nào gán việc đền tội cho chúng (Str-bill, II, 368).
Ngược lại, về phía bản văn Isaia, sự tương tự giữa nó với đoạn Gioan dựa trên hai nền tảng: trong cả hai bản văn hy vật được tượng trưng bằng một con chiên, mang lấy trên mình tội của thế gian (lập luận thường được dùng để bênh vực việc đồng hóa Chúa Giêsu với con chiên Vượt Qua). Dầu sao đó chỉ là tương tự trên ngoài mà thôi. Trong sấm ngôn Isaia, hình ảnh con chiên, con cừu không có mục đích nói lên tính cách hy vật, nhưng là nói lên sự dịu dàng tính chịu đựng, đức phục tùng của người Tôi tớ. Còn về việc đền bù thay thế tội lỗi, chắc chắn không dược thánh Gioan diễn tả ở đây. Động từ airoin (cất đi, cất lấy) của Gioan không tương đương với động từ pherein (mang lấy, gánh lấy trên mình) của Is 53,4. Và cũng nên ghi nhận là ý tưởng về một Đấng Messia đau khổ rất xa lạ với thiên sai chủ nghĩa đương thời. Chắc hẳn khó khăn này có thể vượt qua. Vì vị Tiền hô có thể đã biết được trước mầu nhiệm cứu chuộc, hoặc nhờ suy niệm về sấm ngôn Isaia, hoặc nhờ một ân sủng đặc biệt, thích hợp với sứ mệnh. của ông. Nhưng quả là khó khi muốn làm cho một lời tuyên bố về sứ mệnh đền bù và cứu chuộc của Chúa Giêsu ăn khớp với các chứng từ khác của Gioan Tẩy giả. Gioan Tẩy giả thường coi Đấng Messia như là vị thẩm phán chuyên việc quét sạch sân lúa của Người với một cái rê trong tay và phân biệt nghiêm nhặt người công chính với kẻ tội lỗi (Mt 3, 12 ; Lc 24, 17). Cho đến cuối đời, ông vẫn nóng lòng chờ đợi Người đảm nhận vai trò đó (Mt 11, 2- 3 ; Lc 7, 18- 19). Hơn nữa, nếu sự hy sinh cứu chuộc của Đấng Messia đã được công bố rõ ràng như thế ngay từ đầu, thì làm sao giải thích nỗi kinh ngạc của các sứ đồ khi nghe loan bác cuộc Tử nạn (Mc 9,32; Lc 24,21 v.v…)?
10. Khoa chú giải đã tự hỏi đâu là ý nghĩa riêng của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa trong các trình thuật Nhất lãm. Thường người ta trả lời như sau: Chúa Giêsu, khi chịu rửa, đã để Thần khí chiếm đoạt. Thiên Chúa đã sử dụng Người, trang bị và ban cho Người- khả năng làm sứ giả của Ngài, làm kẻ xây dựng thời cứu độ. Chúa Giêsu, khi chịu rửa, đã học biết ơn gọi của Người vậy.
Còn trình thuật Gioan không đề cập tới phép rửa của Chúa Giêsu, đối với ông, việc gặp gỡ giữa Gioan Tẩy giả với Chúa Giêsu trước hết là cơ hội của một cuộc thần hiện, nghĩa là của một cuộc mặc khải cho Gioan Tẩy giả biết thiên sai tính thiêng liêng của Chúa Giêsu. Cuộc thần hiện này được vị Tẩy giả giải thích dưới ánh sáng của một lời thần linh (1, 33); lời này, được thị kiến củng cố, đặt nền tảng cho chứng tá của ông về Chúa Giêsu và về công việc của Người. Trong viễn tượng của Tin mừng thứ tư, cảnh này có một tầm quan trọng căn bản, vì Gioan chỉ “đến ” là để “làm chứng điều ấy ” (1, 7) : “để Người được tỏ mình ra cho Israel” (1, 31).
Israel ở đây chỉ Israel cánh chung, đích thực, nghĩa là các thành phần trong dân được xác nhận là đã sẵn sàng đón nhận ánh sáng. Chính họ, qua chứng từ của Gioan Tẩy giả, là đối tượng của mặc khải về Đáng được Thần khí “lưu lại” bên trên. Họ biết rằng từ nay Thần khí hiện diện, một cách thường xuyên và tràn đầy, trên Đang Ngài đã đáp xuống” và lưu lại : chính Người là Đấng rửa trong Thánh Thần. Với Người, thời đại mới đã được khai mạc.
CHỦ GIẢI CHI TIẾT
“Này là Chiên của Thiên Chúa”: Người ta bảo rằng cái lập luận vững vàng bênh vực lập trường “con chiên vượt qua tiên trưng con Chiên mà Gioan Tẩy giả làm chứng ở đây” phát xuất từ chính thánh sử, từ chính trình thuật Tử nạn (19, 36- 37). Vì theo thời biểu của Ga, Chúa Giêsu chết vào chính lúc hoàn tất nghi thức sát tế chiên dành cho bữa ăn Vượt qua trong Đền Thờ. Người ta lại còn phỏng đoán Gioan đã thay đổi thời biểu với chủ ý ngầm bảo độc giả rằng Chúa Kitô chịu sát tế thay thế chiên Vượt Qua của Cựu ước.
Từ ngày khám phá các thủ bản ở Biển chết, vấn đề thời biểu trên lại được tranh luận hơn nữa. Nhưng hình như có thể bỏ qua. Thật vậy, lời giải thích mà chính thánh sử đưa ra về các hoàn cảnh của cái chết Chúa Giêsu tự nó đã dứt khoát. Đặc biệt ông thấy việc không bẻ gẫy xương (Ga 19, 36b) và nhát lưới đòng (Ga 19, 37b) là dấu hoàn thành một sấm ngôn Cựu ước Người ta bảo bản văn đầu đưa ta về lại một chi tiết đặc biệt trong pháp chế liên hệ đến chiên vượt qua trong Xh 12, 46 và Ds 9, 12. Nhưng ta cũng có thể thấy đó là một câu trích dẫn Thánh vịnh 34, 2. Thật vậy, bản văn Gioan tương hợp với bản văn Thánh vịnh hơn nhiều. Lại nữa, ngoại trừ câu 19, 37 (= Dcr 12, 10), 6 câu trích dẫn khác trong phần 2 của Gioan đều xuất phát từ sách Thánh vịnh. Nhận xét này cho ta một dấu hiệu đáng lưu tâm. Ngoài ra, ý tưởng được trình bày trong Thánh vịnh đặc biệt ăn khớp với bản văn ta đang nghiên cứu và với toàn thể thần học Gioan. Thật vậy, Thánh vịnh quả quyết Giavê sẽ bảo vệ người công chính bị bách hại, đến nỗi chẳng một xương nào của ông bị dập gãy. Trong Ga 19, Chúa Cha không để cho thân xác Chúa Giêsu ra hư hoại do việc đánh gãy xương, vì nó cần phải nguyên vẹn để được phục sinh. Vào giờ chết, trong lúc Chúa Giêsu xem ra hoàn toàn bị ruồng rẫy, thì Chúa Cha không bỏ rơi Người : Gioan thích diễn đạt tư tường ấy (8, 29 ; 16, 32). Cái ý tưởng sự chết dẫn đến chiến thắng đó cũng nằm trong câu trích dẫn Dcr 12, 10. Bản văn hy bá nguyên thủy kém sáng sủa, nhưng câu trích dẫn trong Gioan không có gì mơ hồ. Các kẻ đâm Chúa Giêsu sẽ phải nhìn lên Người, như nhìn một vị chiến thắng, để đón nhận từ Người, từ cạnh sườn họ đã đâm thâu, ơn cứu độ nhờ nước và máu, biểu tượng của phép thanh tẩy và Thánh Thể.
Thành thử hai câu trích dẫn của Ga 19, 36- 37, điều hợp với nhau, hình như không đưa ta đến sự song đối kiểu mẫu với con chiên vượt qua; trái lại chúng ám chỉ tới khuôn mặt người Tôi tớ đau khổ và được tôn vinh nhờ nỗi khổ đau của mình.
“Đấng khử trừ “: Động từ Hy lạp airoin có nghĩa là nâng lên và do đó có nghĩa là mang lấy, gánh lấy trên mình hoặc mang đi, cất đi, làm biến đi. Ga thường sử dụng động từ theo nghĩa sau cùng (x. 2, 16 ; 5, 8- 12 ; 10, 18 ; 1 Ga 3, 5).
“Tội thế gian”: Kiểu nói số ít này nhắm toàn thể các tội lỗi của thế gian trong trương độ và hàm súc của chúng.
KẾT LUẬN
Cho đám đông tội lỗi mà ông đã dẫn đến chỗ ý thức các tội phạm của mình cùng ao ước một sự thanh tẩy đích thực mà phép rửa bằng nước của ông không thực hiện được, Gioan giới thiệu Chúa Giêsu như kẻ được chỉ định để ban ơn cứu độ thiêng liêng đích thực bằng cách thực hiện các sấm ngôn về người Tôi tớ khổ đau : “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội thế gian hay nói cách khác : đây là người Tôi tớ thời danh của Thiên Chúa, Đấng sẽ chấp nhận từ bàn tay Thiên Chúa, cách ngoan ngoãn và vô tội như một con chiên, mọi thử thách cần thiết để cứu rỗi các tội nhân.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Gioan Tẩy giả nói đến một người tên là Giêsu. Đấy chẳng có gì lạ lùng, mặc dù đức tin của ta vào Chúa Kitô thường hay bỏ quên mầu nhiệm nhập thể. Khi nghĩ tới Người, ta dễ hình dung ra một loại nhân vật thần thoại, không phải người cũng chẳng phải Thiên Chúa, hoàn toàn đứng riêng ra, thoát khỏi sự truyền nhiễm của tội ác, là do đấy được ưu đãi đến độ không còn gì chung với chúng ta nữa. Thế mà, khởi điểm của chứng tá ta nghe hôm nay chính là : con người Giêsu ấy đã được sinh ra từ một người nữ như bao kẻ khác, “đã được Thiên Chúa nắn đúc từ lòng mẹ” như Isaia xác định (49, 5), vì sự che chở đặc biệt không bớt đi tí gì thực tại nhân loại của Người. Nhưng con người ấy có một định mệnh đặc biệt : Isaia sẽ gọi Người là “Tôi tớ”. Gioan Tẩy giả còn cho Người tước hiệu lạ kỳ hơn : “Chiên Thiên Chúa”. Và ông làm điều ấy một cách cụ thể, rõ ràng : khi Chúa Giêsu đi qua, Gioan Tẩy giả chỉ Người mà bảo : “Đây là Chiên Thiên Chúa”.
2. Hai thành ngữ “Tôi tớ ” và “Chiên Thiên Chúa”, dù trông khác nhau, đều nói lên rằng Chúa Giêsu sẽ vừa là Đấng vô tội vừa bị con người trừng phạt như một tội nhân. Khi gọi Người như vậy, Isaia và Gioan Tẩy giả muốn công bố sự công chính, đức vâng phục lệnh Thiên Chúa và định mệnh hy lễ cứu chuộc của Người. Trong thư của ông, Phêrô sẽ nói “máu củaNgười châu báu như máu con chiên vô tật vô tì ” (1Pr 1, 19). Chúa Giêsu là người công chính sẽ trả nợ cho nhân loại, sẽ bị vây bắt, hành hạ và giết chết bởi những kẻ Người đến cứu vớt. Khi gọi Người như Con Chiên và Tôi tớ của Thiên Chúa, hai vị ngôn sứ đều muốn bảo Người là kẻ thừa kế, là kẻ thực hiện mọi lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.
3. Đó là điều Gioan Tẩy giả khám phá lúc bấy giờ khi giải thích cho ta hay làm sao ông đã “nhận biết” Chúa Giêsu. Dù là anh em họ, ông đã không biết Người trong chính thực thể của Người. Nhưng Chúa Thiên Chúa đã cho ông một dấu hiệu : “Ngươi thấy Thần khí đáp xut)ng và lưu lại trần ai, thì chính Người …”. Và Gioan đã tuyên bố : tôi đã thấy Thần khí, như một chim câu, từ trời đáp xuống và lưu lại trên Người . Rồi tiếp đó ông thản nhiên bảo: tôi đã thấy và xin đoan chứng: chính người là “Tuyển nhân của Thiên Chúa”. Việc mô tả Chúa Giêsu dần dà trở nên rõ hơn dưới sự linh ứng của Thiên Chúa: “Chúa Giêsu là Tuyển nhân của Thiên Chúa”. Về sau thánh Phaolô sẽ gọi Người là “Chúa chúng ta, Chúa của họ cũng như của chúng ta” (1Cr 1, 2). Kể từ lời khẳng quyết này, các từ ngữ không thể đi xa hơn nữa và trí óc của ta chỉ còn có thể tìm những tiếng tương đồng, những thành ngữ cắt nghĩa được nhiều hay ít những gì vừa nói mà thôi.
4. Chúa Giêsu là một con người, một ngươi công chính bị hiểu lầm, bị khai trừ và sau cùng bị giết bỏ ; và Đấng công chính ấy là Chúa của nhân loại. Đó là lời khẳng định chính yếu ban bố cho ta hôm nay, một lời khẳng định dị thường đến nỗi khó tưởng tượng rằng có một ai khác đã sáng tác ra, trừ phi được chính Thiên Chúa soi sáng.
5. Gioan Tẩy giả lại giải thích điều ấy trong một ngôn ngữ khá lạ lùng. Ông nói đến Đấng tới sau ông. Đó là Chúa Giêsu, trẻ hơn ông một chút, nhưng chưa ai biết tên tuổi, trong lúc ông, Gioan, đã nổi tiếng như cồn khắp xứ Palestine và đã thành công rực rỡ. Đấng ấy vượt lên trước ông, vì Người ngày càng trở nên quan trọng trong lúc ông, với nhiệm vụ giới thiệu Người, sắp dần dần lui vào bóng tối. Phải như vậy “vì Người đã có trước tôi”. Thành ra không phải nhờ nhân đức, quyền năng chữa bệnh hay tài hùng biện của Người, nhưng là nhân bản tính của Người vậy. Mặc dầu sinh sau Gioan, Chúa Giêsu đã hiện hữu trước ông. Gioan biết điều đó nhờ một ơn soi sáng đặc biệt và ông đã nói ra cho mọi người.
6. Gioan Tẩy giả dùng hai thành ngữ khác nhau để nói về sứ mệnh của Chúa Giêsu : “Người khử trừ tội thế gian” và “Người thanh tẩy trong Thánh Thần”. Người khử trừ, Người cất đi tội lỗi như thể đó là một gánh nặng, một chướng ngại. Ngôn ngữ của vị ngôn sứ này gởi lên hình ảnh Chúa Kitô đến thực hiện một cuộc giải phóng và cho thấy con người như thể bị giới hạn trong tư tưởng hay trong hành động bởi những trở ngại nặng nề cản ngăn họ đi đến cùng đích số mệnh. Vì thế Chúa Kitô đến cất đi các xiềng xích đang trói buộc trái tim con người trong ích kỷ, tham vọng, chai đá, nhục dục, ghen tương, oán hờn, thụ động. rồi “Người thanh tẩy trong Thánh Thần”. Chúng ta biết rằng hạn từ “thanh tẩy” có nghĩa là : dìm sâu.
Chúa Kitô sắp tái tạo con người bằng cách dìm nó trong Thần khí Thiên Chúa, bằng cách làm cho nó thấm nhuần Thánh Thần của Ngài. Nhờ vậy, con người sẽ được biến đổi một cách sâu xa ; ta có thể bảo rằng sở dĩ nó được cứu, là vì nó đã bị hủy tiêu và thay thế bằng một kẻ khác dầu sao vẫn tốt hơn chính nó.
7. “Phần tôi, tôi đã không biết Người “. Câu này giúp ta nhìn sâu vào định mệnh Gioan Tẩy giả . Vị Tiền hô đã làm việc, đã rao giảng một thời gian lâu dài, trong ý thức đơn sơ là vâng theo một sứ mạng, thế mà chẳng biết Đấng mình loan báo. Phải chăng đó là một trong những nét của ơn gọi đích thực? Ai có sứ mệnh dọn đường cho Chúa Kitô đến trong một tâm hồn, trong một môi trường, trong thế giới, đừng tưởng rằng mình sẽ biết chắc Chúa Ki-tô đứng đấy. Không! Phải nhẫn nại làm việc trong đức tin và để mặc Chúa chọn thời cơ thuận tiện để biểu lộ dấu chỉ của việc Thần khí đáp xuống. Nếu lòng trung thành nhẫn nại của Gioan Tẩy giả sau cùng đã được ân thưởng bằng thị kiến ở sông Giođanô, thì lòng trung tín của ta cũng sẽ được ân thưởng bằng một sự hiểu biết ngày càng sống thực hơn về Chúa, và sau cùng bằng thị kiến diện đối diện với Đấng mà chúng ta vẫn hằng mong gặp.