CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TIẾNG XIN VÂNG CỦA ĐỨC MARIA (*)– Chú giải của Lm Inhaxiô Hồ Thông 8
HIỆU LỰC CỦA KINH MÂN CÔI- Lm. Đan Vinh. 21
MẸ ĐẦY ƠN PHÚC- ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên. 31
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 36
KINH MÂN CÔI, LỜI KINH KỲ DIỆU- ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống. 41
BÀI HỌC QUAN TRỌNG CỦA KINH MÂN CÔI– Lm. Inhaxiô Trần Ngà 47
VIỆC ẤY SẼ XẢY RA CÁCH NÀO?- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 51
KINH MÂN CÔI VÀ ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN– Lm. Đaminh Đinh Viết Tiên 55
KINH MÂN CÔI GÓP PHẦN XÂY DỰNG NHÂN LOẠI MỚI– Lm. FX. Đào Trung Hiệu 61
MẸ MÂN CÔI- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 66
MẸ LUÔN HIỆN DIỆN- Lm. Giuse Phan Văn Quyền. 72
SỨC MẠNH KINH MÂN CÔI– Lm Giuse Nguyễn Nguyên. 77
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Họ kiên trì cầu nguyện cùng Bà Maria, Mẹ Chúa Giêsu”.
Sau khi Chúa Giêsu lên trời, các Tông đồ xuống khỏi núi gọi là Núi Cây Dầu mà trở về Giêrusalem, núi này ở gần Giêrusalem, bằng quãng đường được đi trong ngày sabát. Và khi đã trở vào thành, các ông lên lầu gác, nơi Phêrô và Gioan, Giacôbê và Anrê, Philípphê và Tôma, Batôlômêô và Mátthêu, Giacôbê con ông Anphê và Simon Giêlôtê, và Giuđa con ông Giacôbê, trú ngụ. Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria Mẹ Chúa Giêsu với các anh em Người.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc Bài Ðọc I: St 3, 9-15. 20
“Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa miêu duệ mi và miêu duệ người phụ nữ”.
Trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa đã gọi Ađam và phán bảo ông rằng: “Ngươi đang ở đâu?” Ông đã thưa: “Con đã nghe thấy tiếng Ngài trong vườn địa đàng, nhưng con sợ hãi, vì con trần truồng và con đang ẩn núp”.
Chúa phán bảo ông rằng: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi không được ăn ư?” Ađam thưa lại:”Người phụ nữ Chúa đã cho làm bạn với con, chính nàng đã cho con trái cây và con đã ăn”. Và Thiên Chúa phán bảo người phụ nữ rằng: “Tại sao ngươi đã làm điều đó?” Người phụ nữ thưa:”Con rắn đã lừa dối con và con đã ăn”.
Thiên Chúa phán bảo con rắn rằng: “Bởi vì mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người”.
Và Ađam đã gọi tên vợ mình là Evà: vì lẽ bà là mẹ của chúng sinh.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8
Ðáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Ðấng Cứu độ tôi
Xướng: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôi được gia tăng trong Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa cứu độ tôi.
Xướng: Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải héo tàn.-
Xướng: Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa dẫn ra. Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng lên cao.
Xướng: Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi báu vinh quang.
Bài đọc II: Gl 4,4-7
“Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ”
Anh em thân mến,
Khi đã tới lúc thời gian đầy đủ, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Lề Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Lề Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng: “Abba”, nghĩa là Lạy Cha. Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ, nhưng là con, mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc Bài Ðọc II: Rm 5, 12. 17-19
“Nơi nào tội lỗi đầy tràn, thì Người ban ơn thánh dư dật”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền đến mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Vì nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Ðức Giêsu Kitô. Do đó, tội của một người truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, thì đức công chính của một người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 1, 28
Alleluia, alleluia! – Kính chào Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ; Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 26-38
“Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”. Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Ðó là lời Chúa.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
TIẾNG XIN VÂNG CỦA ĐỨC MARIA (*)– Chú giải của Lm Inhaxiô Hồ Thông
Trong ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi, Phụng Vụ Lời Chúa nêu bật Tình Mẫu Tử của Đức Ma-ri-a. Chính ở nơi Tình Mẫu Tử của Đức Ma-ri-a mà Chúa Cha đã trao phó “Con Một làm người” của Ngài cho Mẹ để Mẹ nuôi dưỡng và săn sóc. Và cũng chính nơi Tình Mẫu Tử nầy mà Đức Giê-su đã trao phó cho người Mẹ tuyệt vời của Ngài ân cần chăm lo Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngài, tức Giáo Hội mà Ngài đã mang nặng đẻ đau trên thập giá (Ga 19: 25-37).
Mỗi lần chúng ta lần tràng chuổi Mân Côi là mỗi lần chúng ta chiêm ngắm Tình Mẫu Tử tuyệt vời nầy ở nơi niềm vui thầm lặng nhưng sâu thẳm của Mẹ khi đón nhận Người Con mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ (Năm Sự Vui), ở nơi sự kết hợp của tình Mẹ với Con trên con đường khổ nạn (Năm Sự Thương), và ở nơi niềm vui vỡ òa của Mẹ khi Mẹ gặp lại Con Mẹ phục sinh để từ nay sự sống đã chiến thắng sự chết, vận mệnh của con người đã sang trang (Năm Sự Mầng).
Cv 1: 12-14
Sau khi chứng kiến Đức Giê-su lên trời, các Tông Đồ theo lời căn dặn của Thầy trở về nhà ở Giê-ru-sa-lem: “Các ngài đã đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Đức Ma-ri-a thân mẫu của Đức Giê-su”. Ngay từ những bước khởi đầu của Giáo Hội tiên khởi, Đức Ma-ri-a đã ở bên Giáo Hội với trọn tấm lòng hiền mẫu.
Gl 4: 4-7
Khi viết: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”, thánh Phao-lô nhấn mạnh Con Thiên Chúa đã thực sự đảm nhận trọn vẹn thân phận con người. Lời nầy được đọc trong ánh sáng của Tin Mừng Truyền Tin hôm nay mặc khải rằng Con Thiên Chúa không sinh ra bởi bất kỳ một người đàn bà nào, nhưng là một người đàn bà được tuyển chọn, một Tình Mẫu Tử được viết hoa, kiệt tác của công trình sáng tạo nên người nữ.
Lc 1: 26-38
Tin Mừng là bài tường thuật biến cố Truyền Tin. Nơi Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Đền Thờ đẹp nhất, được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 12-14)
Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy được định vị vào trong bối cảnh: sau khi chứng kiến việc Đức Giê-su khuất dạng trong đám mây trời, các Tông Đồ liền trở về Giê-ru-sa-lem. Các ông tề tựu một nơi và chuyên tâm cầu nguyện trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến như lời căn dặn của Thầy mình trước khi từ giả các ông: “Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
*1.Trở về nhà, các Tông Đồ lên lầu trên:
Căn phòng được định vị ở lầu trên. Lầu trên thường là căn phòng chính trong nhà Do thái, chắc hẳn đây là phòng Tiệc Ly, nơi các ông đã dùng bữa ăn cuối cùng với Đức Giê-su. Như vậy nơi mà Đức Giê-su cử hành Thánh Lễ đầu tiên với các ông trước khi Ngài bước vào con đường Tử Nạn, cũng là nơi các ông chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần, Đấng đưa các ông vào trong sự thật công trình cứu độ của Thầy mình.
*2.Tất cả mười một Tông Đồ đều hiện diện ở đó:
Việc kể tên mười một Tông Đồ nêu lên một nét đặc thù đáng chú ý. Trong các sách Tin Mừng, thánh Phê-rô và thánh An-rê được nêu tên trước tiên. Ở đây lại là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Sách Công Vụ giới thiệu hai vị Tông Đồ nầy như hai trụ cột của Giáo Hội tiên khởi, thường xuyên hoạt động cùng nhau.
*3.Chuyên tâm cầu nguyện:
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Thánh Lu-ca thường nhấn mạnh các tín hữu tiên khởi đồng tâm nhất trí và siêng năng cầu nguyện. Các Tông Đồ làm Tuần Cửu Nhật giữa biến cố Thăng Thiên và biến cố Hiện Xuống.
*4.Mấy người phụ nữ cùng với Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su:
Trong số những người phụ nữ tề tựu với các Tông Đồ, chỉ một mình Đức Mẹ được nêu tên, trong mối liên hệ với Đức Giê-su: “Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su”. Đây là lần cuối cùng trong Tân Ước Đức Trinh Nữ được kể ra. Sau biến cố nầy, Mẹ sẽ không còn xuất hiện nữa, người ta không còn nói gì về Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ ở đây, giữa các Tông Đồ, là một dấu chỉ mang một tầm mức vĩ đại. Mẹ đã ban cho nhân loại thân thể hữu hình của Đức Ki-tô dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần vào lúc Truyền Tin; Mẹ cũng có mặt ở đây vào lúc sinh hạ thân thể mầu nhiệm của Đức Giê-su, tức Giáo Hội, cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện Xuống.
Chúng ta có thể phỏng đoán rằng những người phụ nữ ở bên cạnh Đức Ma-ri-a cũng chính là những người phụ nữ đã ở bên cạnh Đức Mẹ gần bên Thánh Giá. Sự hiện diện của những người phụ nữ nầy gợi nhớ hoạt cảnh trên thánh giá ở đó Đức Giê-su đã trao gởi Giáo Hội của Ngài cho Mẹ Ngài làm Mẹ Giáo Hội của Ngài khi nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà”, và khi nói với người môn đệ Chúa yêu: “Đây là mẹ của con” (Ga 19: 26-27).
*5.Anh em của Đức Giê-su:
Cùng có mặt với các Tông Đồ là “anh em” của Đức Giê-su, nghĩa là những anh em họ của Ngài. Ngôn ngữ Do thái cũng như ngôn ngữ Hy-lạp đều không có đặc ngữ để chỉ mức độ bà con thân thuộc nầy. Cựu Ước sử dụng cùng một từ “anh em” để chỉ mối liên hệ bà con họ hàng rộng lớn hơn: chú cháu (St 13: 8; 14: 14; 14: 16) hay bà con gần (G 19: 13-17) hoặc thậm chí bà con họ hàng xa (x. Lv 10: 1). Trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô kể ra bốn người anh em họ của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, ông Giô-xết, ông Giu-đa và ông Si-môn (Mc 6: 3).
Sự hiện diện của những bà con thân thuộc của Đức Giê-su ở phòng Tiệc Ly vào lúc nầy chứng thực thái độ của họ đã thay đổi đối với Đức Giê-su. Trước đây, thánh Gioan nói “Anh em Người không tin vào Người” (Ga 7: 5); thậm chí họ không hiểu chút gì về sứ mạng của Ngài và cố tìm cách ngăn cản Ngài thi hành sứ mạng của mình nữa (x. Mt 12: 46; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).
Họ đã thay đổi thái độ lúc nào? Các bản văn Tân Ước không cho chúng ta bất kỳ một thông tin nào. Chắc chắn họ sắp lãnh nhận Chúa Thánh Thần như các Tông Đồ và họ sẽ cho thấy niềm tin tích cực của họ. Thánh Gia-cô-bê hậu sẽ là vị lãnh tụ của Giáo Hội Giê-ru-sa-lem và được phúc tử đạo vào năm 62. Như vậy, những người bà con nghi kỵ xưa kia đều đã là những chứng nhân bằng máu.
BÀI ĐỌC II (Gl 4: 4-7)
Các Ki-tô hữu Ga-lát bị những người Ki-tô hữu gốc Do thái làm lung lạc. Những người Ki-tô hữu gốc Do thái nầy muốn đưa vào trong Ki-tô giáo những nghi thức Do thái được cho là luôn luôn có giá trị, như phép cắt bì, luật Mô-sê. Vì thế, thánh Phao-lô chứng minh cho thấy Luật Cũ là sự nô lệ, Luật mới là sự tự do. Thánh nhân sánh ví Luật Mô-sê với thời kỳ người thừa kế “phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định” (Gl 4: 2). Tuy nhiên, vai trò của Luật là tạm thời. Với Đức Giê-su, kế hoạch của Thiên Chúa đã đến hồi viên mãn, chúng ta không còn phải sống dưới chế độ của Lề Luật nữa, nhưng trong sự tự do của những người làm con cái Thiên Chúa, mà đã là con thì cũng đã là người thừa kế.
*1.Con Thiên Chúa làm con của loài người (4: 4-5):
Thánh Phao-lô so sánh sự bảo hộ của lề luật (Gl 4: 2) với thời điểm khi Thiên Chúa can thiệp vào trong lịch sử để thực hiện công trình cứu độ qua Con của Ngài là Đức Giê-su: “Khi thời gian đến hồi viên mãn”. Sự tự do của con người đã đạt được nhờ Đức Ki-tô.
Ở nơi kiểu nói: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới”, động từ “sai” phát triển trong Giáo Hội tiên khởi một nét nghĩa tôn giáo đặc thù: sai ai vào việc phục vụ Nước Trời là ban cho người đó đầy đủ uy quyền ở nơi Thiên Chúa.
Ở đây cuộc sống tiền hữu của Chúa Con không được nói đến một cách minh nhiên, nhưng mặc nhiên. Ở nơi kiểu nói: “Sinh làm con một người đàn bà”, động từ “sinh” được dùng ở thể quá khứ để chỉ một “tình trạng hay một hành động đã xảy ra trong quá khứ và hoàn tất trong quá khứ”, nhằm nhấn mạnh rằng Đức Giê-su đã đảm nhận trọn vẹn thân phận làm người cho sứ mạng của Ngài. Cách nói nầy bắt nguồn từ Cựu Ước (G 14: 1; 15: 14; 25: 4). Được sinh ra như vậy, Đức Giê-su chịu phục tòng lề luật “để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.
*2.Để con người trở thành con Thiên Chúa (4: 6-7):
Câu nói: “Để chứng thực anh em là con cái”, bắt đầu với giới từ “hoti” có thể được hiểu theo hai cách: “vì” (nguyên nhân) hay “nên” (kết quả). Nếu chúng ta hiểu “vì anh em là con cái”, điều này sẽ là nền tảng cho việc Thiên Chúa sai Thánh Thần đến với người Ki-tô hữu một cách nhưng không. Tuy nhiên, Rm 8: 14-17 xem ra gợi ý rằng ân ban Thánh Thần cấu thành chức năng làm con cái Thiên Chúa của người Ki-tô hữu; vì thế nhiều nhà chú giải thích hiểu giới từ nầy theo nghĩa “nên anh em là con cái” hơn.
Thánh Thần cũng là đối tượng sứ mạng từ Chúa Cha; ở nơi khác, Thánh Thần chính là ân ban của Chúa Con Phục Sinh. Thánh Thần của Chúa Con Phục Sinh là một nguyên lý năng động của chức năng làm con Thiên Chúa. Nhờ Thánh Thần, người Ki-tô hữu mới có thể gọi Thiên Chúa “Áp-ba, Cha ơi!” với trọn niềm xác tín. Không có Thánh Thần người Ki-tô hữu sẽ không thể thốt lên tiếng kêu đầy trìu mến thân thương nầy. Vì thế, thánh Phao-lô kết luận: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38)
Sự kiện Ngôi Lời nhập thể tạo nên mối liên hệ sâu thẳm nhất giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Con Thiên Chúa trở thành phàm nhân và sẽ mãi mãi như vậy. Đó là tinh Chúa yêu thương trải rộng cho đến tất cả chúng ta. Tuy nhiên vào ngày Ngôi Hai Thiên Chúa đảm nhận nhân tính mõng dòn trong cung lòng thanh sạch của Đức Trinh nữ Ma-ri-a, tất cả đã xảy ra một cách nhanh chóng, không bất kỳ nghi lễ nào. Thánh Lu-ca kể câu chuyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a hết sức giản dị. Chúng ta nên trân trọng gìn giữ những lời Thiên Chúa này và thường hằng suy niệm chúng, chẳng hạn như đọc kinh Truyền Tin và suy niệm Năm Sự Vui.
*1.Bối cảnh (1: 26-27):
Thánh Lu-ca dàn dựng hai chuyện tích “Truyền Tin” thành bức tranh bộ đôi đối xứng nhưng tương phản. Chuyện tích “Truyền Tin cho ông Da-ca-ri-a” xảy ra trong bầu khí Phụng Vụ thánh thiêng tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem khi ông đang thi hành tác vụ Tư Tế của mình. Chuyện tích “Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a” xảy ra khi Mẹ đang làm những công việc thường ngày của mình tại tư gia thuộc làng quê Na-da-rét hẻo lánh nghèo nàn. Tư tế Da-ca-ri-a cao niên, đại diện Cựu Ước, đón nhận tin vui: ông được Thiên Chúa chọn làm cha của Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ giao thoa giữa Cựu Ước và Tân Ước. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trẻ trung, đại diện Tân Ước, đón nhận tin vui: Mẹ được chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, nơi Ngài Thiên Chúa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã mô tả dáng vẻ bên ngoài giản dị, nhưng đời sống đức tin sâu thẳm của Mẹ: “Mẹ làm những việc tầm thường cách phi thường” (“Faire des choses ordinaires d’une manière extraordinaire”).
*2.Cuộc đối thoại giữa Sứ Thần và Đức Trinh Nữ Ma-ri-a (1: 28-37):
Trong hai câu chuyện “Truyền Tin”, điều căn bản là cuộc đối thoại trong đó sứ điệp cốt yếu được trao ban, còn phần hình ảnh cho thấy bị giới hạn chặt chẽ vào sứ điệp này. Cuộc đối thoại được dùng để trao ban Mặc Khải trong khi phần hình ảnh được dùng chỉ để chuyển tải Mặc Khải.
A.Mặc khải về nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su (1: 28-33):
Cuộc đối thoại bắt đầu với lời chào của sứ thần, ca ngợi những ân phúc mà Thiên Chúa ban cho Mẹ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nhưng lời chào này thật khác thường, người Do thái thường chào nhau: “Bình an”, như Chúa Giê-su Phục Sinh chào các môn đệ: “Bình an cho anh em” (Ga 20: 19). Vì thế, Mẹ thắc mắc muốn biết lời chào ấy có nghĩa gì.
Câu hỏi này là dịp để sứ thần mặc khải nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su bằng cách nhắc cho Mẹ nhớ lại những sấm ngôn của các ngôn sứ thời xưa, đặc biệt là sấm ngôn của ngôn sứ Na-than, về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít mà Thiên Chúa sẽ ban ngai vàng và triều đại vô cùng vô tận.
A.Mặc khải về nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su (1: 34-37):
Vốn thông thạo Kinh Thánh, Đức Ma-ri-a nhận ra rằng Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đấng Mê-si-a, Đấng mà dân tộc cô đang mong đợi. Nhưng theo Kinh Thánh, lời Thiên Chúa cũng là sự kiện và biến cố mà lời ấy diễn tả. Ấy vậy, hiện nay Mẹ vẫn đồng trinh, chưa chung sống với vị hôn phu tương lai của Mẹ, vì thế Mẹ nêu lên câu hỏi:“Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng”.
Vấn nạn này tạo cơ hội cho sứ thần mặc khải cho Mẹ biết nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su mà Mẹ được diễm phúc làm mẹ. Câu trả lời của sứ thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (1: 35) gồm ba vế, qua mỗi vế sứ thần sẽ mặc khải dần dần nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su.
-Vế thứ nhất: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” gợi nhớ bài trình thuật của sách Sáng Thế, theo đó Thánh Thần bay lượn trên mặt nước đem lại sự sống cho muôn loài muôn vật (St 1: 2), giờ đây Ngài ngự xuống trên Đức Trinh Nữ Ma-ri-a để tạo nên hình hài con trẻ trong cung lòng trinh khiết của Mẹ. Vì thế, việc Đức Ma-ri-a thụ thai và sinh con là do quyền năng Chúa Thánh Thần chứ không do sự can dự của nam nhân.
-Vế thứ hai “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” gợi nhớ hình ảnh “đám mây rợp bóng” trên Lều Hội Ngộ (Xh 40: 35) hay Hòm Bia Giao Ước (Ds 9: 18; 10: 34). Hình ảnh đám mây là dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện vừa bất khả đạt vừa hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Qua kiểu nói này, sứ thần sánh ví Đức Ma-ri-a với Lều Hội Ngộ hay Hòm Bia Giao Ước, nơi Thiên Chúa sẽ ngự đến và hiện diện vừa siêu việt vừa gần gũi giữa dân Ngài nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, quyền năng Đấng Tối Cao.
-Về thứ ba: “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” là câu kết luận được rút ra từ hai vế trên. Sứ thần khẳng định rằng người Con mà Đức Trinh Nữ sinh ra không là Nghĩa Tử của Thiên Chúa, nghĩa là một hậu duệ của vua Đa-vít được Thiên Chúa chọn và ban cho vương quyền của vua Đa-vít, nhưng là “Đấng Thánh”. Vì thế, Người đích thực là Con Thiên Chúa nhập thể hoàn toàn do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Để bảo đảm tính xác thực sứ điệp của mình, sứ thần còn cho Đức Ma-ri-a một dấu chỉ: bà Ê-li-sa-bét, người chị họ của Mẹ, vốn là son sẻ và cao niên nay đã có thai. Dù cho một dấu chỉ, nhưng sứ thần biết rất rõ việc một người mẹ đồng trinh thụ thai và sinh hạ một người con chưa bao giờ xảy ra ngay cả trong lịch sử cứu độ. Điều này hoàn toàn khác với trường hợp của ông Da-ca-ri-a, chồng của bà Ê-li-sa-bét, ông biết rõ trường hợp của Áp-ra-ham giống như trường hợp của ông. Vì thế, để thuyết phục Mẹ, sứ thần viện dẫn quyền năng của Thiên Chúa: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
*3.Tiếng Xin Vâng của Đức Ma-ri-a (1: 38):
Đến lúc này, dù không thể nào hiểu tường tận công việc khôn dò của Thiên Chúa, Mẹ đã đáp trả với trọn niềm tin tưởng và phó thác: “Vâng, tôi đây là tớ nữ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Đức Ma-ri-a là khuôn mẫu cho bất kỳ cuộc đối thoại nào giữa Thiên Chúa và con người. Về phía Thiên Chúa, Ngài đã hoạch định một chương trình dài lâu để cứu độ loài người. Tuy vậy, khi đến hồi viên mãn, Ngài cần đến sự ưng thuận của Đức Ma-ri-a, nhưng không ép buộc, mà ngỏ lời, đề nghị, mời gọi Mẹ cộng tác với Ngài vào công trình này. Điều này cho thấy Ngài tôn trọng sự tự do của con người mà Ngài đã tạo nên như tuyệt đỉnh công trình tạo dựng của Ngài khi ban cho con người khối óc và con tim. Ngài mời gọi con người biết sử dụng khối óc để hiểu biết và con tim để yêu mến. Vì thế, Ngài đã gặp thấy ở nơi Đức Ma-ri-a lời đáp trả xin vâng tròn đầy của cả khối óc lẫn con tim của Mẹ. Rất nhiều điều con người tưởng không thể làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Người đã làm cho bà Ê-li-sa-bét hiếm muộn và cao niên mà có thể sinh con, Người có thể làm cho Đức Ma-ri-a sinh hạ Đấng Cứu Thế mà vẫn đồng trinh. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Người hoạt động trong chúng ta.
Về phía Đức Ma-ri-a, lời xin vâng của Đức Ma-ri-a là kết quả của một cuộc đối thoại cởi mở, trong đó Mẹ đã thẳng thắn nêu lên những gì Mẹ không hiểu mà không một chút sợ hãi, cho đến khi chạm đến mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa vượt quá khả năng hiểu biết của Mẹ. Chỉ khi đó Mẹ mới đáp trả xin vâng tròn đầy niềm tin tưởng và phó thác của mình vào quyền năng của Chúa. Công Đồng Vatican II đã ca ngợi tiếng xin vâng của Mẹ: “Đức Ma-ri-a không phải chỉ là một dụng cụ hoàn toàn thụ động trong tay Thiên Chúa, nhưng đã cộng tác tích cực vào việc cứu độ nhân loại, nhờ tin và vâng phục trong tự do” (LG, 56).
Để kết thúc bài chia sẻ hôm nay, xin mượn lời của thánh Escriva: “Ở nơi Đức Ma-ri-a chúng ta không gặp thấy bất kỳ dấu vết của các trinh nữ khờ dại, họ vâng lời mà không suy nghĩ. Đức Ma-ri-a chăm chú lắng nghe những gì Thiên Chúa muốn, trăn trở với những gì Mẹ không hiểu và hỏi cho ra lẽ những gì Mẹ không biết. Sau đó Mẹ phó thác hoàn toàn vào ý muốn của Thiên Chúa: ‘Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói’. Đó không là kỳ diệu sao? Lạy Đức Trinh Nữ, thầy dạy của chúng con trong tất cả những gì chúng con làm, xin hãy chỉ cho chúng con biết rằng vâng phục Thiên Chúa không là quỵ lụy, không tránh né tiếng nói lương tâm của mình. Chúng con phải đi vào trong lòng mình để khám phá ‘sự tự do của con cái Chúa’ (x. Rm 8: 21)” (Bl. J. Escriva, Christ is passing by, 173).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
HIỆU LỰC CỦA KINH MÂN CÔI- Lm. Đan Vinh
Ý chính:
Câu chuyện Sứ thần Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Trinh nữ Maria giúp chúng ta nhận biết tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong việc thực hiện lời hứa cứu độ loài người. Thiên Chúa luôn đi bước trước bằng việc ban ơn cứu độ và muốn cho loài người đón nhận ơn ấy. Qua câu chuyện truyền tin hôm nay, thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin vâng” của Đức Maria chính là thái độ mà các tín hữu phải làm khi đọc kinh lần hạt trong tháng Mân Côi này
Chú thích:
– C 26-27:
* Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng: Cách đây sáu tháng, ông Da-ca-ri-a đã được Sứ thần Gáp-ri-en hiện đến truyền tin khi ông đang thi hành chức vụ tư tế trong Đền thờ. Sứ thần hứa với ông rằng bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai. Sứ mệnh của nó là dọn đường cho Đấng Thiên Sai.. Quả vậy, bà Ê-li-sa-bét đã có thai trong lúc tuổi già. Bà đã ở trong nhà không tiếp xúc với ai suốt 5 tháng trời (x. Lc 1,5-25). Đến tháng thứ sáu thì Sứ thần Gáp-ri-en tiếp tục được sai đến truyền tin cho Trinh nữ Maria.
* Gáp-ri-en: Là một trong bảy Tổng lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 10,13-21;12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (x. Đn 8,16).
* Trinh nữ: hay thiếu nữ, là một cô gái chưa lấy chồng. Riêng về đức trinh khiết của Đức Maria đã được gián tiếp đề cập đến qua câu ngài thưa với Sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Theo lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a thì: Việc một hài nhi do một bà mẹ đồng trinh thụ thai là dấu chỉ của Đấng Thiên Sai (x. Is 7,14).
* đã đính hôn: khi đính hôn, Giu-se và Maria đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này là con chính thức. Tuy nhiên, theo phong tục Do thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi bên họ đàng trai tổ chức lễ cưới đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18).
* thuộc nhà Đa-vít: chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, để ứng nghiệm lời các Ngôn sứ đã báo trước như: Người phát xuất từ gốc tổ phụ Giêsê là cha của vua Đa-vít (x.1 Sm 16,3.12); Người sẽ sinh ra tại Bê-lem là quê hương của vua Đa-vít (x. mk 5,1).
* Maria: hay mi-ry-am là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt khi trùng tên, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Maria Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Maria Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Maria mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Maria vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Maria mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và Trinh nữ Maria thân mẫu Đức Giêsu (x. Ga 19,25).
– C 28-29:
* “mừng vui lên”: Đây không phải là kiểu chào thông thường của người Do thái, nhưng là lời chào trong những trường hợp đặc biệt, dành riêng cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9).
* “đầy ân sủng”: một tước hiệu dành riêng cho Maria, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội và được Chúa luôn ở cùng.
* “Bà bối rối và tự hỏi”: khác với thái độ “bối rối sợ hãi” của Dacaria (x. Lc 1,12), Maria chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩa của Lời Chúa vừa được Sứ thần mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
– C 30-33:
* Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu: Sứ thần giải thích cho Maria biết về sứ mệnh làm mẹ của Hài nhi Giêsu. Giêsu nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay là “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11).
* “Con Đấng Tối Cao”: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các vị vua dòng tộc Đa-vít. Sứ thần ám chỉ Đức Giêsu là Vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ lên ngôi cai trị dân Ít-ra-en, và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi.
– C 34:
* so sánh thắc mắc của Maria với thắc mắc của Dacaria (x. Lc 1,18): Tuy cả hai cùng đưa ra câu hỏi, nhưng phát xuất từ hai tâm trạng khác nhau: câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt câm, không nói được. sự cấm khẩu này là dấu chỉ cho ông thấy việc bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh con là điều chắc chắn sẽ xảy ra (x. Lc 1,20). còn lời thắc mắc của Maria thì biểu lộ lòng tin: Maria muốn tìm biết rõ thánh ý Chúa thế nào để xin vâng. do đó, Maria đã được Sứ thần ca tụng là đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và bà Ê-li-sa-bét cũng khen ngợi Maria là người “diễm phúc” vì đã tin Lời Chúa phán sẽ được thực hiện (x. Lc 1,45).
* “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến người nam!”: “biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Thắc mắc của Maria ở đây không chứng minh Maria đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh, vì động từ “biết” ở đây thì hiện tại. Qua câu này, Maria chỉ thắc mắc là: làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay bây giờ được, khi mà Maria mới chỉ đính hôn với Giu-se để nên vợ chồng về luật đời, chứ chưa được Giu-se tổ chức lễ cưới đón rước về nhà chồng như phong tục Do thái?
– C 35:
* Sứ thần giải thích cho Maria hiểu rằng: Vì được Chúa tuyển chọn để làm mẹ Đấng Thiên Sai, nên Maria sẽ được thụ thai cách đặc biệt nhờ quyền năng Thánh Thần, đúng như I-sai-a đã tuyên sấm về việc Đấng Cứu Thế sẽ do một trinh nữ thụ thai và sinh hạ (x. Is 7,14).
* “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”: Kiểu nói “rợp bóng” nhắc lại sự kiện xảy ra vào thời Xuất hành, khi dân Do thái đi trong hoang địa trên đường về Đất Hứa. Bấy giơ Đức Chúa luôn hiện diện ở giữa dân Người, qua hình ảnh của một cột mây rợp bóng che phủ nhà tạm và lều hội ngộ (x. Xh 40,34-38). Rợp bóng cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa. Như chim phượng hoàng giang rộng đôi cánh để bao phủ che chở đàn chim con, thì Thiên Chúa cũng giang rộng tay hùng mạnh để bang trợ Ít-ra-en là con dân của Người (x. Tv 17,8).
* “Đấng thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Hài nhi sắp sinh sẽ được hiến “thánh”, được dâng cho Thiên Chúa để chu toàn sứ mệnh cứu thế.
– C 36-37:
* kìa Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Để cho Maria thấy quyền năng cao cả của Thiên Chúa, Sứ thần đã báo cho Maria biết tin về bà chị họ Ê-li-sa-bét: tuy đã cao niên và hiếm hoi, thế mà cũng đã được Thiên Chúa cho thụ thai con trai, đến nay thai nhi đã được sáu tháng rồi.
– C 38:
* “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Maria đã biểu lộ một nhân đức khiêm nhường và một lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa.
* “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”: Qua câu này, Maria đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ do Thiên Chúa ban. Thực vậy, ngay sau lời thưa “xin vâng” này, Thánh Thần đã tác động làm cho Trinh nữ Maria thụ thai mà không cần phải tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy để thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giêsu chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính là Thiên Chúa và người phàm.
*4. Câu hỏi:
– Gio-an Tẩy Giả hơn Đức Giêsu bao nhiêu tuổi?
Thánh kinh kể tên 3 vị Tổng lãnh thiên thần là những vị nào? Tên gọi của mỗi vị có nghĩa thế nào?
– Câu nói nào của Đức Maria cho thấy ngài là thiếu nữ đồng trinh? Tại sao phải nhấn mạnh đến sự kiện đồng trinh trong việc Đức Maria thụ thai Hài Nhi Cứu Thế Giêsu?
– Việc kết hôn giữa thánh Giu-se và Đức Maria làm cho hai người nên vợ chồng thật hay chỉ là vợ chồng giả để che mắt người đời?
Tin Mừng muốn ám chỉ gì khi viết Giu-se “thuộc nhà Đa-vít”?
* Hãy kể ra một số tên gọi Maria trong Tin Mừng kèm theo tên phụ. Thêm tên phụ sau tên gọi như vậy nhằm mục đích gì?
* Khi chào kèm tước hiệu “đầy ân sủng” của Sứ thần nhằm ám chỉ đặc ân nào trong 4 đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Maria? 8-Tên gọi Giêsu mà Sứ thần ra lệnh cho Maria đặt cho con trẻ mang ý nghĩa thế nào?
* Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được gán cho Hài nhi Giêsu nghĩa là gì?
* Thắc mắc của ông Da-ca-ri-a trong Đền thờ (x Lc 1,18) và thắc mắc của Maria trong Tin Mừng hôm nay có giống nhau không? Ông Da-ca-ri-a và Đức Maria đã gặp sự cố gì sau lời thắc mắc?
** Khi nói “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”, Sứ thần muốn ám chỉ điều gì?
** Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể xảy ra vào lúc nào trong biến cố Truyền tin?
*II. SỐNG LỜI CHÚA
*1. Lời Chúa: Bấy giờ Bà Maria nói: ”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46.49).
Câu chuyện:
Đức tin của Phun-tơn Ao-dơ-lơ (fulton Oursler):
Vào một buổi chiều đông lạnh giá, Phun-tơn, một người đã mất đức tin và bỏ không đến nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. khi đi qua đại lộ nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông vào trong nhà thờ và đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Phun-tơn cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Maria, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ lúc này để tiếp tục bài bác chế diễu việc đạo đức con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang gặp rất nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm đức tin”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều gì đó kỳ diệu vừa xảy ra nơi ông và biến ông trở thành một người mới: Ông đã có đức tin! Từ đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Maria để làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái.
*3. Suy niệm:
– Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta một Đấng Cứu Độ duy nhất là Chúa Giêsu. Nhưng bên cạnh Đức Giêsu, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta một bà mẹ hiền đầy tình thương và tích cực cộng tác với Đức Giêsu trong công cuộc cứu độ loài người là Thánh Mẫu Maria. Thực vậy, Mẹ Maria luôn yêu thương và cầu bầu cho những ai đang gặp khốn khó như Mẹ đã dạy các người giúp việc hãy làm theo lời Đức Giêsu tại tiệc cưới thành Ca-na (x Ga 2,1-11). Mẹ đã được chính Chúa Giêsu trăn trối làm Mẹ của Hội Thánh mà tông đồ Gio-an là đại diện, trước khi Chúa tắt thở trên thập giá (x Ga 19,26-27); Mẹ cũng thi hành nhiệm vụ của một bà mẹ hiền khi hiệp cùng Hội Thánh sơ khai cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giêsu lên trời (x Cv 1,14).
– Trong lịch sử Hội Thánh, mỗi khi con thuyền Hội Thánh gặp cơn phong ba có nguy cơ bị chìm đắm, chúng ta lại thấy có bàn tay trợ giúp của Mẹ Maria. Vào thế kỷ 12, thánh Đa-minh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo An-bi-doa ở Miền Nam nước Pháp đang đe dọa tiêu diệt Hội Thánh. Rồi dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V, cũng nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh một lần nữa lại tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi Hồi tại vịnh Lê-păng vào đầu thế kỷ 16. Ngày nay, Đức Maria trở thành sứ giả được Thiên Chúa sai đến đã hiện ra tại nhiều nơi trên thế giới vào nhiều thời điểm khác nhau, để nhắc nhở Hội Thánh đi đúng đường lối của Chúa Giêsu và giúp các tín hữu cải thiện đời sống, đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến. Ta có thể kể ra một số địa danh Mẹ đã hiện ra như: Lộ Đức (Pháp), Pha-ti-ma (Bồ Đào Nha), La Vang (Việt Nam), Mễ du (Nam Tư)…
– Thực ra, việc biến đổi lòng những kẻ tội lỗi và vô tín để họ quay về nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, và việc xóa bỏ các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật…trong đời sống mỗi người sẽ khó lòng thực hiện thành công nếu chỉ dựa vào khả năng giới hạn của chúng ta. Nhưng điều tưởng chừng không thể thực hiện ấy lại không khó chút nào đối với Thiên Chúa, vì: “Không có gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37). Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt được kết quả thì các tín hữu chúng ta cần noi gương Mẹ Maria để sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu (x Ga 15,5). Rồi cùng với Đức Mẹ, chúng ta sống đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến noi gương Mẹ khi xưa. Chắc chắn nhờ ơn Chúa giúp và sự phù trợ của Mẹ Maria, chúng ta cũng sẽ làm được những việc lạ lùng vượt quá khả năng của mình. Vì bấy giờ chúng ta làm với ơn Chúa giúp như thánh Phao-lô viết: ”Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 cr 12,10).
*4. Thảo luận:
* Qua câu chuyện trên, ta thấy Thánh Mẫu Maria có vai trò nào trong việc ăn năn trở lại của ông Phun-tơn?
Ngày nay các tín hữu chúng ta cần cậy nhờ vào sự phù trợ đắc lực của Mẹ Maria trong hành trình sống đức Tin thế nào?
*5. Nguyện cầu:
Lạy Chúa, Mỗi lần gặp phải những khó khăn hoạn nạn xảy tới, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn lại tìm đến với mê tín dị đoan như coi bói toán, cầu cơ, tin đồng cốt… để tìm sự giúp đỡ an ủi, đang khi lẽ ra chúng con phải cậy vào ơn Chúa trợ giúp và sự phù trợ của Mẹ Maria, như Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa. Xin Chúa giúp chúng con biết nghe lời Mẹ dạy là hãy lắng nghe Lời Chúa Giêsu, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng như các người giúp việc trong tiệc cưới xưa đã làm.
Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MẸ ĐẦY ƠN PHÚC- ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên
Ave Maria là lời chào của thiên sứ Gabrien khi đến gặp Đức Mẹ trong ngày truyền tin. Thiên sứ từ trời cao, xuống trần để gặp một phụ nữ khiêm hạ. Ave Maria vừa là lời chào, vừa là lời mời gọi hãy vui lên vì “Đức Chúa ở cùng Bà”.
Nhờ nhạc phẩm “Ave Maria”, tên tuổi của nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert được cả thế giới biết đến. Tuyệt tác của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nhiều danh ca nhờ bài thánh ca này mà được nổi danh ở tầm mức quốc tế. Thật tuyệt vời khi thấy Đức Trinh nữ Maria được ca tụng tôn vinh qua bài ca này. Từ những đại nhạc hội hàng ngàn hàng vạn thính giả, đến những nghệ sĩ violon hát rong ngoài đường phố, tất cả đều ca lên lời chào Đức Trinh nữ Maria: Mẹ đầy ơn phúc. Từ những tín hữu đạo đức đến những người vô tín ngưỡng, tất cả đều chăm chú cảm nhận những lời ca và âm điệu ngọt ngào của bài thánh ca để tôn vinh Mẹ Chúa Trời.
Ave Maria là lời chào của thiên sứ Gabrien khi đến gặp Đức Mẹ trong ngày truyền tin. Thiên sứ từ trời cao, xuống trần để gặp một phụ nữ khiêm hạ. Ave Maria vừa là lời chào, vừa là lời mời gọi hãy vui lên vì “Đức Chúa ở cùng Bà”. Qua lời chào kính trọng ấy, thiên sứ tỏ bày sự cung kính trước người phụ nữ được Chúa chọn làm thân mẫu của Ngôi Lời nhập thể. Khi muốn cứu chuộc con người, Thiên Chúa mời gọi sự cộng tác của một người phụ nữ. Ngài đã chọn Đức Trinh nữ Maria như một “điểm đỗ” để Con của Ngài giáng trần. Thánh Luca đã diễn tả cuộc gặp gỡ kỳ diệu ấy, là một cuộc gặp gỡ giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa cao cả và con người phàm trần. Trinh nữ Maria đã thưa lời “Xin vâng” để mở lòng đón nhận Ngôi Lời nhập thể. Với lời thưa “Xin vâng” của Mẹ, Con Thiên Chúa đã đến thế gian, khởi đầu công cuộc cứu độ loài người.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, trước hết là lời kinh ca ngợi. Chúng ta hợp lời với sứ thần chào kính và ca tụng thiên chức cao cả của Đức Mẹ. Mẹ là người được Thiên Chúa chọn lựa trong muôn người, để làm ngai tòa cho Đấng Cứu thế ngự khi đến trần gian, mặc lấy thân phận con người. Lời Mẹ nói tiên tri về chính mình nay đã được thực hiện: “Từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 2,48). Qua cuộc đời của Mẹ, chúng ta ca tụng quyền năng vô biên của Thiên Chúa, đã thực hiện những việc lạ lùng. Mẹ được tôn vinh làm Nữ Vương trời đất, cùng với Đức Giêsu là Vua Vũ trụ để chúc phúc cho muôn loài.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của niềm phó thác cậy trông. Khi lần hạt Mân Côi, chúng ta xin Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta được những ơn lành phần hồn phần xác, nhất là được ơn trung thành như Đức Mẹ. Lời kinh thấm nhập mỗi con tim, diễn tả tâm tư trìu mến của chúng ta dành cho Mẹ. Lời kinh đem lại sự ngọt ngào mỗi khi chúng ta âu sầu đau khổ; đem lại hy vọng mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thất bại; đem lại niềm vui mỗi khi chúng ta buồn bã; đem lại sức mạnh mỗi khi chúng ta yếu đuối; đem lại sự đỡ nâng mỗi khi chúng ta có nguy cơ gục ngã trên đường đời. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”, đó là lời cầu nguyện của Giáo Hội, cũng là lời cầu nguyện của mỗi con tim, xin Đức Mẹ bầu cử cho chúng ta đang còn bước đi trong cuộc sống dương gian đầy gian nan thử thách. “Kinh Mân côi không những kéo ơn trên trời xuống cho tội nhân, khiến họ mau mắn về với Mẹ, nhưng còn làm cho họ đứng vững trên con đường sùng kính mến yêu Mẹ. Nơi nào đông người chuyên chăm lần hạt, nơi ấy giáo hữu tiến nhanh trên đường thánh thiện, trái lại nơi nào thờ ơ, giáo hữu sẽ lâm vào tình trạng hư hỏng” (Thánh Grignion de Monfort).
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của tâm tình hiếu thảo chúng ta dâng lên Mẹ Thiên Chúa. Có người thắc mắc tại sao phải lặp đi lặp lại nhiều lần kinh Kính mừng khi lần hạt Mân Côi. Điều đó thật dễ hiểu! Người con hiếu thảo nào cũng muốn nói ngàn lần lời yêu thương với cha mẹ mình mà vẫn chưa đủ. Ngôn ngữ diễn tả tình yêu giống như dòng sông tuôn chảy mãi không dừng, cũng thế, những lời chào kính Đức Mẹ dù có lặp đi lặp lại là bằng chứng của tình mến chúng ta dành cho Đức Mẹ. Kinh Mân Côi sẽ giúp khơi nguồn dòng chảy yêu thương từ nơi Đức Mẹ đến với chúng ta.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, mỗi lời kinh là một bước đường đời dẫn ta đến gần Chúa hơn, và giúp chúng ta nên giống Chúa. Bởi lẽ kinh Kính mừng được đọc trong tâm tình suy niệm, chiêm ngắm những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu thế, từ ngày Truyền tin cho đến khi Người sống lại và lên trời vinh quang. Mỗi bước đường của chúng ta đều có Đức Mẹ đồng hành. Mỗi lối đi dương thế đều có Chúa dẫn đưa. Đó là giá trị của Kinh Mân Côi.
Kinh Mân Côi là hình thức cầu nguyện được chính Đức Mẹ khuyến khích. Quả vậy, khi hiện ra ở Lộ Đức cũng như ở Phatima, Đức Mẹ đã cùng lần hạt với các thị nhân, trong tình thân thương trìu mến. Vì thế, tượng Đức Mẹ được trình bày tại hai nơi thánh địa này đều có cỗ tràng hạt nơi tay của Đức Mẹ. “Hãy siêng năng lần hạt”, đó còn là lệnh truyền của Đức Mẹ khi hiện ra với ba trẻ chăn chiên ở Phatima năm 1917.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, ước chi lời kinh này luôn vang lên nơi môi miệng chúng ta, từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, nhờ đó, chúng ta luôn được Đức Mẹ phù hộ độ trì. Nhờ Mẹ và qua Mẹ, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu, và đạt được sự sống đời đời.
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA- ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
KINH MÂN CÔI, LỜI KINH KỲ DIỆU- ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
*1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
*2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
*3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
BÀI HỌC QUAN TRỌNG CỦA KINH MÂN CÔI– Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và Evà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân… “ (Rm 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là “đầu tàu” nầy: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”. (Rm 5, 19)
Tràng chuỗi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất… (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ ‘vương miện’, chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười… (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Pl 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rm 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
VIỆC ẤY SẼ XẢY RA CÁCH NÀO?- Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Maria, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Maria nói chung, theo như tác giả Lu-ca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Kitô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ…, những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Kitô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Kitô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Kitô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Kitô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi – không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn – nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người. Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa – nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen..
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
KINH MÂN CÔI VÀ ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN– Lm. Đaminh Đinh Viết Tiên
*1. Kinh Mân Côi, bài ca đi cùng năm tháng
Trong Giáo Hội cũng có những bài ca, có thể gọi là “đi cùng năm tháng”, những bài ca luôn đồng hành với Giáo Hội qua thời gian, qua những thăng trầm, những sóng gió của lịch sử. Bài ca đó có tên là “Chuỗi Mân Côi”, là những Kinh Kính Mừng. Bài ca này được vang lên mỗi ngày trong các nhà thờ hay chỗ riêng tư, được lâm râm khẩn cầu nơi môi miệng của mọi người, kẻ trí thức hay người bình dân, người thanh niên hay những người tuổi đời đã xế bóng.
Kinh Mân Côi quả là “bài ca đi cùng năm tháng” đối với Giáo Hội, cũng như đối với mỗi người chúng ta. Ở đây xin đan cử Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng luôn cổ vũ mọi người đến với Mẹ qua Kinh Mân Côi.
Trong tông thư “Kinh Mân Côi” Ngài chia sẻ như sau: “Từ thuở niên thiếu, lời kinh này đã có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của tôi (…) Kinh Mân Côi đã đồng hành với tôi trong những lúc vui sướng cũng như trong những giai đoạn khó khăn. Tôi đã giao phó cho lời kinh ấy biết bao lo âu; nơi lời kinh ấy, tôi đã luôn tìm được sự nâng đỡ (…) Kinh Mân Côi là lời kinh tôi ưa thích. Một lời kinh kỳ diệu. Kỳ diệu qua vẻ đơn sơ và chiều sâu của nó (…). Con tim của chúng ta có thể gán vào chục kinh Kính Mừng mọi biến cố của đời sống cá nhân, gia đình, quốc gia, Giáo Hội và toàn thể nhân loại.
Mối quan tâm của riêng ta và của những người thân cận, đặc biệt những người thân thiết nhất của ta. Vì thế, lời kinh Mân Côi đơn sơ ghi dấu ấn lên nhịp sống của con người. Anh chị em thân mến, với những lời này, tôi đã đặt những năm đầu tiên của triều đại Giáo Hoàng trong nhịp sống hằng ngày của Kinh Mân Côi. Hôm nay, khi bắt đầu năm thứ 25 phục vụ trong tư cách người kế vị thánh Phêrô, tôi muốn làm lại cũng một điều đó. Biết bao ơn lành tôi đã lãnh nhận được trong những năm tháng này từ Đức Thánh Trinh Nữ qua Kinh Mân Côi”.
*2. Kinh Mân Côi, lời kinh kết nối
*a. Với Đức Maria
Kinh Kính Mừng là sự nối kết giữa lời chào của Tổng Lãnh Thiên Thân Gabriel trong buổi truyền tin, với lời mừng của bà Elisabet trong ngày thăm viếng, nên mỗi lần lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự nối kết giữa nhân loại với Đức Maria.
Trong cuộc hội kiến lịch sử giữa Tổng Thiên Sứ và Đức Maria được khởi đầu bằng lời chào và kết thúc bằng lời thưa xin vâng. Nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc, nhưng còn ở trong tiềm ẩn cho đến khi có sự đáp trả bằng lời thưa: Xin vâng.
Xin vâng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trong hành trình đức tin, nhất là dưới chân Thánh Giá.
“Còn Đức Maria thì ghi nhớ những sự việc đó và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19.51). Khi đọc và suy niệm Kinh Mân Côi là ta cùng Mẹ suy niệm các mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa và của Mẹ. Qua việc cùng Mẹ suy niệm, sẽ giúp ta cảm nhận thật sâu sự đồng hành của Mẹ trong cuộc đời mỗi người.
*b. Với Đức Giêsu
Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng: Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu. “Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”. Lời kinh đã kết nối với Đức Mẹ, để rồi được nối kết với Con của Mẹ. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nơi trường học của Đức Maria, chúng ta được học bài học cơ bản: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm như vậy” (Ga 2,5). Như vậy, nếu ta mời Mẹ cùng đồng hành thì từng bước chúng ta sẽ được dẫn đến đích điểm là kết nối với Đức Giêsu. Lộ trình đức tin cũng là giáo án mà Mẹ sẽ dạy chúng ta trong hành trình làm môn đệ: Sống đức tin và can đảm bước theo Chúa. “Phúc cho em vì em đã tin rằng lời Chúa sẽ được thực hiện trong cuộc đời em” (Lc 1,45) và cũng như Mẹ, chúng ta dám thưa với Chúa trong mọi tình huống của cuộc đời.
*c. Với mọi người trong Chúa Kitô, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria
Thực ra đây là hệ lụỵ của hai mối kết nối trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau. Nhưng chính từ đây mở ra một nhãn giới mới đầy lạc quan, tin tưởng, hy vọng cho tất cả những ai đọc và suy niệm Kinh Mân Côi.
Thói quen của các gia đình Việt Nam là việc đọc kinh tối gia đình, kết hiệp giữa việc đọc Kinh Mân Côi và suy niệm Tin Mừng. Việc này đã có một âm hưởng rất tốt và có sức biến cải tình trạng gia đình.
Mỗi tối khi màn đêm xuống dần, sắp sửa kết thúc một ngày, không hình ảnh nào đẹp hơn khi mọi người quây quần trước bàn thờ, cử hành kinh tối gia đình. Bao niềm vui, nỗi buồn đều dâng lên Chúa, những thất bại đắng cay, cũng như những thành tựu phấn khởi trong ngày đều được trình bày cho Chúa nghe… tự nhiên tâm hồn cảm thấy ấm hơn và tình thân trong gia đình được nối kết thắm thiết, vì tất cả được dâng lên Chúa và được sẻ chia cho nhau, cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện.
Nếu Chúng ta đọc Kinh Mân Côi với tất cả tâm tình, chúng ta cảm thấy mình được biến đổi: lòng tin mạnh mẽ, niềm cậy trông kiên vững, sống dễ thương hơn với mọi người.
*3. Qua Kinh Mân Côi, chúng ta cảm nghiệm: Mẹ vẫn ở bên ta
Tổng thống George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ mình. Ông năng về thăm mẹ. Một hôm, thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông: – Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?
Vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời:- Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất thời giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống.
Mẹ của Tổng thống George Washington đã không nói nhiều, nhưng sự hiện diện đầy thanh thản và lòng nhân hậu của một người mẹ đã giúp ông tăng thêm sức mạnh để dấn thân phụng sự tổ quốc, vui sống trong trách nhiệm nặng nề của một nguyên thủ quốc gia.
Đối với người Kitô hữu, Mẹ luôn hiện diện âm thầm nhưng rất gần gũi bên cạnh mỗi người chúng ta.
– Sự hiện diện của Mẹ trong gia đình Giacaria đã củng cố niềm tin của bà Elizabeth, đem lại niềm hân hoan vô bờ cho trẻ Gioan Baotixita.
– Sự hiện diện của Mẹ tại tiệc cưới Cana đã làm cho người chủ tiệc mát mặt và mọi thực khách được uống rượu ngon làm hoan hỉ lòng người.
– Sự hiện diện của Mẹ trên đường Thánh Giá đã tiếp bước cho Đấng Cứu Thế lên tới đỉnh đồi Canvê.
– Sự hiện diện của Mẹ dưới chân Thập Giá đã cho Chúa Giêsu an tâm về với Chúa Cha sau khi trối Gioan, đại diện loài người lại cho Mẹ.
– Sự hiện diện của Mẹ trong nhà tiệc ly đã giúp các tông đồ sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
Và chắc chắn sự hiện diện của Mẹ trong cuộc đời người Kitô đã làm nảy sinh muôn ngàn phúc lộc. Sự hiện diện hiền mẫu của Mẹ trong cuộc đời chúng ta đã mang lại biết bao niềm vui, sự ủi an, lòng can đảm giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin.
Những lúc mệt mỏi rã rời trong cuộc sống hiện tại, những lúc tối tăm bao phủ, những lúc nặng trĩu u buồn của quá khứ, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, qua việc đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, ta sẽ thấy tâm hồn thanh thản và bình an
Đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, là những giây phút êm ái, ngọt ngào, hạnh phúc bên cạnh Mẹ. Với tấm lòng từ bi nhân hậu của Mẹ sẽ là nguồn ủi an, nâng đỡ và giúp sức chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời đầy thử thách chông gai này.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
KINH MÂN CÔI GÓP PHẦN XÂY DỰNG NHÂN LOẠI MỚI– Lm. FX. Đào Trung Hiệu
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng kinh mân côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: “Đi được ba chuỗi năm chục”. Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số. Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng kinh mân côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn. Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức…
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh. Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: “Bác ơi! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!”. Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: “Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi”.
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng. Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp. Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: “Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp”
Êm đềm mà thấm lâu…
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường kinh mân côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua… đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời kinh “Kính Mừng” quen thuộc, chính là lời chào mừng “Ave: Mừng vui lên” của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).
Lời chào “Ave” ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào “Đấng đầy ơn sủng”, chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
“Chữ E-va Mẹ đảo vần,
Thành A-ve gửi bình an cho đời”.
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng”. Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: “Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ”.
Đọc kinh “Kính Mừng”, ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới “cao hơn, nhanh hơn, xa hơn”. Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại…
Cũng vậy, qua những lời “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, chúng ta chiêm ngưỡng một “kỷ lục tuyệt hảo” của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh “Kính Mừng” không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử.
Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
MẸ MÂN CÔI- Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.
Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.
Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,
Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.
Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.
Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.
Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.
Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.
Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.
Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.
Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.
Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.
Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.
MẸ LUÔN HIỆN DIỆN- Lm. Giuse Phan Văn Quyền
Vào thời cổ đại, giải thưởng cho các cuộc thi đấu thể thao, không phải là huy chương vàng, bạc, đồng như hiện nay, mà là một vòng nguyệt quế, hay một vòng hoa tươi, được choàng vào cổ người chiến thắng.
Trong lịch sử Hội Thánh, tràng chuỗi Mân côi, vừa là khí cụ để chiến đấu, vừa là vòng hoa dành cho người chiến thắng.
Lịch sử cho thấy nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn sức mạnh cậy trông.
+ Năm 1571, vua Thổ nhỉ kỳ theo Hồi giáo là Salim II (1566-1574) xướng xuất một cuộc thánh chiến với tham vọng bình địa giáo đô Rôma. Trước tình hình ấy, Đức Thánh Cha Pi-ô V đã khẩn thiết kêu gọi người tín hữu hãy cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu, nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ. Đồng thời Ngài cũng lập một đội chiến thuyền, mà mỗi chiến sĩ được trang bị thêm một vũ khí tinh thần là tràng chuỗi Mân côi. Chính nhờ sức mạnh của niềm tin, với sự hỗ trợ nâng đỡ chở che của Đức Mẹ, Chúa đã cho đoàn quân công giáo chi?n thắng thủy binh thiện chiến của người Thổ nhỉ kỳ tại vịnh Lepante, vào ngày 7.10.1571, xóa tan cuồng vọng của những kẻ hiếu chiến.
Khi được tin chiến thắng vua Salim II, ĐTC Piô V tuyên bố: Không phải vũ lực, không phải võ khí, không phải vua tướng giúp chúng ta thắng trận, mà chính Đức Mẹ và tràng chuỗi Mân côi đã giúp chúng ta chiến thắng vẻ vang.
Chiến thắng này là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi, đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng: Thiên Chúa và Mẹ Maria luôn bên cạnh chúng ta.
+ Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra Chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé; mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ; rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi vào tháng, ngày, giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho người hấp hối, xin ơn trở lại cho người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào Chuỗi Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Thánh Cha Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này và ban cho nhiều ân xá.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi, và chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Hiện nay cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải, đang đối diện với những thách đố mới, tại sao một lần nữa chúng ta không chạy đến Kinh Mân côi, với cùng một đức tin như những người đã đi trước?
Thánh Pi-ô năm dấu viết: Vũ khí của tôi là tràng chuỗi Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì, khi tôi xin Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm vui lòng Đức Mẹ, muốn được Đức Mẹ thương yêu, hãy lần chuỗi Mân côi.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em! Điều kiện để được hưởng trọn vẹn tình thương của Đức Mẹ là: ăn năn đền tội và cải thiện đời sống, tôn sùng yêu mến trái tim Mẹ, siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Trong tháng Mân Côi này mỗi người chúng ta đáp lại lời mời gọi của Mẹ siêng năng lần hạt Mân Côi. Vì tràng chuỗi mân côi là như sợi dây tơ hồng, mối dây tình ái, kết chặt chúng ta gắn bó keo sơn với Đức Mẹ, giúp chúng ta noi gương Đức Mẹ mà sống đẹp lòng Chúa và phục vụ tha nhân, giúp chúng ta yêu mến Chúa và mọi người bằng trái tim của Đức Mẹ.
Đức Mẹ nói với Bernadette tại Lộ Đức: ” Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau “. Tuy nhiên những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Tin mừng, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ.
Qua tràng chuỗi Mân Côi Mẹ luôn hiện diện với chúng ta như xưa Mẹ đã từng hiện diện:
Sự hiện diện của Đức Mẹ nơi gia đình Gia-ca-ri-a đã khiến bà I-sa-ve tràn trào ơn Chúa Thánh thần, đem lại niềm hoan lạc vô bờ cho thai nhi Gioan tẩy giả.
Sự hiện diện của Đức Mẹ tại tiệc cưới Ca-na đã làm đôi tân hôn và mọi người dự tiệc được trọn vẹn niềm vui, và khiến Chúa Giê-su ra tay làm phép lạ đầu tiên.
Sự hiện diện của Đức mẹ dưới chân thập giá đã làm ấm lòng chúa Giê-su để an tâm về với Chúa Cha, sau khi trối phó thánh Gioan là Giáo hội cho Đức Mẹ.
Sự hiện diện của đức Mẹ tại nhà Tiệc ly, đã giúp các Tông đồ lấy lại tinh thần, sinh khí và sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
Hôm nay Đức Mẹ tiếp tục hiện diện giữa chúng ta và trong mỗi người chúng ta.
Những lúc rệu rã một mõi vì cuộc sống lam lũ bon chen trần thế, những khi tối tăm thử thách bao phủ ánh tương lai, những lúc nặng trĩu u buồn quá khứ, những lúc mất mát hụt hẫng không biết cậy dựa vào ai …
Hãy chạy đến với Đức mẹ, hãy cầm lấy tràng chuỗi mân Côi và cầu nguyện, hãy thầm thỉ thì thầm lời kinh Kính mừng Maria….
Với tấm lòng từ bi nhân hậu của một hiền mẫu, chắc chắn Đức Mẹ sẽ là nguồn an ủi, nâng đỡ, khích lệ và niềm vui sống cho chúng ta.
Lạy Mẹ, khi con yếu đuối lỡ lầm va vấp, xin Mẹ thương giơ tay nâng đỡ dìu dắt; khi con cô đơn lạc lỏng, xin mẹ đồng hành bên con và che chở giữ gìn; khi con khổ đau bất hạnh, xin mẹ thương ra tay cứu giúp; vì Mẹ là niềm an ủi và hạnh phúc của con.
Lạy Đức Mẹ Maria, con xin nhắc lại lời mà triệu triệu trái tim hằng ấp ủ, lời mà triệu triệu đôi môi hằng tung hô hằng ngày trên khắp thế giới: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử. Amen.
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
SỨC MẠNH KINH MÂN CÔI– Lm Giuse Nguyễn Nguyên
Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào được giáo hội dành nhiều ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời “xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời” đã ứng nghiệm, với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.
Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.
Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy, giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.
Vì lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử”. Amen.