Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật 28 Thường Niên năm C
Ðược ơn cứu độ
được tình thương của Chúa Cứu Thế
(2V 5,14-17; 2 Tm 2,8-13; Lc 17,11-19)
ĐGM Bart. Nguyễn Sơn Lâm
Ðể chuẩn bị khánh nhật truyền giáo cử hành vào Chúa nhật sau, chúng ta sung sướng được nghe những bài Kinh Thánh hôm nay. Bài đọc sách Các Vua và bài Tin Mừng Luca rõ ràng nói đến hai người lương dân đã nhận được ơn của Chúa; còn trong bài thư Phaolô, chúng ta phải chắc chắn công nhận có lời tạ ơn Thiên Chúa đã ban Tin Mừng cứu độ cho lương dân.
Nhưng nếu Chúa muốn dùng chúng ta để cho lương dân nhận biết Người, thì Người cũng muốn dùng họ để thêm lòng tin cậy mến cho chúng ta. Thế nên những bài Kinh Thánh hôm nay không phải chỉ nói lên hành động của Chúa đối với dân ngoại; mà cũng muốn dạy bảo chúng ta thêm nhờ những hành động này. Bởi vì trước mặt Chúa mọi người đều liên đới và phải bổ khuyết cho nhau để làm nên thân thể hoàn toàn của Ðức Giêsu Kitô.
Chúng ta hãy lần lược đọc các bài Kinh Thánh để đón nhận mọi giáo huấn của Chúa.
1. Một Người Ðược Ðức Tin
Câu chuyện Naaman, người xứ Syri, đã được nhiều người biết. Thiết tưởng chẳng cần phải dài dòng thuật lại rằng: Ông là vị tướng chỉ huy toàn thể quân lực Syri, được vua Syri tín cẩn, nhưng lại mắc bệnh phong cùi. Nghe tin ở đất Giuđa có vị tiên tri nổi danh làm phép lạ. Ông xin thư vua Syri đến đất Do Thái để gặp nhà tiên tri. Êlisê bảo ông cứ xuống sông Hòa Giang tắm 7 lần thì sẽ được khỏi bệnh. Thoạt đầu ông không muốn nghe vì nghĩ sông Hòa Giang của Do Thái có gì sạch hơn sông ở Syri. Nhưng, sau nghĩ lại, ông đã vâng lời xuống sông tắm 7 lần và đã được sạch… đang khi ấy ở đất Do Thái có biết bao người bị phong cùi mà không được chữa khỏi như ông. Trường hợp của ông nói lên lòng thương – và phải nói là ưu ái nữa – của Thiên Chúa đối với lương dân.
Bài học hôm nay chỉ nhắc sơ đến việc Naaman được chữa lành. Những gì xảy ra sau đó mới là trọng tâm. Chúng ta thấy Naaman được sạch rồi đã cùng đoàn tùy tùng trở lại gặp nhà tiên tri. Ông nói: bây giờ tôi đã biết: trên khắp cả mặt đất chẳng có chúa nào khác ngoài Chúa của Israel.
Naaman đã bỏ tà thần để suy phục Thiên Chúa. Ông đã được đức tin sau khi được lành bệnh. Từ nay ông trở thành dân của Chúa. Và chắc chắn đức tin của ông dứt khoát, mạnh mẽ hơn nhiều người Do Thái. Ðể chứng tỏ niềm tin này, trước hết ông xin phép dâng chút lễ mọn cho nhà tiên tri, tức là người của Chúa, theo thông lệ thời bấy giờ. Không phải ông muốn cám ơn Êlisê vì đã chữa ông khỏi bệnh. Ý nghĩa gói ghém trong việc muốn dâng tặng lễ vật là để nói lên niềm tin Êlisê là tiên tri, tức là người của Chúa. Naaman muốn cư xử như mọi tín hữu. Những người này khi đến với các tiên tri vẫn dâng cho các ngài một chút lễ mọn để nói lên niềm tin công nhận và tôn trọng những người được Chúa chọn.
Êlisê từ chối. Có lẽ vì tế nhị, hoặc vì muốn người tân tòng hiểu đạo một cách thuần túy. Cũng có thể Êlisê muốn thử đức tin của Naaman, vì theo lời nói tiếp sau của ông này, chúng ta thấy Naaman có vẻ sợ nhà tiên tri chưa coi mình như là một tín hữu thường. Ông nói: “Nếu không, thì xin cho tôi chở về một xe đất cặp la kéo được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ cho một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa, Chúa của Israen”. Bởi vì theo quan niệm thời bấy giờ, đất nước nào thì thần linh ấy. Naaman đã tin Chúa của Israen thì phải thờ Ngài trên đất của Ngài. Ðất cát xứ Syri không xứng đáng với Ngài nữa vì là đất của dân ngoại và đã ra nhơ nhớp vì tà thần. Nay trở về quê quán, Naaman phải đem một ít đất Do Thái về để dựng bàn thờ mới trên đất ấy mà thờ phượng Thiên Chúa. Nếu Êlisê cho phép làm như vậy, Naaman mới chắc chắn nhà tiên tri đã tin mình và coi mình như tín hữu. Và vì thế lời xin của Naaman còn là một lời tuyên xưng đức tin chân chính.
Chúng ta phải cảm phục ông, cũng như chúng ta thường cảm phục đức tin của những người mới trở lại. Chúng ta thấy họ sau khi đã nhận biết Chúa thì thành khẩn muốn theo Chúa cho đến cùng. Họ muốn là những tín hữu một trăm phần trăm, khiến chúng ta, những người “đạo cũ, đạo dòng” phải suy nghĩ.
Câu chuyện Naaman và đức tin của ông đã được Ðức Giêsu nhắc lại để nêu gương cho môn đệ của Người. Chúng ta còn phải đọc đi đọc lại cũng với nhiều gương sáng khác để thấm thía những bài học mà Chúa muốn dùng lương dân để nói với chúng ta. Cũng trong chiều hướng đó, phụng vụ hôm nay còn muốn chúng ta đọc thêm đoạn Tin Mừng Luca.
2. Một Ðức Tin Tiến Bộ
Hôm ấy, Ðức Giêsu đang trên đàng đi lên Giêrusalem. Ðối với tác giả Luca, đây là cuộc hành trình đầy ý nghĩa. Ðức Giêsu đi lên Giêrusalem không phải chỉ để chịu chết mà đồng thời cũng là được vinh thăng. Do đó từ ngữ “đi lên” Giêrusalem đã được lựa chọn một cách tính toán và hữu ý. Ðây là một cuộc đi lên. Và như chính Ðức Giêsu nói, khi nào được “đưa lên”, Người cũng kéo tất cả lên với Người. Con đường đi lên Giêrusalem vì thế vừa là đàng để Chúa đi lên, và đồng thời cũng là đàng để chúng ta đi lên với Chúa là sự thật và là sự sống. Ðó là con đường của Kitô giáo, của hết thảy chúng ta khi muốn sống đạo.
Tác giả Luca còn xác định thêm, khi đã lên Giêrusalem, Ðức Giêsu và môn đệ của Người “đã ngang qua Samari và Galilê”. Nói rõ ra, thì Người đã không chọn một trong hai con đường thời bấy giờ dẫn từ Galilê xuống Giuđêa và đi qua Samari. Người đi con đường riêng khác với mọi người và lần theo bờ sông Hòa Giang; bởi vì Người muốn xuống Giuđêa trước rồi mới đi bọc lên để sau này Gioan có thể viết rằng: “Ơn giải thoát khơi nguồn tự Do Thái” (4,22). Nhưng Luca vẫn nhấn mạnh điều này, là khi còn sống, Ðức Giêsu đã tiếp xúc với dân Samari. Hơn nữa, Người còn ban đức tin cho dân này, dân mà Do Thái vẫn coi như dân ngoại và không đáng được vào sổ dân Chúa. Và như vậy Luca làm như vậy để phản đối mọi khuynh hướng chỉ muốn giữ đức tin cho người Do Thái. Theo người, chính Do Thái phải mở mắt ra mà xem công việc của Chúa làm nơi lương dân như câu chuyện người sắp kể.
Vậy, trên đường đi lên Giêrusalem, Ðức Giêsu vào một làng kia. Mười người phung cùi muốn đón gặp nhưng theo luật dạy chỉ dám đứng lại đàng xa. Họ là thành phần ô uế của xã hội, không được đến gần ai kẻo làm dơ nhớp người ấy. Nhưng họ tin Ðức Giêsu. Họ nghĩ Người có thể chữa họ khỏi bệnh. Thế nên họ cất tiếng thưa: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Ðối với họ, danh từ “Thầy” rất phong phú. Họ không nghĩ đến khả năng giáo huấn của Ðức Giêsu đâu. Họ trông chờ quyền năng ở nơi Người. Họ đã nghe nói Người làm nhiều phép lạ. Người là Thầy theo nghĩa ấy. Người là tiên tri của Chúa như Naaman đã nghĩ như vậy về Êlisê.
Ở đây, mười người phong cùi còn xưng đích danh Ðức Giêsu. Họ không sợ “phạm húy”. Họ muốn nói lên lòng tín nhiệm muốn kéo Người lại gần mình, như người trộm lành sau này cũng kêu tên Ðức Giêsu như thế để được chia phần số phận với Người, vì thực ra âm thầm họ ý thức được bệnh tình của họ chỉ có lòng thương xót của Thiên Chúa mới chữa được. Họ như nói lên niềm tin của dân Chúa đang trông chờ ơn cứu độ lòng Chúa thương xót, tức là nhờ Chúa là Ðấng thương xót.
Chắc chắn Ðức Giêsu đã coi lời họ xin là biểu thị lòng tin, nên bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Người bị bệnh phong cùi chỉ đi trình diện các tư tế khi đã khỏi bệnh để được các bậc nắm giữ pháp luật xác nhận là đã lành sạch. Bảo họ đi trình diện tức là Ðức Giêsu đã cam kết chữa họ. Thế mà Người chỉ làm phép lạ khi thấy lòng tin của người ta. Do đó Người đã chắc chắn về lòng tin của 10 bệnh nhân này.
Và quả thực, họ tin Người đến nỗi lập tức đã ra đi trình diện khi chưa thấy mình sạch. Ðó là niềm tin có thể dời núi chuyển non, như Lời Chúa đã hứa. Và thật vậy, trong khi họ đi họ đã được “sạch”, tức là được khỏi bệnh. Chúng ta cảm phục lòng tin của họ; nhưng thiết tưởng chúng ta phải kính yêu Chúa Giêsu hơn nữa. Người đã chữa 10 kẻ phong cùi khỏi bệnh dễ dàng như vậy và nhất là khiêm tốn như thế. Khác hẳn với những tên tự xưng là cao tay làm phép lạ nhưng thật sự chỉ là những tên bịp bợm. Nhưng chúng ta hãy trở về với 10 người phong cùi.
Cả bọn đã được sạch bệnh. Nhưng chỉ có một người lập tức quay đầu trở lại gặp Ðức Giêsu. Anh ta lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh gục mặt dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh làm một hành vi thờ phượng. Anh công nhận Ngài là Chúa. Trong khi 9 người kia đi đâu? Nghĩ rằng họ đã trở về nhà mình thì tệ quá. Tác giả Luca để cho chúng ta đoán. Tôi nghĩ họ đã tiếp tục đi trình diện các tư tế. Họ tiếp tục làm bổn phận của mình. Họ có đức vâng lời “tối mặt”.
Ðó là những ý nghĩ tốt nhất cho họ. Nhưng ở đây, những ý nghĩ đó vẫn không bào chữa được cho họ. Họ ích kỷ vì chỉ nghĩ đến mình, muốn cho mình được công nhận ngay để được sống như mọi người; đang khi lẽ ra thấy mình được sạch như vậy, họ phải nhận ra ơn Chúa, phải tạ ơn Người, phải trở lại nguồn mạch đã ban ơn cho mình. Há Chúa đã chẳng cho thấy Ngài mang ơn cứu độ đến sao? Ngài không đáng tìm đến hơn các tư tế vô vị kia sao?
Chỉ có một người đã nhận ra như vậy. Người ấy thấy rằng ơn cứu độ bây giờ ở nơi Ðức Giêsu. Người ấy trở lại thờ lạy Người. Ðền thờ Chúa chân thật từ nay không còn nằm nơi có tư tế đạo cũ nữa. Ðền thờ ấy bây giờ là chính Chúa Giêsu. Thành ra đã thực hiện Lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ xứ Samaria trong sách Tin Mừng Gioan: Ơn giải thoát khơi nguồn tự Do Thái… nhưng sẽ đến giờ – và là ngay bây giờ -, những kẻ thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần Khí và Sự Thật.
Việc một người trong số 10 người được khỏi bệnh trở lại thờ lạy Ðức Giêsu phải chăng muốn ám chỉ những điều ấy? Và người ấy lại là một người Samaria dị chủng duy nhất. Tác giả Luca đợi đến lúc này mới nói lên quốc tịch của người ấy. Chín người kia là Do Thái. Chúa Giêsu nói: “Không phải là cả 10 người được sạch ư? Chín người kia đâu?”. Có một màu sắc đau xót và phiền trách trong câu hỏi này. Nó nói lên lòng của tác giả Luca khi thấy Chúa mang ơn cứu độ đến cho cả Do Thái lẫn Hy Lạp, thế mà kìa xem dường như chỉ có dân ngoại chen vào nhà Chúa.
Chúa Giêsu bảo người kia để kết luận: “Hãy chỗi dậy mà đi. Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi”. Chúng ta tự nhiên muốn hỏi, phải chăng lời này ám chỉ rằng những người kia không được khỏi bệnh? Không chắc. Tôi dám nghĩ Chúa Giêsu đâu có hẹp hòi gì! Người chẳng cần rút lại một ơn đã ban. Nhưng có thân thể lành mạnh mà không được vào Nước Trời thì nào ích gì? Ðiều cốt yếu mà người Samaria kia đã được là “được cứu”, tức là được ơn cứu độ, được tình thương của Chúa cứu thế. Người bảo anh ta: Hãy chỗi dậy mà đi đi. Những từ ngữ này gợi đến mầu nhiệm phục sinh sống lại, chỗi dậy khỏi sự chết và đời sống cũ; và nhắc chúng ta nhớ đến việc Ðức Giêsu đang đi lên Giêrusalem để được vinh hiển. Ðó là con đường mà người Samari, tức là lương dân từ nay sẽ đi để sống đạo, sống đời sống Kitô hữu để theo Ðức Kitô đến vinh quang.
Tất cả những tư tưởng dồi dào này, chúng ta cần suy niệm thêm để thấy mình nơi người Samari có phúc kia. Chúng ta đã có đức tin. Nhưng đức tin này cần tiến bộ, mới cứu được chúng ta. Chín người Do Thái kia cũng đã có lòng tin khi kêu xin Chúa chữa và vâng lời đi trình diện các tư tế. Nhưng rồi đức tin của họ đã đi vào tập quán, suy nghĩ theo thói quen và không tỉnh thức nhận ra mạc khải mới của Chúa. Họ dùng đức tin để phục vụ mình nên họ đã quên và bỏ Chúa. Những người như họ cần đọc lại bài Tin Mừng hôm nay; và cũng có thể đọc thêm bài thư Phaolô, để dễ thấm thía thâm tín hơn.
3. Một Sự Tiến Bộ Không Nản Chí
Quả vậy, trong bài thư này thánh Phaolô nói đến lòng tin của người. Không những người đã tin Ðức Giêsu Kitô phục sinh từ kẻ chết và người hằng rao giảng Tin Mừng ấy cho lương dân để họ cũng được cứu chuộc; nhưng ngay lúc này đây, đang khi bị giam cầm tù tội như một kẻ gian phi, người vẫn không bớt niềm tin ấy. Ngược lại, lòng tin của người vẫn mạnh, vẫn tiến. Người chịu đựng tất cả những đau khổ hiện tại cho phần rỗi của những người được Chúa chọn. Tức là đang khi bị cầm tù, người vẫn làm tông đồ, người vẫn rao giảng đức tin bằng chính cách chịu đau khổ. Do đó người có thể viết: người bị cầm tù nhưng Tin Mừng của Ðức Kitô, lời cứu độ của Thiên Chúa chẳng hề bị cầm chân. Người nêu gương cho tất cả chúng ta luôn phải đưa đức tin đi xa hơn, làm cho đức tin ấy tiến bộ, ngay cả khi bị thử thách và chúng ta sẽ có thể nói như Phaolô ở một đoạn khác: tôi biết tôi đã tin vào ai?
Không phải chúng ta chỉ tin vào Thiên Chúa duy nhất như Naaman trong bài sách Các Vua; và cũng không phải chúng ta chỉ tin vào Ðức Giêsu có quyền làm phép lạ như 10 người bị bệnh phong cùi trong bài Tin Mừng, chúng ta tin Ðức Giêsu là Thiên Chúa như người Samari kia, và nhất là chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và sống lại vì ta như thánh Phaolô nói trong bài thư hôm nay. Do đó, dù khi có bệnh hay không có bệnh, dù được khỏi hay không được khỏi bệnh, dù bị rơi vào bất cứ hoàn cảnh rủi ro nào, chúng ta vẫn tin và vẫn rao giảng Chúa Giêsu Kitô. Người kết hiệp với chúng ta trong thánh lễ này. Người đưa chúng ta vào đường lối của Người để như Người đã đi lên mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh thế nào, chúng ta cũng chỗi dậy và đi với Người cho đến hạnh phúc muôn đời.