CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN – NĂM B

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
CHỖI DẬY, THỨC DẬY(*)– Chú giải của Noel Quession. 7
THÊN CHÚA LÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông. 14
CON GÁI ÔNG GIAIRÔ VÀ NGƯỜI ĐÀN BÀ MẮC BỆNH BẤT TRỊ- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux 31
CẢM NGHIỆM VỀ CHÚA– ĐGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 59
ĐỨC KITÔ LÀ NGUỒN SỐNG- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 64
LÒNG TIN VÀ PHÉP- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 75
SỐNG CHẾT TRONG TAY CHÚA– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 83
CON CHIÊN NHỎ BÉ, HÃY CHỖI DẬY- Suy niệm Peter Peldmeyer- Lm. Văn Hào, SBD chuyển ngữ 87
THIÊN CHÚA QUAN TÂM- Lm. Quốc Toản CMC.. 92
LÀM PHIỀN THẦY CHI NỮA- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty SDB.. 95
CHỖI DẬY NHỜ ĐỨC GIÊSU- Lm Anphong. 99
LÒNG TIN CỦA CON ĐÃ CỨU CON- Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc. 102
CHÚA LÀ SỰ SỐNG – Lm Antôn Nguyễn Văn Độ. 106
ĐỨC TIN KHAI MỞ QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA- Lm Jos. Nguyễn Thành Long 112
PHÉP LẠ CỦA NIỀM TIN- Trích Logos B.. 115
ĐỨC TIN MẠNH MẼ, KHIÊM TỐN THẲM SÂU- Lm. Giuse Đinh Tất Quý 121
ĐỪNG SỢ, HÃY VỮNG TIN- Lm. Phêrô Lê Văn Chính. 128
TIN THÌ ĐƯỢC CHỮA LÀNH VÀ ĐƯỢC SỐNG- Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP 133

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ÐỌC I: Kn 1, 13-15; 2, 23-25
“Bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian”.
Bài trích sách Khôn Ngoan.
Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian. Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11-12a và 13b
Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Chúa đã đưa linh hồn con thoát xa âm phủ; Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ.
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Ngài, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời.
BÀI ÐỌC II: 2 Cr 8, 7. 9. 13-15
“Sự dư thừa của anh em bù đắp lại sự thiếu thốn của những anh em nghèo khó”.
Bài trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, cũng như anh em vượt trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi hình thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em cũng phải vượt trổi trong việc phúc đức này. Vì anh em biết lòng quảng đại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: mặc dù giàu sang, Người đã nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có. Nhưng không lẽ để cho kẻ khác được thư thái, mà anh em phải túng thiếu, nhưng phải làm sao cho đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, sự dư giả của anh em bù đắp lại chỗ thiếu thốn của họ, để sự dư giả của họ bù đắp lại sự thiếu thốn của anh em, hầu có sự đồng đều như lời đã chép rằng: “Kẻ được nhiều, thì cũng không dư; mà kẻ có ít, cũng không thiếu”.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
All. All.- Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. – All.
PHÚC ÂM: Mc 5, 21-43
“Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống”. Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía. {Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: “Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành”. Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: “Ai đã chạm đến áo Ta?” Các môn đệ thưa Người rằng: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi ‘Ai chạm đến Ta?’!” Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”.} Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?” Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin”. Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó”. Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: “Talitha, Koumi”, nghĩa là: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!” Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy và bảo họ cho em bé ăn.
Ðó là lời Chúa.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CHỖI DẬY, THỨC DẬY(*)– Chú giải của Noel Quession
Đông đảo dân chúng tụ lại quanh Người. Lúc đó Người đang ở trên bờ biển hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta phủ phục dưới chân Người, và năn nỉ: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đặt tay lên cháu, để nó qua khỏi và được sống”. Đức Giêsu liền ra đi với ông. Đông đảo dân chúng đi theo và chen lấn Người.
Tôi bắt đầu đọc lại đoạn này, tả một cảnh rất sinh động. Thánh Maccô ghi lại những lời rao giảng của Thánh Phêrô, một con người thực tế và có óc quan sát đúng đắn. Tôi tưởng tượng khung cảnh; tôi nhìn ngắm con người, tôi ghi nhận những sự kiện như trong một phim xi nê, hay hơn nữa tôi tưởng tượng tôi là một trong những người tham dự, đang ở giữa đám đông.
Có hai chi tiết đáng lưu ý: ông Giairô “khẩn khoản nài xin, khá lâu. Đức Giêsu bề ngoài không đáp tiếng nào, nhưng liền ra đi với ông ấy” và chúng ta thấy hai người cùng sánh vai lên đường với đám đông.
Trong tiếng Hêbdrơ tên Giairô (Yair) có nghĩa là “người soi sáng” hay là “người đánh thức”.
Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người.
Thánh Maccô nhấn mạnh đến tình trạng tuyệt vọng của người đàn bà này: Bà đã đau đớn “rất nhiều”, chữa trị “lâu rồi”, hao tổn “cả tài sản” mà “không thuyên giảm chút nào”; bệnh tình lại có phần “tệ hơn”. Điều này muốn nhấn mạnh cho chúng ta rằng, Đức Giêsu có một quyền lực mà không một phương thế nhân loại nào có thế vượt qua được. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin sâu xa, ngõ hầu chúng con không bao giờ tuyệt vọng!
Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ khỏi”.
Theo tâm thức người Do Thái thời đó, người đàn bà này bị coi như “ô nhơ” theo luật Môisen (Lv 15,25) và bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ chỉ vì tiếp xúc với bà. Tôi cố hình dung ra thái độ của người đàn bà đáng thương này, vừa xấu hổ vừa e sợ: Bà sờ vào áo choàng của Đức Giêsu và cảm nghĩ như mình đang làm một việc bị cấm. Người có thể khước từ sự đụng chạm nhơ bẩn này. Và nếu đám đông biết điều này, mọi người sẽ gớm giếc tránh xa bà.
Và tôi ngắm nhìn Đức Giêsu, Đấng “đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì bị hư mất”. Người đón tiếp những kẻ nghèo nhất. Không có một sự khốn khổ nào, dù dấu kín, xấu hổ đến đâu mà bị Đức Giêsu xua đuổi. Không có một luật nào đứng vững trước Đức Giêsu, khi cần phải cứu một người.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi thói quen câu nệ lề luật, khỏi mọi sợ hãi và xấu hổ.
Tức khắc máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người liền quay lại đám đông mà hỏi: “Ai sờ vào áo tôi vậy?” Các môn đệ thưa: Thầy coi dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đụng vào tôi?” Đức Giêsu ngó quanh để xem người phụ nữ nào đã làm điều đó”.
Chúa không muốn chỉ tiếp xúc với đám đông vô danh.
Người muốn có một sự tiếp xúc cá biệt, Người cũng muốn cho người đàn bà vượt lên trên sự tin tưởng mang tính ma thuật dị đoan (“nếu tôi sờ được áo Người, tôi sẽ được lành mạnh”), để bước vào một đức tin đích thực là phải nhận biết con người Đức Giêsu – Chúng ta nên nhớ rằng, Đức Giêsu là một nhà sư phạm thật tài ba: Người lưu ý đến đức tin chưa hoàn hảo và hồn nhiên, nhưng Người cũng muốn chúng ta đạt đến một đục tin trưởng thành và hữu lý hơn.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa thương yêu con với thực trạng của con. Xin Chúa giúp chúng con trở nên như Chúa muốn.
Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và trình bày hết sự thật. Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy đi về bình an và khỏi hẳn bệnh”.
Hai chữ “khỏi bệnh”, “được cứu rỗi”. Những phép lạ của Đức Giêsu, dưới cái nhìn của người Kitô hữu “Sau biến cố Phục sinh”, là những điềm loan báo “sự cứu rỗi do đức tin” mà chúng ta được hưởng nếu ta nhận biết Người.
Vâng, đối với Đức Giêsu, điều cốt yếu không phải là điều “huyền diệu”, phép lạ, nhưng là sự cứu rỗi. Vậy tôi cầu xin Chúa những gì?
Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?”. Tình cờ nghe được câu nói đó, Đức Giêsu bảo ông trưởng hội đường: “ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Đối với Đức Giêsu, chính đức tin mới quan trọng: ông Giai – rô đã chứng kiến sự hiện diện trước đó. Thánh Maccô kể lại cho chúng ta hai phép lạ này, như lồng vào nhau để cho chúng ta một cảm tướng về sự tăng trưởng trong đức tin: Tin rằng Đức Giêsu có thể chữa lành bệnh tật, tin rằng Người có thể làm cho kẻ chết sống lại.
“Ông còn phiền Thầy làm gì?”. Đối với người đồng thời với Đức Giêsu. Họ không thể nghĩ rằng, xin Chúa làm cho người chết sống lại là một việc có thể được. Chữa bệnh thì được, nhưng hồi sinh kẻ chết thì không phiền Thầy làm gì vì điều đó không thể làm được. Điều này nhấn mạnh đến sự nghịch lý trong đức tin.
Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường.
Một lần nữa, Đức Giêsu không muốn làm điều gì bề ngoài dễ gây kích động. Mỗi lần có thể được, Người kín đáo làm phép lạ. Hôm nay, Người chỉ dẫn theo ba nhân chứng có đủ tư cách nhất. Ba vị này cũng sẽ là nhân chứng lúc Người biến hình (Mc 9,12) và lúc Người hấp hối (Mc 14,33). Chúa không muốn quyền lực của Chúa trở thành một quyền lực ma thuật: Chính Người cũng sẽ có kinh nghiệm đau thương về cơn hấp hối và cái chết. Nhưng điều này đã xảy ra cho cô bé gái. Sự cứu rỗi duy nhất và vĩnh viễn đó là cuộc vượt qua cuối cùng, để bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại khóc lóc om sòm như vậy? Con bé có chết đâu nó ngủ đấy?”. Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết.
Đức tin của ông Giai-rô và của ba Tông đồ bị thử thách nặng nề do thái độ không tin của đám đông chung quanh, và việc họ nhạo báng Đức Giêsu.
Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người vào nơi nó đang nằm, Người cầm lấy tay nó.
Ôi bàn tay của Đức Giêsu đang làm những điều kỳ diệu! Bàn tay Người đang nắm một bàn tay đã chết. Sự tiếp xúc với thân thể Chúa cũng thế. Khi chúng ta rước Chúa, mầu nhiệm sống động này được tái thực hiện.
Và Người nói: “Talitha Kum”.
Chỉ mình Maccô ghi lại lời này bằng tiếng Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu. Maccô biết được chuyện này do Thánh Phêrô, người hiện diện ở đó thuật lại. Chính những chi tiết nhỏ ấy cho thấy Phêrô là người đã mục kích. Những kỷ niệm này được một nhân chứng đã nghe, đã xúc cảm ghi giữ. Thực vậy, suốt đời Thánh Phêrô luôn nhớ hai chữ “Talitha Kum”.
Nghĩa là “Này con, Thầy truyền cho con chỗi dậy đi!”.
Thực ra, hai chữ tiếng Aramên này có thể dịch ngắn hơn nhiều: “Bé gái, đứng dậy”. Nhưng Thánh sử Maccô đã muốn diễn dịch dài hơn và đã dùng một từ chủ yếu của những Kitô hữu đầu tiên. Sau “Phục sinh”: “Hãy chỗi dậy”, tiếng Hy Lạp là “egeiré”, có nghĩa là “thức dậy”. Đó là từ đã được dùng để nói về sự Phục sinh của Đức Giêsu. Chữ này có một ý vị Phục sinh. Đó là chữ đối nghĩa với “ngủ” mà Đức Giêsu đã dùng trước đây để nói về cái chết. Vâng, đối với Đức Giêsu, cái chết không còn thật sự là chết nữa, đó là một giấc ngủ.
Một bài Thánh ca rất xưa của những người Kitô hữu đầu tiên được hát trong nghi lễ rửa tội như sau: “Hỡi người đang ngủ thức dậy đi, ngày đã sáng lên rồi. Từ cõi chết hãy đứng lên. Chúa sẽ chiếu sáng trên ngươi”. (Chúng ta đã nói là chữ faire, có nghĩa là “người soi sáng”, “người đánh thức”, đấy là biểu tượng của phép rửa tội) (Ep 5,14).
Đó là Phép rửa của tôi. Đó là sự sống của tôi, người đã được rửa tội. Tôi có tin thực rằng tôi đã nhận được cùng một ơn lành như cô bé này không? Qua phép rửa tội của tôi tôi đã đi từ cái chết đến sự sống. Cuộc sống vĩnh cửu của tôi đã bắt đầu. Phải chăng tôi là một người không ngừng “chỗi dậy”, “thức dậy”? Tôi có nghe Đức Giêsu cũng nói lại với tôi: “Đứng lên”, “chỗi dậy”, “thức dậy”, “sống lại” không? Nói những tình trạng chết chóc mà đức tin giải thoát cho tôi là gì?
Con bé liền đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười tuổi. Vừa thấy thế, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giêsu căn dặn họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho đứa trẻ ăn.
Sự sống chiến thắng cái chết, đặt những người chứng kiến cảnh này vào trung tâm của huyền nhiệm: Họ bị “xuất hồn” kinh ngạc tột độ. Lệnh Chúa truyền phải im lặng lại càng nhấn mạnh cảm tưởng bí mật mà chúng ta đã có: Mầu nhiệm đích thực của Đức Giêsu không thể hiểu được đối với những người không có đức tin. Cho người ta thấy “phép lạ” bề ngoài là vô ích, người ta sẽ cho đó là “trò ma thuật”, và Đức Giêsu không muốn người ta coi Người như một nhà phù thủy. “Người bảo cho cô bé ăn”. Đó không chỉ là một sự chăm sóc ưu ái và cảm động. Trong biểu tượng của phép rửa, người “đi từ cõi chết đến cõi sống nhờ phép rửa, được đưa vào bàn Tiệc Thánh Thể: Một người sống thì phải ăn, một người đã được rửa tội phải ăn “Bánh hằng sống”, Thánh Thể và Phép rửa tội liên kết mật thiết với nhau. Đó là Mầu nhiệm Đức Tin.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này là “Thiên Chúa không làm ra sự chết, nhưng Đấng ban sự sống”.
Kn 1: 13-15; 2: 23-25.
Trong Bài Đọc I, tác giả sách Khôn Ngoan cho thấy rằng Thiên Chúa đã không làm ra sự chết; Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài để họ được trường tồn bất diệt.
2Cr 8: 7, 9, 13-15
Trong đoạn trích thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng Đức Ki-tô đã hào phóng ban chính mạng sống của Ngài để giải thoát muôn người, vì thế, người Ki-tô hữu phải biết chia sẻ với anh chị em nghèo khổ bằng sự quảng đại và huynh đệ.
Mc 5: 21-43
Tin Mừng khẳng định: Đức Giê-su phục sinh bé gái mười hai tuổi. Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống; Ngài nắm giữ quyền năng sự sống, tiêu diệt sự chết và thu tóm nó vào chỉ trong một giấc ngủ chốc lát.
BÀI ĐỌC I (Kn 1: 13-15; 2: 23-25)
Sách Khôn Ngoan là tác phẩm muộn thời nhất của bộ Cựu Ước. Sách được biên soạn vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, ở A-lê-xan-ri-a, trong môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp. Vào thời đại nầy thành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô của văn hóa Hy lạp, nhưng cũng là thành phố lớn nhất của Do thái Hải Ngoại (người ta ước lượng khoảng vài trăm ngàn người Do thái sinh sống ở thành phố nầy).
1.Bối cảnh:
Chúng ta không biết tên tuổi của tác giả sách Khôn Ngoan. Ông viết bằng tiếng tiếng Hy lạp cho đồng bào Do thái Hải Ngoại của ông, họ không còn biết tiếng Hy bá nữa. Sách Khôn Ngoan đã được soạn thảo trong bối cảnh văn hóa Hy-lạp đã quyến rủ người Do thái và đang làm cho nhiều người lung lay niềm tin truyền thống của dân tộc mình. Tác giả đã muốn ngăn ngừa những nguy cơ bội giáo. Ông cực lực công kích ngoại giáo và tội thờ ngẫu tượng.
Tác giả là một con người đạo hạnh, rất gắn bó với truyền thống Do Thái giáo. Tuy nhiên, tư tưởng thần học của ông đã tiếp xúc với triết lý Hy-lạp. Việc tiếp xúc nầy rất có lợi: ngôn từ mà ông sử dụng trong sách Khôn Ngoan thì thâm thúy hơn, suy luận hơn, rộng mở với siêu hình học hơn so với các sách minh triết trước đó (sách Gióp, Châm Ngôn, Giảng Viên, Huấn Ca). Thánh Phao-lô và thánh Gioan, hai nhà thần học Tân Ước, sẽ gặp thấy ở nơi tác phẩm nầy những trực giác cho Ki-tô học của mình.
Tác giả mượn vài tư tưởng của văn hóa Hy lạp như quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Nhưng tác giả không chấp nhận quan niệm về con người của văn hóa Hy lạp: ông tháp nhập viễn cảnh nầy vào trong chiều sâu của tư tưởng Do Thái giáo truyền thống.
2.Thiên Chúa không làm ra cái chết.
Tác giả khẳng định: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất tử”. Tác giả còn xác quyết xa hơn nữa: “Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người” (3: 9). Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước xuất hiện lời khẳng định về cuộc sống sau cái chết, trong mối thân tình với Thiên Chúa. Thật ra, niềm hy vọng về cuộc sống bên kia nấm mồ đã được phát biểu nhiều lần, nhất là trong các Thánh Vịnh, trong số đó Thánh Vịnh nổi tiếng nhất là Tv 16, Thánh Vịnh về Đấng Mê-si-a. Niềm hy vọng nầy là tiếng kêu vang lên của người vô tội, họ xin Thiên Chúa xét xử ngõ hầu người công chính không cùng chịu chung số phận như quân vô đạo.
Nhưng vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, tác giả sách Khôn Ngoan nêu lên niềm tin vào cuộc sống mai hậu nầy với một niềm xác tín thanh thản. Vấn đề thưởng phạt đã làm bận lòng các nhà ưu tú Ít-ra-en từ lâu, nay đã gặp thấy giải pháp. Trong phần thứ nhất của tác phẩm, tác giả đối lập cách sống của quân vô đạo và cách sống của những người công chính ở dưới thế, và số phận khác nhau của họ sau khi chết. Người công chính chỉ chịu một cái chết bên ngoài, số phận của họ thì bất tử. Quân vô đạo phải chịu cả cái chết thể lý lẫn cái chết tinh thần, nghĩa là không được hưởng nhan thánh Chúa.
3.Quan niệm con người theo Kinh Thánh:
Tác giả sách Khôn Ngoan không đơn giản chuyển quan niệm Hy lạp về sự bất tử của linh hồn sang tư tưởng Do thái, vì quan niệm về con người của hai nền văn hóa nầy rất khác nhau.
Trước tiên, chúng ta hãy ghi nhận rằng có vài điểm tương đồng về cuộc sống bên kia sự chết giữa quan niệm Do thái và quan niệm Hy lạp. Theo quan niệm Do thái cũng như Hy lạp, những vong nhân sống trong cõi âm ti buồn phiền tăm tối mà người Do thái gọi “shéol” và người Hy lạp gọi “hadès”. Họ có chung một niềm tin với các dân tộc khác theo đó Mẹ Đất đã sinh ra con người và sẽ tiếp nhận con người vào trong lòng đất mẹ của mình.
Trong huyền thoại Hy lạp, vài vị anh hùng ưu việt đạt đến một cuộc sống tốt hơn, được cất lên bên cạnh các thần linh như Ménelas và Héraclès, hay được mang vào Đảo Hạnh Phúc, như Achille, trong sử thi hậu Homère. Cũng vậy, trong truyền thống kinh thánh, ông Kha-nốc (St 5: 24), ngôn sứ Ê-li-a (2V 2: 11) là những người được cất lên trên trời và đang sống.
Trong tư tưởng Hy lạp, vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, Socrate khẳng định công khai sự bất tử của linh hồn, và cuộc sống trường cửu bên cạnh các thần linh. Platon sẽ khai triển những bằng chứng về sự bất tử của linh hồn trong tác phẩm Phédon. Tuy nhiên, theo quan niệm “nhị nguyên” của Platon, linh hồn khác với thân xác; linh hồn có trước thân xác; thân xác chỉ là tù ngục giam hãm linh hồn.
Quan niệm Do thái về linh hồn thì rất khác. Con người được tạo thành một thực thể duy nhất gồm linh hồn và thân xác. Linh hồn là nguyên lý sự sống. Nguồn sống nầy đến từ hơi thở của Thiên Chúa, tức là thần khí. Nếu Thiên Chúa rút lại hơi thở của Ngài, con người chết. Ảnh hưởng quan niệm Hy-lạp về sự bất tử của linh hồn không làm thay đổi, nhưng củng cố quan niệm của Kinh Thánh về con người. Sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa” (3: 1). Linh hồn đón nhận phẩm chất, nhân cách, và có khả năng thấy Thiên Chúa.
Người Do thái có một cơ hội lớn lao để đạt tới quan niệm về “sự sống lại của thân xác” trước khi mở lòng ra trước quan niệm về sự bất tử của linh hồn. Như vậy, những nhà tư tưởng của người Do thái có thể cưỡng kháng lại nhị nguyên thuyết của người Hy-lạp. Thân xác, do bàn tay của Đấng Tạo Hóa tạo nên, không bị khinh chê nhưng duy trì chiều kích cao cả của nó: cuộc sáng tạo nguyên thủy là tốt đẹp.
4.Cái nhìn lạc quan về con người.
“Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (nghĩa là cho chúng có một cuộc sống bền vững). “Mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh”. Tư tưởng lạc quan nầy quy chiếu về chương đầu tiên của sách Sáng Thế. “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp” là điệp khúc tiếp liền sau mỗi một hành vi sáng tạo trong suốt “sáu ngày tạo dựng”.
Niềm lạc quan của tác giả còn đi xa hơn nữa và được diễn tả ở nơi một lời khẳng định táo bạo: “Âm phủ (quyền lực của tử thần) không thống trị trên mặt đất, vì đức công chính thì trường sinh bất tử”. Vì thế, những sức mạnh của sự dữ và sự chết xem ra hoành hành trên cõi thế và thường chiến thắng, nhưng người công chính đánh bại sự chết vì họ được bảo đảm một cuộc sống bất tử.
Tác giả hoàn tất sự chứng minh của mình bởi hai lập luận quan trọng: trước hết, con người được trường tồn bất diệt vì được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa; sau nữa, tác nhân của sự chết là quỷ dữ.
Lập luận thứ nhất dựa trên chuyện tích thứ nhất của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1: 26). Sách Khôn Ngoan nói: “Họ được Thiên Chúa dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người”. Lập luận chủ yếu về sự bất tử của con người như vậy rõ ràng thuần túy Kinh Thánh, không chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy-lạp.
Lập luận thứ hai ám chỉ đến ám chỉ đến chuyện tích thứ hai của sách Sáng Thế về sự thử thách và sa ngã khi tác giả viết: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian”. Ở đây, cái chết mà tác giả nhắm đến trước hết là cái chết thần thiêng, cái chết thực sự. Cái chết thể lý được liên kết với con người, nhưng chỉ dẫn quân vô đạo đến cái chết thần thiêng.
Tác giả sách Khôn Ngoan là người đầu tiên cho chuyện tích sa ngã một giá trị tôn giáo. Đức Giê-su sẽ củng cố quan điểm nầy: “Ngay từ đầu, nó là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó” (Ga 8: 44).
BÀI ĐỌC II (2Cr 8: 7, 9, 13-15)
Thánh Phao-lô đã thực hiện một cuộc lạc quyên giúp Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem: Giáo Đoàn nầy đang lâm cảnh túng thiếu. Sử gia Gio-sê-phút (cuối thế kỷ thứ nhất) kể ra một nạn đói kém dài lâu đã hoành hành xứ Pa-lết-tin, dưới thời các quan tổng trấn Cút-pi-út Fa-đút và Ti-be A-lê-xan-đê, tức giữa những năm 44-48. Sách Công Vụ Tông Đồ nói với chúng ta về một nạn đói lớn đã xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô (41-45 trước Công Nguyên). “Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tùy theo khả năng của mình, sẽ gởi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. Và họ đã làm việc ấy: gởi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô” (Cv 11: 28-30).
Vì thế, trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô nhắc lại việc thánh nhân lên Giê-ru-sa-lem vào thời kỳ nầy (chắc chắn vào năm 46); chính vào thời điểm này thánh Phê-rô, thánh Gioan và thánh Gia-cô-bê, lãnh đạo Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem, vẫn tiếp tục đảm nhận trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho “những người được cắt bì”; còn thánh Ba-na-ba và thánh Phao-lô thì được ủy quyền giao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho “các dân ngoại” với một điều kiện là họ phải lo cho những tín hữu túng thiếu tại Giê-ru-sa-lem.
Thánh Phao-lô không bao giờ quên lời hứa của ngài: “chúng tôi phải nhớ đến những người túng thiếu, điều mà tôi vẫn gắng làm” (Gl 2: 10), thậm chí cho dù các Ki tô hữu Giê-ru-sa-lem không còn phải lâm vào cảnh quá túng quẫn đi nữa.
1.Ý nghĩa của lạc quyên:
Việc lạc quyên giúp đỡ Giáo Đoàn Giê-ru-sa-lem chiếm một chỗ quan trọng trong những hoạt động của thánh nhân. Thánh nhân đã đặt bầu nhiệt huyết vào công việc nầy, vì ngài thấy ở đó một cơ hội cho những người tân tòng, dù xuất thân từ Do thái giáo hay lương dân, thực hành đức ái huynh đệ và chia sẻ những của cải; cũng như chứng tỏ sự gắn bó của họ với Giáo Hội-Mẹ. Đây là cử chỉ hiệp nhất, lòng biết ơn đối với Giáo Hội Mẹ từ đó Lời Chúa được tỏa lan và những ân phúc đức tin được trao ban.
Quả thật, trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân viết: “Nhưng bây giờ tôi còn phải đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ dân thánh ở đó, vì miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a đã có nhã ý đóng góp để giúp những người nghèo trong số dân thánh ở Giê-ru-sa-lem. Họ đã có nhã ý làm như vậy, nhưng thật ra họ cũng có bổn phận đối với dân thánh ở đó. Bởi vì dân ngoại đã được chia sẻ các phúc lộc thiêng liêng của dân thánh ở Giê-ru-sa-lem, thì họ cũng có bổn phận dùng của cải vật chất mà giúp đỡ lại…” (Rm 15: 16-28). Trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân ám chỉ đặc biệt đến điều nầy: “Về điều nầy …vì anh em là những người đầu tiên, chẳng những đã thực hiện công cuộc đó, mà còn đã quyết định làm ngay từ năm ngoái” (2Cr 8: 10).
Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy mở rộng tấm lòng mà giúp đỡ giúp đỡ các anh chị em đang lâm cảnh túng thiếu.
2.Mở rộng tấm lòng.
Thánh Phao-lô khéo léo kể ra những đức tính trổi vượt của các tín hữu Cô-rin-tô: đức tin, lời Chúa, sự hiểu biết, lòng hăng say trong mọi lãnh vực, vì thế họ phải bổ sung vào đây tấm lòng quảng đại trong dịp lạc quyên nầy nữa.
Nếu họ nhiệt tâm thực hành đức ái, chính vì thánh nhân đã chuyển lửa của ngài cho họ. Nhưng động lực chính yếu là mẫu gương của Đức Ki tô (trọng tâm của đoạn văn này). Trong một biểu thức gây ấn tượng mạnh, thánh Phao-lô gợi lên rằng Đức Ki tô “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có”.
- “Lá lành đùm lá rách”:
Tuy nhiên, thánh nhân biết rằng các tín hữu Cô-rin-tô không phải là những người giàu có. Vì thế, thánh nhân tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ khi đòi hỏi họ chia sẻ với những người túng thiếu không phải những gì cần thiết cho sự sống của mình, nhưng sự dư giả của mình: “Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu; để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em. Lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu”.
TIN MỪNG (Mc 5: 21-43)
Đoạn văn nầy kết hợp hai câu chuyện phép lạ: phục sinh con gái ông Gia-ia (5: 21-24, 35-43) và chữa lành người phụ nữ băng huyết (5: 25-34). Đây là một ví dụ nữa về cách thức tháp nhập “hai câu chuyện khác nhau vào trong một bài trình thuật” (x. 1: 21-28; 2: 1-12; 6: 7-30; 11: 12-21). Hai câu chuyện có nhiều điểm chung: hai bệnh nhân là phái nữ; con số mười hai: người phụ nữ bị bệnh đã mười hai năm, còn cô gái đã mười hai tuổi (5: 25, 42); hai phép lạ được thực hiện một cách kín đáo: phép lạ chữa lành bệnh xuất huyết nan y của một phụ nữ không thể kiểm chứng được; còn phép lạ cho một bé gái sống lại chỉ có vài nhân chứng và với lệnh truyền không được kể cho ai biết chuyện nầy; trong cả hai trường hợp, đức tin vẫn đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình tiếp cận với Chúa Giê-su.
Việc đan kết hai câu chuyện vào trong một bài trình thuật cũng được gặp thấy tại Mt 9: 18-26 và tại Lc 8: 40-56, nhưng câu chuyện của Mác-cô có nhiều tình tiết sinh động nhất. Toàn bộ bài trình thuật bày tỏ nhiều chi tiết sống động của một chứng nhân mắt thấy tai nghe mà thánh ký nhận được từ nguồn của mình hay từ những kỷ niệm của thánh Phê-rô mà thánh ký chuyển tải: ví dụ như câu trả lời của các môn đệ mà thánh ký đã xây dựng thành ngôn ngữ nói: “Thầy coi, dân chúng chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ‘Ai đụng vào tôi?’”; hay thánh ký đặt trên miệng Chúa Giê-su lệnh truyền bằng ngôn ngữ A-ram, ngôn ngữ nói của Ngài: “Ta-li-tha-kum”. Nhờ những chi tiết sống động này, chúng ta dễ dàng nhận thấy ở đây diễn tiến và ý nghĩa của những sự kiện. Đức Giê-su không vội vàng đến nhà ông trưởng hội đường; thời gian trôi qua giữa Đức Giê-su và người phụ nữ mắc bệnh xuất huyết dẫn đến đứa bé gái thật sự chết. Cũng như trong câu chuyện cho anh La-da-rô sống lại (Ga 11), Đức Giê-su không vội vã ra đi khi nghe tin anh La-da-rô đau nặng; Ngài đến sau khi bạn Ngài đã qua đời bốn ngày rồi. Như vậy, trong câu chuyện nầy, Chúa Giê-su loan báo một dấu hiệu còn lớn hơn dấu hiệu chữa lành bệnh tật: Ngài có quyền trên cả sự chết.
1.Bối cảnh và các nhân vật.
Đức Giê-su đã ở vùng đất của dân Ghê-ra-sa, vùng đất dân ngoại, ở đó Ngài đã chữa lành một người bị quỷ ám nguy hiểm; dân làng sợ hãi xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Vì thế, Ngài xuống thuyền, trở sang bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất Ít-ra-en. Tức khắc “một đám rất đông tụ lại chung quanh Ngài”. Đây là nét tiêu biểu của Tin Mừng Mác-cô, thánh ký thích ghi lại những chuyển động của dân chúng: “đám đông tuôn đến với Ngài”, “họ đến với Ngài”, “họ đi theo và chen lấn Ngài”, “họ thích thú lắng nghe Ngài”, vân vân.
Và nầy, một viên trưởng hội đường rẻ đám đông đến gặp Ngài. Viên chức sắc Do thái nầy bày tỏ lòng kính trọng và niềm tin tưởng vào Đức Giê-su: ông phủ phục dưới chân Ngài và khẩn thiết nài xin Ngài đến cứu giúp đứa con gái thập tử nhất sinh của ông. Phải ghi nhận rằng bản văn của Mác-cô có nhiều sắc thái sinh động hơn bản văn của Mát-thêu và Lu-ca. Viên trưởng hội đường nói lên ước nguyện của mình: “Xin Ngài đến đặt tay trên cháu”. Ông đã chứng kiến nhiều lần Đức Giê-su chữa lành bệnh tật bằng cách đặt tay. Đáp lại niềm tin tưởng đầy cảm động của ông, Đức Giê-su liền ra đi với ông. Nhưng trên đường đi, trong đoàn người chen chúc nầy, xuất hiện một người phụ nữ mắc bệnh băng huyết từ mười hai năm rồi vẫn vô phương cứu chữa.
2.Chúa Giê-su với người phụ nữ mắc bệnh nan y.
Thánh Mác-cô thường giữ cung giọng trực tiếp và bình dân cho câu chuyện của mình: “Có một người phụ nữ kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều lần đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác”. Thánh Lu-ca, thầy thuốc, sẽ giữ chừng mực hơn trong ngôn từ của mình: “Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa được” (Lc 8: 43).
Theo văn hóa Do thái, bệnh tình của bà là trường hợp nghiêm trọng về luật thanh sạch, vì máu là điều cấm kỵ. Vì thế, tuyệt đối cấm không ai được đụng chạm đến bà để khỏi làm cho mình ra ô uế (Lv 15: 19-30). Đó là lý do tại sao bà lẫn mình vào trong đám đông để không ai nhận ra và rón rén tiến lại phía sau Ngài vì bà không thể công khai cầu xin Ngài chữa bà. Bà hy vọng mình được chữa lành một cách vụng trộm. Cử chỉ của bà thật khiêm tốn: không tìm kiếm bất cứ điều gì ngoài một ước nguyện đơn giản: “Tôi mà sờ được áo Người thôi, là sẽ được cứu”.
“Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”. Đừng hiểu những từ ngữ nầy theo mặt chữ. Thật ra, Đức Giê-su biết người phụ nữ nầy là ai và bà đang nghĩ gì trong lòng. Thánh Mác-cô đề cao quyền năng của Đức Giê-su được xem như một loại năng lực có thể phát huy tác động một cách riêng biệt và hầu như độc lập, vì thế thánh ký diễn tả theo quan niệm dân gian về các danh y thời đó. Chúng ta không gặp thấy tư tưởng như thế tại thánh Mát-thêu: trong câu chuyện của mình, Đức Giê-su liền quay lại thấy bà, và nói với bà mà không cần chờ đợi lời giải thích của bà: “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mt 8: 22). Trái lại. thánh Lu-ca bày tỏ cùng một cách thức như thánh Mác-cô. Nhiều lần thánh Lu-ca viết: “Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (Lc 6: 19). Trong câu chuyện nầy, thánh Lu-ca diễn tả như thánh Mác-cô: “Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra” (Lc 8: 47).
Những ghi nhận của Mác-cô và Lu-ca nầy đã làm tốn không biết bao giấy mực, thậm chí có người tự hỏi phải chăng những chi tiết này phát xuất từ các sách tin mừng ngụy thư. Riêng cử chỉ của người phụ nữ còn thúc đẩy các nhà chú giải đề xuất biết bao lời giải thích. Ông Calvin phát hiện ở nơi cử chỉ của người phụ nữ nầy thái độ tương tự như thái độ tôn thờ các thánh tích mà ông kết án. Theo cùng một tinh thần, các nhà phê bình khác so sánh câu chuyện nầy với các câu chuyện được tường thuật trong sách Công Vụ: bệnh nhân được chữa lành nhờ khăn và áo đã chạm đến da thịt của thánh Phao-lô (Cv 19: 11) hay nhờ cái bóng của thánh Phê-rô chạm đến (Cv 5: 15).
Vấn đề vẫn luôn luôn được đặt ra. Tất cả việc chữa lành nhờ đụng chạm đến thánh tích nào đó được định vị trên một đỉnh núi nguy hiểm mà triền dóc nầy là lòng mộ đạo hay triền dóc kia là mê tín dị đoan. Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn trọng khi đọc bản văn Tin Mừng; bài học rất sáng tỏ. Rõ ràng Đức Giê-su giúp người phụ nữ hiểu: bà không được chữa lành vì bà đã chạm đến áo của Ngài, nhưng vì bà đã có niềm tin: “Nầy bà, đức tin của bà đã chữa bà”. Quả thật, trong đám đông chen lấn quanh Ngài, không thiếu những người đã chạm đến áo của Ngài, nhưng không nhận được bất cứ ân ban nào. Để đón nhận ân sủng của Đức Giê-su, cần thiết phải có một thái độ sẵn sàng bên trong. Cũng xảy ra như vậy đối với việc phục sinh con gái viên trưởng hội đường: cô bé được sống lại là nhờ lời đáp trả của Đức Giê-su cho đức tin của người cha.
3.Đức Giê-su với viên trưởng hội đường.
Người nhà viên trưởng hội đường thông báo cho ông: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?”. Đối với họ, quyền năng của Đức Giê-su cũng chỉ là quyền năng chiến thắng bệnh tật. Chắc chắn viên trưởng hội đường cũng đồng quan điểm với họ. Nghe thế, Đức Giê-su nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu chúng ta muốn nắm bắt nét nghĩa của động từ được Mác-cô dùng ở đây, phải dịch: “Hãy kiên vững trong đức tin của ông”, có nghĩa ông có đức tin rồi và phải tiếp tục tin. Như vậy, Ngài mở cho người cha đau khổ nầy một con đường hy vọng. Vì thế, ông không ngăn cản Đức Giê-su nhưng để Ngài vào nhà ông.
Chúng ta sẽ tham dự vào một hoạt cảnh tương tự ở Bê-ta-ni trong câu chuyện phục sinh La-da-rô, em trai của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” (Ga 11: 39). Đức Giê-su trả lời bằng cách đòi hỏi chị phải tin vào Ngài: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11: 40).
4.Ý nghĩa của cái chết:
“Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. Ngài cũng sẽ nói với các môn đề về cái chết của anh La-da-rô như vậy: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11: 11). Đây không là một hình bóng, nhưng là một sự khẳng định mang tính mặc khải: cái chết chỉ là một giấc ngủ khai mở sự sống, như chúng ta đã gặp thấy nhiều lần trong văn chương Kinh Thánh cũng như ngoài Kinh Thánh. Tất cả chi tiết của hoạt cảnh đều tuân theo chiều hướng nầy.
Sau khi vào nhà viên trưởng hội đường, Đức Giê-su truyền lệnh cho mọi người ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ và ba người môn đệ cùng đi với Ngài, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan, vào nơi đứa bé đang nằm. Đức Giê-su cầm lấy tay đứa bé và nói: “Ta-li-tha-kum” (“Ta-li-tha”: “cô bé”, và “kum”: “hãy chỗi dậy”). Mác-cô đã bảo tồn từ A-ram, ngôn ngữ nói của Đức Giê-su, trong bản văn của mình.
“Hỡi cô bé, hãy chỗi dậy”, động từ “chỗi dậy” sẽ trở thành thuật ngữ để chỉ biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô. Cô bé liền chỗi dậy và đi lại được. Đức Giê-su bảo họ cho đứa bé ăn. Lời dặn dò nầy có một mục đích tức thời, nhằm cho cha mẹ của cô bé hiểu rằng cô bé thật sự sống lại chứ không là một bóng ma. Cũng vậy, sau khi sống lại, Đức Giê-su cũng hỏi các môn đệ còn nghi nan ngờ vực: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24: 41). Tuy nhiên, lời dặn dò nầy còn mặc khải một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, cử chỉ nầy mang tính biểu tượng và ngôn sứ: việc chỗi dậy bên kia cái chết mở ra những thực tại thần thiêng mà các ngôn sứ đã diễn tả bằng những hình ảnh về bàn tiệc Thiên Chúa: bữa ăn cánh chung.
“Cô bé đã mười hai tuổi”. Con số “mười hai” cũng có giá trị dấu chỉ: con số của sự tuyển chọn. Thánh Mác-cô đã dùng con số nầy rồi đối với người phụ nữ mắc bệnh băng huyết đã “mười hai” năm. “Mười hai” Tông Đồ, nối nghiệp mười hai chi tộc Ít-ra-en, là dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa. Trong sách Khải Huyền, con số người được tuyển chọn là “một trăm bốn mươi bốn ngàn” người, tức là gấp ngàn lần của 12 x 12 (Kh 7: 4).
5.Những nhân chúng:
Ngoài cha mẹ của đứa bé ra, những nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái là ba Tông Đồ, Phê-rô, Gia-cô-bê, và Gioan. Chính ba vị Tông Đồ nầy sẽ được Đức Giê-su dẫn lên núi để chứng kiến cuộc Biến Hình của Ngài. Trong câu chuyện Biến Hình, khi “các ông kinh hoàng ngã sấp mình xuống đất”, Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ” (Mt 17: 7). Cũng là cử chỉ và lời nói mà Ngài đã làm và nói với con gái của viên trưởng hội đường. Có một mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình; đây là hai khía cạnh bất khả phân sau cái chết.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-Năm B
CON GÁI ÔNG GIAIRÔ VÀ NGƯỜI ĐÀN BÀ MẮC BỆNH BẤT TRỊ- Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Giống như Matthêu (9,18-26) và Luca (8,40-56) ở đây Maccô cũng gói ghém hai mẩu chuyện vào chung một trình thuật. Ngoài ra người ta cũng tìm thấy ở đây cách mô tả Maccô vẫn thường dùng (x.3,20-35). Trình thuật diễn tiến như sau: Giairô van nài (c.21-24); chữa lành người đàn bà mắc bệnh bất trị (c.25-34) Phục Sinh con gái ông Giairô (c.35-43).
Sở dĩ các trình thuật được nối với nhau như thế là vì chúng có những điểm chung với nhau. Trước hết hai khuôn mặt chính trong trình thuật này là phái nữ: một người đàn bà và một bé gái. Và ở cả hai trường hợp, đức tin vẫn đóng vai trò trọng tâm trong tiến trình đến gặp Chúa Giêsu.
Vậy là Chúa Giêsu và các môn đệ đã về lại bờ hồ ở mạn tây thuộc vùng đất Israel. Một lần nữa, đám đông đã chờ sẵn ở đó (c.21). Họ tụ lại để xem Chúa Giêsu biểu diễn quyền năng cứu độ của Ngài. “Một ông trưởng hội đường tên là Giairô tiến đến” (c.22a). viên chức sắc Do Thái này tỏ ra rất kính trọng và tin cậy Chúa Giêsu (c.22b). lời cầu xin của ông ta biểu lộ một lòng tin sâu xa. Con gái nhỏ của ông đang trong cơn thập tử nhất sinh (c.23). Chẳng cần thốt một lời, Chúa Giêsu đủ nhạy cảm trước nỗi đau của một con người mang trong lòng niềm tin vào Ngài lớn lao như thế. Ngài liền đi theo ông ta, đàng sau là đám đông chen lần nhau tò mò sấn tới…
Và trong đoàn người chen chúc này xuất hiện một người phụ nữ. Bà ta bị rong huyết mạn tính từ mười hai năm rồi (c.25). trong các tác giả Tin Mừng, chỉ mỗi Maccô nêu rõ tình trạng vô vọng của bệnh nhân, các y sĩ thời đại tiền khoa học ấy chỉ tổ làm cho bệnh của bà ta tệ hơn mà thôi (c.26). Tuy nhiên, điều cần chú ý hơn hết ở đây là theo luật Do Thái, người phụ nữ này bị rơi vào tình trạng ô uế xét về mặt luật pháp, và tuyệt đối cấm không ai được đụng chạm với chị (Lv 15,19-27). Thế mà niềm tin mạnh mẽ đã thôi thúc bà ta rán lấn tới đụng cho được vào áo Chúa Giêsu từ phía sau lưng Ngài, dù chỉ là trong chớp nhoáng (c.27). Đối với chúng ta ngày hôm nay, cử chỉ này xem ra có vẻ khôi hài, nhưng Maccô đã cho chúng ta rõ lý do tại sao bà ta lại làm thế (c.28).
Ở phương Đông thời xưa, y phục là biểu tượng của nhân cách. Chạm vào y phục ai tức là đụng vào chính kẻ ấy. Và thời xưa ấy thường thấy có sự đụng chạm giữa người bệnh và thân thể người điều trị. Ở đây sự đụng chạm này đã có kết quả, bệnh rong huyết của người phụ nữ này dừng lại lập tức. Chi ta cảm thấy mình đã được bình phục (c.29). Về phía Chúa Giêsu, Ngài nhận thức ngay quyền năng nơi Ngài hoàn toàn hữu hiệu (c.30a). Ở đây khía cạnh sinh lý của việc lành bệnh được nhấn mạnh, tuy nhiên màn kế tiếp lại lôi kéo người ta chú ý đến vấn đề tôn giáo có liên quan. Chúa Giêsu hỏi ai đã chạm vào Ngài (c.30b). Âm giọng và câu hỏi Ngài thốt ra nghe như có vẻ trách cứ. Các môn đệ xem ra chẳng chú tâm đến câu Ngài hỏi bởi vì giữa một đám đông đang chen lấn xô đẩy tứ phía như thế mà Thầy lại hỏi: “Ai đã chạm đến Ngài?” thì quả là tức cười! Tuy nhiên, như thường lệ, Chúa Giêsu đảo mắt dò xét đám đông. Ngài muốn biết chủ nhân của hành vi táo bạo ấy (c.32). Bấy giờ người phụ nữ run sợ, thú nhận với Ngài lý do bà ta được chữa lành (c.33). Bà ta cảm thấy ái ngại, chờ đón lời quở trách của vị Tôn Sư thượng tôn luật lệ. Thế mà Chúa Giêsu lại trao cho bà sứ điệp giải phóng: “Lòng tin của con đã chữa con, hãy đi về bình an” (c.34). Lời nói của Chúa Giêsu làm nổi bật ý nghĩa sự cố này, đức tin mang lại ơn cứu rỗi mới là điều quan trọng, còn hơn cả việc lành bệnh về mặt thể lý. Không phải tình cờ mà Chúa Giêsu lập lại thành ngữ người phụ nữ đã sử dụng khi bà ta cầu mong: “Tôi sẽ được chữa khỏi” (c.28b). Và toàn bản văn trên nhằm cho thấy rõ đức tin vào Chúa Giêsu có thể mang lại kết quả là được Ngài ban cho một phép lạ hoàn toàn bất ngờ. Kể từ đó, dù cho người phụ nữ vô danh này không bao giờ được nhắc tới nữa thì Maccô cũng vẫn đã thành công trong công việc chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng giải thoát khỏi mọi sự dữ. Bởi vì ở đây gồm hai chiều kích vừa là căn bệnh bất trị vào thời đó, và còn hơn thế nữa, vừa hầu như bị khai trừ “ra khỏi lề luật” của cộng đoàn tôn giáo khởi nguồn từ các tổ phụ.
Tiếp nối việc chữa lành cho người phụ nữ bị xuất huyết là câu chuyện dang dở về đứa con gái của ông Giairô (c.21-23), Chúa Giêsu đang theo ông ta để tới chữa trị cho con gái của ông đang hấp hối (c,24), thì người nhà chạy tới báo cho ông ta hay đứa bé đã qua đời. Thế thì “làm phiền Thầy chi nữa” (c.35). Lời họ cho thấy rõ họ thiếu đức tin. Chúa Giêsu đâu chịu đầu hàng trước trở ngại mới xảy đến này. Ngài nói với người cha đang chịu thử thách: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36). Trong trường hợp thực sự bi đát này, đây quả là lời kêu gọi hãy cẩn trọng một cách thật phi thường. Và không chần chờ thêm, Chúa Giêsu đã bắt tay vào hành động (c.37). Bên cạnh Ngài là bộ ba môn đệ được Ngài mến chuộng, ba vị này sẽ được Ngài cho tham dự vào cuộc biến hình (9,2) và cơn hấp hối của Ngài (14,33). Điều này đủ nói lên tầm quan trọng của sự kiện Chúa Giêsu sắp làm. Sau khi tới nhà ông Giairô, Chúa Giêsu đụng ngay đám người đang than khóc (c.38). Ở phương Đông tang chế thường om sòm huyên náo như thế muốn khỏa lấp đi sự bất lực của con người trước cái chết. Chúa Giêsu bước vào và muốn thuyết phục đám người than khóc nín đi. Theo Ngài thì đứa bé không chết, nó chỉ ngủ thôi (c,39b). Nghe thế người ta liền chế nhạo Ngài (c.40a). Maccô cẩn thận ghi rõ sự “không tin” của đám người này. Thế rồi Chúa Giêsu đuổi họ ra (c.40b). Và Ngài bước vào trong căn phòng đứa bé đã chết, chỉ bố mẹ đứa bé và ba môn đệ đươc phép theo vào (c.40c). Ở đây, trong bầu khí đức tin thân mật, Ngài thực hiện một cử chỉ đơn giản và thốt ra một lời cứu độ (c.41). Maccô đã cẩn thận bảo tồn những lời chính Chúa Giêsu thốt ra bằng tiếng mẹ đẻ của Chúa, tức tiếng Aram đồng thời dịch lời đó ra cho các độc giả của ông. Nên nhớ kỹ thuật dụng ngữ “hãy chỗi dậy” – nghĩa văn chương là hãy thức dậy – chính là dụng ngữ sẽ được dùng để chỉ cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu (16,6). Em bé lập tức được hồi sinh (c.42). Em đứng dậy bước đi. Sau đó các nhân chứng ra về nhưng như thường lệ Chúa Giêsu yêu cầu họ phải giữ im lặng tuyệt đối (c.43a). Sở dĩ Chúa Giêsu thường đòi buộc các người thân của Ngài giữ bí mật về Đấng Mêsia là vì đám quần chúng không đủ khả năng nhận biết Chúa Giêsu có quyền năng siêu việt trên sự chết. Quyền năng ấy chỉ có thể được nhận biết và được loan báo cho mọi người sau khi Chúa Phục Sinh. Và Maccô đã kết thúc bức tranh đầy màu sắc này bằng một chi tiết thi vị nói lên được nhiều ý nghĩa (c.43b). Toàn thể gia đình Giairô sau khi xáo động về sự cố đứa bé vừa sống lại, có thể trở về cuộc sinh hoạt bình thường và chính cô bé (12 tuổi) nữa cũng thế, như thể không có việc gì xảy ra.
Dù vẫn mang nét rung động trước hành vi nhân đạo của Chúa Giêsu, trình thuật trên vẫn để lộ ra đặc tính truyền đạt giáo lý. Maccô đang ngỏ lời với các Kitô hữu Rôma khá lâu sau biến cố Phục Sinh. Được đọc lại dưới ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu, trình thuật trên giống như một dự báo về những sự cố sẽ đến. Người ta có thể hiểu câu nói “Họ chế nhạo Ngài” là câu ám chỉ đến những giễu cợt, nhạo báng mà sau này Chúa Giêsu sẽ chịu trước mặt các trưởng tế và luật sĩ khi Ngài bị treo trên thập giá (15,31). Và đồng thời người ta cũng nhận ra cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu đã được đề cập tới qua việc Chúa làm cho cô bé đứng dậy (c.41).
Trình thuật này kết thúc một chuỗi bốn hành vi quyền phép của Chúa Giêsu (4,35-5,43). Dẹp yên bão tố, chữa lành kẻ bị quỷ ám ở Giêrasa, chữa lành người phụ nữ vô danh và bé gái con ông Giairô là những bằng chứng về quyền năng tối thượng của Chúa Giêsu trên sự sống lẫn sự chết. Người ta có thể đặt đề tựa cho toàn bộ các hành vi quyền phép này bằng câu tuyên bố trong thư thứ nhất thánh Phaolô gởi Kitô hữu Côrintô: “Hỡi thần chết, chiến thắng ngươi ở đâu” (15,55).
Và sau lời giảng dạy dựa trên dụ ngôn (4,1-34), tiến trình trên đây đã trình bày cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là một vị tiên tri quyền năng không chỉ trong lời nói mà còn trong cả hành động. Ngài hoàn toàn chiến thắng sức mạnh Thần dữ và Thần chết. Qua đó các môn đệ hẳn phải suy nghĩ về nhân cách kỳ lạ của Thầy mình!

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CHỮA LÀNH PHỤ NỮ BĂNG HUYẾT VÀ PHỤC SINH CON GÁI ÔNG GIAIRÔ- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1) Ơn cứu rỗi được ban trong Chúa Giêsu Kitô.
Cả hai phép lạ đều cho thấy ơn cứu rỗi được ban cho con người. Giairô đến xin Chúa Giêsu cho con gái ông “được sống và được cứu”; bà băng huyết tìm cách sờ đến Chúa Giêsu vì tin chắc sẽ được cứu. Cả hai đã kinh nghiệm về sự bất lực của con người trong việc tìm lấy ơn cứu rỗi. Chính trong ý thức ấy đã vạch ra niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng duy nhất có thể cứu con người ra khỏi tình thế tuyệt vọng mà trong đó họ đã chìm đắm. Nhưng đức tin không phải là một sự hiển nhiên, vì Chúa Kitô bị che dấu giữa đám đông đang mỉa mai Người và đang chuẩn bị từ bỏ Người. Người là Đấng duy nhất có thể cứu, nhưng cũng chỉ những ai tin mới phân biệt được trong sự yếu đuối phàm nhân của Người sức mạnh của Thiên Chúa và như thế mới nhận được ơn cứu rỗi. Trong Giairô và người đàn bà bị băng huyết, Maccô trình bày cho ta hai tấm gương giống nhau về thái độ tự ý của kẻ tin và việc Chúa Giêsu trả lại họ. Bên kia các phép lạ của thể lý, thánh sử cho ta cảm nhận sự sống tràn đầy mà Cứu Chúa ban cho Kitô hữu từ khi Người được tôn vinh nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
2) Biến cố.
Nhưng nếu giáo huấn của hai trình thuật song song với nhau, thì độc giả ngày nay có thể thắc mắc: trường hợp sau phải chăng là một cuộc sống lại thực sự? Không thể chấp nhận rằng truyền thống Kitô giáo đã bày đặt toàn thể các phép lạ được gán cho Chúa Giêsu và óc khoa học vô tôn giáo chẳng triệt để từ chối sự có thể có nhiều hiệu quả phi thường do một vài mãnh lực huyền bí phát xuất từ những nhân vật ngoại hạng. Hiển nhiên óc khoa học đó không thể chấp nhận sự phục sinh của Chúa Kitô cũng như của một kẻ nào khác. Còn Kitô hữu tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô và vào quyền lực hiện tại của Người đối với sự chết, quyền lực mà Người sẽ thi thố trên thân xác chúng ta trong ngày cánh chung. Nhưng có phải trình thuật chúng ta quá rõ rệt đến nỗi phải kết luận rằng đây đúng là cuộc phục sinh con gái Giairô không?
Khi lấy lại trình thuật của Maccô, và hơn cả Luca, Matthêô đã nhấn mạnh đến thực tại cái chết của đứa bé; thật vậy nơi ông, Giairô đã minh nhiên đến cầu xin cho con gái sống lại. Ta phải chấp nhận rằng truyền thống Maccô là xưa nhất và cũng là phù hợp với thực tế nhất: thật vậy, người ta không thấy tại sao truyền thống Matthêô là truyền thống tường thuật rõ ràng một cuộc phục sinh, lại có thể đã bị Maccô che dấu đến nỗi trong trình thuật của Mc, lời Chúa Giêsu tuyên bố “Đứa bé không chết, nó ngủ đấy thôi” có thể cho hiểu là theo ông, nó không chết thật. Như cha Lagrange đã viết Maccô “không làm yếu đi những điểm xem ra dẫn đến giả thuyết một sự hôn mê” (Evangile selon saint Marc, Paris, 1942, tr. 146).
Khi thốt lên câu ấy, Chúa Giêsu chưa thấy đứa trẻ và sự vô tri mà Người vừa biểu lộ trong trường hợp người đàn bà băng huyết khiến ta nghĩ rằng Người không biết trạng thái chính xác của đứa trẻ. Không thể giải thích câu “Nó không chết, chỉ ngủ đấy thôi” như là lời khám bệnh của một bác sĩ. Vì thế phải tránh xác định câu đó, dầu trong nghĩa hôn mê hay chết thật. Chúng ta không thể biết điều mà Chúa Giêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy và Maccô không cho phép ta trả lời câu hỏi nầy vì ông đã chẳng viết với một não trạng khoa học như não trạng chúng ta ngày nay. Đối với ông, sự khác biệt căn bản mà chúng ta đặt giữa cái chết và hôn mê không có vì trong não trạng tôn giáo của ông, cái chết và bệnh tật đều phát xuất từ ảnh hưởng của tội và của ma quỷ. Thành ra chúng ta không thể xác định lời tuyên bố của Chúa Giêsu, dù cho theo nghĩa chết thật hoặc hôn mê. Chúng ta sẽ không bao giờ biết điều Chúa Ciêsu đã nghĩ trong trường hợp ấy, vì những lời của người được truyền lại cho ta trong một bối cảnh thuần túy tôn giáo muốn loan báo ơn cứu rỗi được ban cho người tin hơn là xác định bản chất đích thực của phép lạ được thực hiện. Vì dù đề cập đến một cuộc chữa lành hay một sự phục sinh thật, thì trình thuật Maccô cũng chỉ muốn thúc giục ta trả lời câu hỏi sau đây: hôm nay chúng ta có tin là Chúa Kitô phục sinh có thể loan ơn cứu rỗi và sự chiến thắng cái chết cho chúng ta không?
Jean Potin, Assemblécs du Setgneur 44, tr.38-47.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Qua bài Tin mừng, ta thấy được thế nào là sức mạnh của đức tin. Đức tin giúp thắng vượt những nghi ngờ: Giairô mà không cần những hiển nhiên, những lý luận nhân loại. Đức tin giúp thắng vượt những rụt rè nhút nhát: nhờ tin mà người đàn bà băng huyết chế ngự được nỗi sợ hãi, sợ gây ô uế cho người ta, sợ đám đông phát giác; bà đã tin rằng năng lực chữa bệnh và cho sống lại của Chúa Giêsu còn mạnh hơn sự truyền nhiễm cơn bệnh mà bà đau khổ đã 12 năm. Thật là một niềm tin mạnh mẽ, mạnh mẽ như niềm tin của người bất toạt dám dỡ mái nhà để moi cho được lòng tốt của Chúa (Mc 2,1-12) như niềm tin của người trộm lành, trong một lần hành nghề cuối cùng, đã ăn trộm Thiên đàng khi tin vào lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu. Đức tin có thể chuyển núi dời non lay động được quả tim Thiên Chúa.
2) Nên chú ý tới hai khía cạnh trong câu hỏi của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ bị bệnh băng huyết. Chúa Giêsu dùng việc chữa lành bệnh mở đầu một cuộc đàm thoại. Thứ đến Người dạy: việc Người làm vượt xa hơn việc chữa lành thể xác: Người cứu được nếu người ta tin vào Người.
Bà ấy không lầm khi hy vọng rằng chỉ sờ vào gấu áo của Chúa Giêsu là sẽ được lành bệnh. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một sức mạnh tác động nặc danh. Một thành phần bị quên lãng, bị khuất giữa đám đông đều là người mà Chúa Giêsu lưu ý đến. Tại đây chúng ta thấy Chúa nói với bệnh nhân: Đối với người, bà không phải là một con số giữa đám đông. Người đưa dịp cho bà trở lại, cho bà ý thức, cho bà đàm thoại. Người hành động như thế để cho bà hiểu: đối với Chúa, bà cũng có phẩm giá con người. Cuối cùng Người nói với bà: “Con ơi, đức tin đã cứu con”. Trong kiểu nói của thánh Maccô, chữ Cứu có nghĩa là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã đưa chúng ta từ cảnh trụy lạc, tội lỗi đến sự sống lại với Người. Lúc đó bà băng huyết chưa hiểu nổi lời Người. Chúng ta nhờ Tin mừng hiểu được điều ấy.
Đức tin của tôi vào Chúa Kitô có sống động đến nỗi thấm nhiễm vào các nỗi đau khổ của tôi và sự chết của tôi, một sức mạnh, một sự sống cao độ không? Tôi có cảm thấy vui mừng khi thiết rằng Chúa Giêsu lưu ý đến một cách riêng không?
3) Bài Tin mừng hôm nay còn cho thấy đức tin có nhiều cấp độ. Đầu tiên là đức tin sơ khai của ông Giairô lúc mới đến gặp Chúa Giêsu. Bất lực trước đau khổ, ông đi tìm Chúa Giêsu vì nghe rằng Người có một quyền năng thần thông nào đó thứ đến là đức tin tính toán, vụ lợi, hơi mê tín của người đàn bà lén đến bên Chúa Giêsu, mong ăn cắp được sức mạnh kỳ diệu từ nơi Người, nhưng rồi khi bị phát giác, đức tin của bà tiến lên cao hơn, trở thành một cuộc gặp gỡ, đối thoại, tương giao với Chúa Giêsu; và sau cùng là đức tin trọn vẹn của Giairô tin vào Đấng phục sinh được kẻ chết.
Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, hình như đức tin cũng vượt qua các cấp độ đó. Đầu tiên chúng ta đã tin vào Thiên Chúa vì thất vọng trước sức con người, vì tự bản năng cảm thấy phải bám víu, cầu khẩn một Đấng cao hơn. Rồi tới khi biết được quyền năng của Thiên Chúa, thấy bao kỳ công Ngài đã làm trong lịch sử, qua Thánh Kinh, ta lại có khuynh hướng lợi dụng Ngài, giữ đạo là chỉ mong được muôn ơn phúc hồn xác, bất mãn khi gặp thất bại hoạn nạn. Dần dần đức tin ta được thanh lọc, biến thành một cuộc gặp gỡ đối thoại với Thiên Chúa, gắn bó vào Ngài trải qua mọi thử thách. Nhưng rồi phải tiến lên cao hơn nữa, biến thành đức tin vào sự phục sinh, tin rằng dù bề ngoài có vẻ như tan vỡ, tận diệt, vẫn có một đời sống mới cả hồn lẫn xác chờ ta bên kia thế giới, bên kia cái chết, bên kia thời gian, tin rằng Thiên Chúa có quyền năng đổi mới mọi sự cho ta và cho mọi người. Sách Khôn ngoan được soạn khoảng thế kỷ thứ I trước công nguyên. Đây là một sưu tập những tư tưởng khôn ngoan của các bậc hiền triết của nhiều thế hệ.
Trích đoạn sách Khôn ngoan này chứa đựng chân lý nền tảng về sự sống và sự chết :
– Thiên Chúa tạo dựng loài người giống hình ảnh Ngài, để cho loài người được sống vĩnh viễn.
– Nhưng sở dĩ có sự chết là vì tội lỗi.
Đáp ca (Tv 29)
Tv này ca tụng Thiên Chúa như là chủ tể của sự sống. Những ai vì tội lỗi mà bị đẩy đến ngưỡng cửa sự chết nhưng biết kêu cầu Ngài thì sẽ được Ngài cứu sốnhg.
Tin Mừng (Mc 5,21-43)
Trích đoạn này gồm hai phép lạ, và cả hai đều liên quan đến sự sống :
– Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống : máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục 12 năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Ngài trả lại sức sống cho bà.
– Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
Cả hai trường hợp được cứu sống đều nhờ đức tin : đức tin của người phụ nữ loạn huyết và đức tin của ông Giairô.
Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta còn nghe một lời giáo huấn rất ý nghĩa của Đức Giêsu : Cái chết thể xác chỉ là một giấc ngủ.
Bài đọc II (2 Cr 8,7.9.13-15)
Mục đích của Phaolô khi viết đoạn thư này cho tín hữu Côrintô là nhằm lạc quyên giúp cho giáo đoàn Giêrusalem đang bị nạn đói.
Phaolô đưa những lý do động viên họ quảng đại bố thí :
– Hãy noi gương quảng đại của Đức Giêsu : dù giàu sang, Ngài đã tự ý trở thành nghèo khó để làm cho loài người được giàu có.
– Tín hữu phải biết chia xẻ cho nhau để ai nấy đều có mức sống đồng đều với nhau : sự dư dả của người này bù đắp sự túng thiếu của người kia. Có như thế, “Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít thì cũng không thiếu”.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Đức tin nối lại nhịp cầu đã gãy
Giả sử như chúng ta đã đi hết nửa đoạn đường, sắp bước chân qua cầu để sang bờ bên kia đi tiếp đoạn đường còn lại, thì bỗng chiếc cầu sụp đổ rơi tòm xuống sông. Khi đó chúng ta làm thế nào ? Chắc là muốn quay trở về đoạn đường cũ.
Người đàn bà mắc bệnh loạn huyết và Ông Giakêu cũng lâm vào một tình cảnh khó xử như vậy :
. Loạn huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ dáy về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội : thật là khó xử.
– Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa !
Cả bà loạn huyết và ông Giairô đều như sắp bước qua cầu thì chiếc cầu sụp gãy. Thế nhưng họ không quay trở lại bỏ dở đoạn đường. Họ vẫn cố gắng tiến bước :
. Bà loạn huyết không dám rờ vào mình Đức Giêsu thì rờ vào cái tua áo của Ngài vậy.
. Còn ông Giairô thì trong lúc chới với đó đã nghe Đức Giêsu an ủi “Đừng sợ, cứ tin”. Và kết quả là bà kia dứt bệnh, Con gái ông Giairô sống lại. Đức tin của họ đã nối lại nhịp cầu gãy.
Trên đây là 2 trường hợp giúp chúng ta hiểu bản chất của đức tin và sức mạnh của đức tin.
. Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin, đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi.
. Đức tin, một nhân đức căn bản của đạo, phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người, vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ, bởi vì trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa thì có thể là đượhôi !”
Ông Giairô đã đi tìm Đức Giêsu khi con gái ông hấp hối. Khi mời được Ngài theo ông về nhà thì lòng ông tràn trề hy vọng, nhưng có lẽ cũng hồi hộp lo âu vì không biết về tới có còn kịp không. Đang lúc gấp như vậy thì kẹt chuyện người đàn bà loạn huyết khiến cuộc hành trình bị tạm dừng. Chắc ông Giairô sốt ruột thêm. Cuối cùng thì chuyện người đàn bà ấy cũng giải quyết xong và Đức Giêsu tiếp tục cùng ông về nhà. Hy vọng lại sáng lên. Đột nhiên, người nhà chạy đến báo tin : “Con gái ông chết rồi. Làm phiền Thầy chi nữa”. Tất cả hy vọng chợt tắt ! Thế là hết. Còn làm gì được nữa. Tiếp tục dẫn Đức Giêsu về nhà chỉ là làm phiền Ngài thêm thôi. Chắc lúc đó Ông Giairô định nói lời cám ơn Đức Giêsu để mau về nhà lo chuyện mai táng cho con gái.
Nhưng, đúng lúc đó, Đức Giêsu nói một câu rất là khích lệ : “Đừng sợ. Chỉ cần tin thôi”. Nhờ câu này, Giairô tiếp tục đưa Đức Giêsu về nhà. Và sau đó là phép lạ. Sau nay nghĩ lại, Ông Giairô hẳn là rất vui mừng vì khi đó ông đã không tuyệt vọng.
Xin Chúa hãy thường xuyên nói vào tai con “Đừng sợ, Chỉ cần tin thôi”. Con rất cần nghe lời động viên đó, vì rất nhiều lần con thấy không còn làm gì hơn được nữa nên muốn buông xuôi bỏ cuộc.
Hình thức lề luật
– Bài Tin mừng hôm nay thuật lại 2 việc làm của Đức Giêsu. Những việc này không chỉ nhằm chứng tỏ quyền năng của Chúa trên bệnh hoạn và sự chết, mà còn cho chúng ta thấy thái độ và lập trường của Chúa đối với những luật lệ khắc khe và khô cứng của đạo Do thái thời đó.
– Trước hết là việc Chúa chữa cho một người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Theo luật Do thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng dơ dáy, ô uế, cho nên không được vào Đền thờ, không được tham dự các lễ nghi phượng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn. Khỏi cần nói nhiều, chúng ta cũng hiểu bà này đau khổ như thế nào. Trong cơn đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình đâu vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế. Vì thế mà bà này phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết. Khi Đức Giêsu hỏi “Ai đã đụng đến ta ?” thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu chẳng hề quở trách bà một lời nào, trái lại còn làm cho bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà “Con hãy đi bình an”.
– Sang câu chuyện của ông Giairô. Ông là Trưởng Hội Đường, nghĩa là một viên chức tôn giáo, một người có trách nhiệm bảo vệ luật đạo. Trước đó ông đã đến xin Đức Giêsu đến nhà ông chữa trị cho con gái ông sắp chết. Đang khi Đức Giêsu cùng đi với ông về nhà thì xảy ra câu chuyện của người đàn bà mắc bệnh loạn huyết mà ta vừa nói ở trên. Bà này đã đụng vào Đức Giêsu nên theo luật thì Đức Giêsu đã trở thành người ô uế. Nếu Đức Giêsu mà vào nhà ông thì cũng theo luật đó, tới phiên nhà ông cũng bị lây nhiễm ô uế luôn. Và việc đó sẽ gây hậu quả to lớn bởi vì như ta đã biết, ông là Trưởng Hội đường, nếu ông không giữ luật mà còn để nhà ông bị Đức Giêsu làm thành ô uế thì có thể ông mất chức luôn. Đang lúc đó thì lại xảy thêm một diễn tiến nữa : Người nhà ông chạy đến cho hay là con gái ông đã chết rồi, đừng làm phiền Đức Giêsu nữa. Trước những sự kiện dồn dập như thế, ông Giairô không còn ý định mời Đức Giêsu về nhà mình nữa. Nhưng Đức Giêsu bảo ông : “Đừng sợ gì cả (nghĩa là : Ông đừng sợ làm phiền tôi, cũng đừng sợ bị lây ô uế), điều cần nhất là lòng tin”. Giairô đã tin Chúa, không còn ngại sợ gì nữa, mời Chúa về nhà, Đức Giêsu cầm lấy tay đưa đứa bé đã chết và truyền cho nó sống lại. Thêm một chi tiết đáng lưu ý : Theo luật thì xác chết cũng là một thứ ô uế, ai đụng tới xác chết thì sẽ bị nhiễm ô uế. Nhưng ta đã thấy, một lần nữa Đức Giêsu đã tỏ ra bất chấp…
– Sau khi nghe giải thích 2 việc làm táo bạo của Đức Giêsu, chúng ta nghĩ sao về Chúa ? Có phải Ngài chủ trương phá bỏ tất cả mọi lề luật không ? Chắc chắn là không, bởi vì Ngài đã từng tuyên bố rõ : “Các ngươi tưởng là Ta đến để huỷ bỏ lề luật ư ? Không, Ta không phá bỏ mà ta làm cho trọn lề luật. Ta nói thật : cho dù trời đất có qua đi, nhưng không một chấm một phết nào của lề luật sẽ qua đi, cho đến khi tất cả được nên trọn”. Nghĩa là những việc là của Đức Giêsu, thoạt xem thì có vẻ như chống đối lề luật, thực chất là nhằm làm cho lề luật được kiện toàn. Thời đó, người ta chỉ giữ luật theo cái hình thức, Đức Giêsu muốn cho cái hình thức ấy có thêm cái tinh thần, chính đó mới là cái cốt tuỷ của lề luật, đó mới là điều quan trọng. Có lần Đức Giêsu đã nói thẳng với bọn luật sĩ và biệt phái chỉ biết chăm lo giữ cái hình thức khô cứng của lề luật mà không để ý gì đến tinh thần lề luật. Chúa nói rằng : “Các ngươi chỉ là những cái mồ mã. Bên ngoài thì sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì chứa toàn những sự thối tha”. Khi bàn về sự tinh sạch và ô uế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng tinh sạch hay ô uế thật là do lòng người chứ không do hình thức bên ngoài. Ngài nói : “Cái gì làm cho người ta ra ô uế ? Không phải những cái từ bên ngoài vào (như đồ ăn, thức uống chẳng hạn), mà là cái từ bên trong bài tiết ra”.
– Như vậy, lập trường của Đức Giêsu rất rõ ràng : Điều quan trọng cốt lõi của mọi khoản lề luật chính là cái tinh thần của nó. Kẻ nào chỉ bo bo lo giữ cái hình thức bề ngoài mà quên cái tinh thần cốt lỗi của lề luật thì cũng như những cái mồ mã tô vôi bề ngoài thì đẹp nhưng bề trong thì xấu xa hôi thối.
Bây giờ chúng ta đã hiểu ý Chúa rồi. Chúng ta sẽ sống làm sao ?
– Thứ nhất là việc dự lễ : Bên các nước tiến bộ, ngày nay có một vấn đề được đặt ra, khá ngộ nghỉnh : người ta hỏi có được phép ngồi ở nhà dự Thánh Lễ được truyền qua màn ảnh vô tuyến truyền hình, khỏi cần đi đến nhà thờ được không ? Giáo hội đã trả lời dứt khoát là không được. Bởi vì dự lễ kiểu đó chỉ là một hình thức cho có cho rồi, chẳng có một chút tâm tình tôn thờ, yêu mến, kết hợp với Thánh Thể. Chuyện bên Tây thì vậy, nhưng bên ta cũng có chuyện tương tự như vậy : Nhiều người đi dự lễ nhưng không muốn vào nhà thờ cho dù trong nhà thờ vẫn còn chỗ. Họ đứng ở ngoài, miễn sao là có hướng vào nhà thờ, mắt nhìn về phía bàn thờ. Vậy thì có khác gì xem lễ qua Tivi đâu ? chỉ là hình thức, chẳng có tâm tình.
– Thứ hai là luật thánh hóa ngày Chúa nhật : Điều răn thứ ba dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Nhiều người nghĩ rằng thánh hóa ngày Chúa nhật chỉ là đi xem lễ. Từ quan niệm đó, ai mà có dự lễ gọi thì kể là xong hết bổn phận. Còn ai lỡ kẹt chuyện gì đó không đi xem lễ được thì cũng kể như mình đã lỡ, thôi đành vậy. Chúng ta hiểu điều răn thứ ba như vậy là hời hột quá, chỉ phớt qua một hình thức bề ngoài là dự lễ thôi. Thực ra điều răn này dạy ta phải thánh hóa ngày Chúa nhật. Thánh hóa là làm cho ngày đó nên thánh thiện. Mà muốn làm cho ngày đó nên thánh thiện thì dự lễ chỉ là một việc, ngoài ra còn dành nhiều thời giờ của ngày đó để làm những việc Chúa muốn, như đọc kinh cầu nguyện nhiều hơn, làm thêm những việc lành, lưu ý đến kẻ khác hơn bằng cách dùng ngày nghỉ đó để tới lui thăm viếng, truyện trò, an ủi nhau, giúp đỡ nhau v.v…
– Thứ ba là việc sống đạo giữa đời : Mọi lề luật được đặt ra không phải chỉ là để cho có “hình thức, mà để giúp cho con người có thể sống đạo tốt hơn. Nhưng sống đạo là gì ? Không phải chỉ là chu toàn một số hình thức đạo đức như đọc kinh, dự lễ, chịu các bí tích. Sống còn là làm việc, là làm ăn buôn bán, giao tế, biết xử sự tốt, trước những và chạm, khó khăn xảy ra hàng ngày. Giáo Hội thường nói “Sống đạo giữa đời”. HĐGMVN còn nói rõ hơn : sống đạo là “Sống Tin mừng giữa lòng dân tộc”. Cho nên chỉ mới có đọc kinh xưng tội, dự lễ thì chưa phải là sống đạo, mà chỉ là giữ một số hình thức của luật đạo thôi. Khi nào chúng ta biết để ý làm ăn theo lương tâm của người Kitô hữu, cư xử với mọi hạng người theo tinh thần bác ái của Tin mừng thì mới đúng là chúng ta sống đạo thật sự.
10 điều luật Chúa và 6 điều luật Hội Thánh ai trong chúng ta cũng thuộc lòng từ nhỏ. Hình thức bề ngoài của những luật đó là đọc kinh, dự lễ, xưng tội, ăn chay v.v…. Nhưng tinh thần của chúng là “10 điều răn ấy tóm về 2 điều này thôi : mến Chúa và yêu người”. Chúng ta hãy cố gắng đem tinh thần yêu thương ấy vào tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta, không những chỉ có các sinh hoạt ở nhà thờ mà còn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán, giao tế, buồn vui sướng khổ hằng ngày nữa. Đó mới thực sự là sống đạo giữa đời.
Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói : Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi :
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này : “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói : “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người.
– Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga.2,7)
– Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc.6,35-43).
– Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga.9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Ngạn ngữ Tây phương có câu : “Hãy tự giúp mình trước rồi Trời sẽ giúp sau”.
*
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con với trái tim của người cha người mẹ. Chúa để chúng con hoàn toàn tự do đáp lại tình yêu Chúa. Xin cho chúng con luôn biết sống ngoan nguỳ, thảo hiếu, đẹp lòng Chúa. Xin dạy chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để được Chúa ban ơn trợ giúp trong những cơn gian nan khốn khó. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Chuyện minh họa
a/ Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng : “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng.”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ : “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.
b/ Bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến, bảo tìm nơi an nghỉ cuối cùng cho người chồng quá cố. Người này thân hành chở bà đến một sườn đồi, trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói : “Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng với người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs”. Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp : “Ông nhà thật đáng hưởng sự ưu đãi đó”. Bà đáp : “Nhưng ông chỉ cần nơi ấy 3 ngày thôi mà !”
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu có thể chữa mọi bệnh tật và làm cho kẻ chết sống lại nữa. Chúng ta hãy tin tưởng và cầu xin Người :
- Lạy Đức Giêsu / Chúa luôn ở với Hội thánh mọi ngày cho đến tận thế / Xin cho giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh / luôn tin tưởng và duy trì sự hiệp thông với Chúa trong mọi nơi mọi lúc.
- Lạy Đức Giêsu, nhiều nhà cầm quyền trên thế giới không tin có Chúa, không tin quyền năng của Chúa, mà còn chế giễu công việc của Chúa / Xin giúp họ thoát khỏi lầm lạc và tìm ra sự thật về Chúa.
- Lạy Đức Giêsu, Chúa vẫn có mặt ở khắp nơi trên thế giới / nhưng còn rất nhiều người chưa nhận biết Chúa và chưa tin tưởng Chúa / xin Chúa tỏ quyền năng Chúa cho họ / để họ tìm đến với Chúa.
- Lạy Đức Giêsu, anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con đã được biết Chúa và biết quyền năng của Chúa / Xin giúp chúng con được đức tin mạnh mẽ hơn / để chúng con giới thiệu Chúa cho mọi người.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa đã sai Đức Kitô đến cứu thoát chúng con khỏi tội lỗi và chết đời đời, xin cho chúng con biết tin tưởng và chạy đến với Người, mỗi khi gặp bệnh tật và sự chết đe dọa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Theo chủ đề của Lời Chúa hôm nay, trong Kinh lạy Cha sau đây, chúng ta hãy xin Thiên Chúa là Cha giúp chúng ta luôn vâng theo ý Ngài trong lúc mạnh khoẻ cũng như khi bệnh tật, lúc còn sống cũng như khi sắp chết.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ phải chết muôn đời…”
– Trước lúc rước lễ : Đức Giêsu đã phán “Ta là bánh hằng sống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn cho sốt sắng để rước lấy bánh hằng sống ấy. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
GIẢI TÁN
Anh em hãy ra đi, và bằng cách sống của mình mà loan báo cho mọi người biết rằng ngoài cuộc sống thể xác này còn có cuộc sống muôn đời đang chờ đợi chúng ta.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CẢM NGHIỆM VỀ CHÚA– ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa.
Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc.
Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy. Cuộc tiếp xúc với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ. Thân xác khỏe mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội. Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử thần, trở về với thế giới sự sống.
Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt hơn. Khi Đức Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Đức Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộâm phép lạ, chị trở thành người được Đức Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Đức Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Đức Giêsu. Những lời nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín.
Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Đức Giêsu. Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé. Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được.
Người phụ nữ và em bé đã được Đức Giêsu thương yêu vì họ đã có những phẩm chất đáng quí.
Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Đức Giêsu. Hội đường Do Thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh liệt biết bao. Chính Đức Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh liệt đã sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng công.
Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm nhường ấy đã được Chúa thương.
Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi.
Hôm nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm nhường thẳm sâu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?
2) Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?
3) Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn chưa?

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỨC KITÔ LÀ NGUỒN SỐNG- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Sách Thánh dạy chúng ta :”Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài” để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, nhưng chương trình ấy đã bị phá vỡ bởi tội lỗi con người, và từ đó sự chết đã nhập vào thế gian khiến con người phải chết (Kn 1,13-15). Ngoài ra, con người còn phải chịu nhiều đau khổ như bệnh tật, thiên tai, hận thù, chiến tranhø, chém giết nhau… Chúng rình rập chúng ta như săn đuổi con mồi, hòng chộp bắt chúng ta, đánh qụy chúng ta và sớm đẩy chúng ta xuống mồ.
Nhưng sách Khôn ngoan hôm nay dạy chúng ta :”Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi kẻ sống phải chết”(Kn 1,13). Ngài muốn cứu sống chúng ta, đem lại hạnh phúc và bình an cho chúng ta. Vì thế, nếu chúng ta biết tin tưởng và kêu cầu Ngài thì được Ngài cứu sống (Đáp ca :Tv 29).
Chúa sẽ nghe lời chúng ta kêu cầu nhưng đòi hỏi chúng ta phải đặt hết niềm tin vào Ngài và cộng tác với ơn Ngài theo gương người đàn bà băng huyết và ông trưởng hội đường Giairô trong bài Tin mừng hôm nay. Ngoài ra, chúng ta cần có thái độ tích cực và khôn ngoan trước những đau khổ, trước những gian nan thử thách mà Chúa gửi đến cho chúng ta :”Ông đừng sợ, hãy vững tin”(Mc 5,36).
+ Bài đọc 1 : Kn 1,13-15 ; 2,23-24.
Sách Khôn ngoan được soạn vào khoảng thế kỷ I trước công nguyên. Tác giả là một người rất ư lạc quan. Dưới con mắt của ông, Tạo hoá mong muốn mọi sự tồn tại và danh dự của Ngài không cho phép cái chết thắng sự sống. Mọi sự có lẽ sẽ hài hoà nếu tội lỗi không xen vào chương trình sáng tạo để làm nó bị lạc hướng và dẫn nó đến cái chết, bởi vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, để cho loài người được sống vĩnh viễn.
Để giải quyết vấn đề do cái chết đặt ra, tác giả bèn liên kết cái chết thể xác với cái chết tinh thần : sở dĩ có sự chết là do tội lỗi mà ra. Tuy nhiên, cái chết thể xác nằm trong viễn tượng Phục sinh, vì nó sẽ khai mở tới sự sống đời đời.
+ Bài đọc 2 : 2Cr 8,7-9.13-15.
Lúc ấy cộng đoàn Giêrusalem đang gặp nạn đói, thánh Phaolô đang tổ chức một cuộc lạc quyên để giúp đỡ cộng đoàn này. Để thuyết phục tín hữu tích cực tham gia đóng góp, Ngài đã đưa ra gương sáng của Đức Giêsu Kitô, Đấng giầu sang vô cùng, đã tự ý trở nên nghèo khó để làm cho loài người được nên giầu có.
Cuộc lạc quyên này sẽ chứng tỏ sự bình đẳng giữa người Do thái và Hy lạp : người Do thái đã chia sẻ cho người Hy lạp những đặc ân tinh thần, thì cũng là điều bình thường khi người Hy lạp chia sẻ cho người Do thái những may mắn của họ về vật chất trong lúc này. Như thế, sự dư dả của người này bù đáp sự thiếu thốn của người kia. Có như thế,”Kẻ được nhiều cũng không dư, mà kẻ có ít thì cũng không thiếu”.
Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta hai phép lạ có liên quan đến nhau : phép lạ làm cho con gái ông trưởng hội đường Giairô sống lại và phép lạ làm cho người đàn bà bị băng huyết đã 12 năm được khỏi. Hai phép lạ này gợi cho chúng ta hai điều :
1. Trước hết, hai phép lạ này mạc khải cho chúng ta về lòng nhân hậu của Đức Kitô, khiến không bao giờ cho Ngài được dửng dưng trước đau khổ của người khác. Đồng thời cũng hé mở cho chúng ta về quyền năng phát xuất từ Đức Giêsu : Ngài có thể làm cho khỏi bệnh dễ dàng nhất là làm cho kẻ chết sống lại.
2. Những phép lạ này đòi hỏi đức tin nơi người muốn kêu xin. Đức tin cần thiết biết bao :”Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”(Mc 5,36). Đức tin của ông Giairô và người đàn bà băng huyết rất lớn : đặt hết tin tưởng vào Đức Kitô. Ngài dùng quyền năng cứu chữa và ban sự sống Ngài mang trong mình cho những ai, dù bề ngoài thất bại cách nào đi nữa, xin thì sẽ được như ý .
Sống trong niềm tin và hy vọng.
Bài đọc 1 hôm nay nhắc cho chúng ta tư tưởng lạc quan về cuộc sống. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, được hạnh phúc đời đời, nhưng con người đã phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa vì phạm tội. Tuy nhiên, Thiên Chúa giầu lòng thương xót sẽ nhận lời những ai thành khẩn kêu xin Ngài (Đáp ca:Tv 29). Tư tưởng này được minh chứùng bằng hai phép lạ dưới đây :
1. Chữa người đàn bà băng huyết.
Bỏ địa hạt Cêsarê, Đức Giêsu lại trở về Capharnaum. Thấy Ngài trở lại, dân chúng đến đón Ngài rất đông để được nghe giảng và xin phép lạ. Trong số đó, ông trưởng hội đường Giairô có đứa con gái bệnh nặng gần chết. Ông đến xin Ngài đến chữa cho con ông. Ngài nhận lời đi ngay.
Đang trên đường đi đến nhà ông Giairô thì dọc đường có một người đàn bà bị bệnh băng huyết đã 12 năm, không dám đến gần Ngài một cách công khai vì luật lệ cấm ky, vì bệnh băng huyết là một thứ bệnh nhơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng. Bà lén lút đến đàng sau Đức Giêsu với ý nghĩ rằng miễn sao chạm được vào gấu áo Ngài là khỏi bệnh ngay. Bà đã sờ vào được gấu áo Chúa nên bà cảm thấy lập tức trong mình đã được khỏi bệnh. Đức Giêsu biết rõ sự việc đã xẩy ra và hỏi xem ai đã động đến gấu áo Ngài ? Bà thành thật thú nhận việc đã làm, Đức Giêsu đã yên ủi và khích lệ bà:”Hỡi con, đức tin của con đã chữa con”.
2. Cứu sống con gái ông Giairô.
Vừa chữa bệnh cho một người đàn bà bị băng huyết, Đức Giêsu vừa tiếp tục đi tới nhà ông Giairô. Tình cờ người nhà ông đến báo tin con ông đã chết rồi, đừng phiền đến Thầy nữa. Nhưng Đức Giêsu khích lệ ông :”Đừng sợ, hãy cứ tin”.
Quang cảnh nhà đứa bé thật nhộn nhịp : tiếng khóc của thân nhân cũng như của những người khóc mướn, tiếng trống tiếng kèn , cùng với lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Đức Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Đức Giêsu lại bảo:”Cô bé không chết đâu, nó ngủ đấy”. Ngài nói thế là vì Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài làm cho kẻ chết sống lại dễ dàng như người ngủ thức dậy, để người khó tin được dễ hiểu.
Trước mặt 5 nhân chứng là cha mẹ cô bé và 3 môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan, Đức Giêsu cầm lấy tay cô bé và nói:”Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy”. Và em bé chỗi dậy mạnh khỏe. Ở đây Đức Giêsu tỏ ra có quyền trên sự chết và sự sống. Ngài làm chủ của kẻ sống và kẻ chết.
II. THIÊN CHÚA MUỐN ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA.
Tất cả các phép lạ Đức Giêsu làm đều có ý khơi dậy lòng tin cho người ta. Không ai có thể chối cãi được những phép lạ Ngài đã làm như chữa bệnh, trừ qủi, dẹp yên sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại… Vì những phép lạ này làm công khai trước mặt nhiều người và làm ngay tức khắc nên mọi người phải công nhận. Khi chữa bệnh xong, Đức Giêsu hay nói với bệnh nhân :”Đức tin của con đã chữa con”.
Còn những nơi người ta không tin Ngài thì Ngài không làm phép lạ, như trường hợp ở quê hương Ngài vì “gần chùa gọi bụt bằng anh”; còn đối với những Luật sĩ và Biệt phái chống đối Ngài thì Ngài cũng không làm phép lạ cho họ. Họ không thật lòng xin Ngài làm phép lạ mà chỉ thách thức Ngài thôi. Nếu không tin, không kêu xin Ngài thì làm gì có phép lạ ?Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ :”Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà:”Đức tin của con đã chữa coTrường hợp ông trưởng hội đường Giairô cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Đức Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa của ông, ông đã qùy mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin:”Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ?n sống đời đời cũng phải đồng hành với Chúa như người đàn bà băng huyết, bà nghĩ mình phải làm cái gì đó chứ không chỉ tin suông, nên bà đã đến với Chúa chớ không chờ Chúa đến với mình. Ông Giairô cũng vậy, ông tin Đức Giêsu có thể cứu sống con ông, ông vội vã đến với Chúa. Cả hai đều tin tưởng vào Chúa và nỗ lực cộng tác với Ngài. Vì thế, chúng ta không thể cứ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy xử dụng hết những phương tiện Chúa ban, còn phần kia tùy Chúa định liệu.
Câu chuyện xẩy ra vào mùa xuân, có một vùng quê bị một trận lụt dữ dội tàn phá, khiến cho một bà già bị kẹt trong căn nhà bà. Đang khi bà ta đứng tựa cửa sổ nhà bếp nhìn ra thì một chiếc thuyền xuất hiện, người lái thuyền bảo bà:”Hãy leo lên thuyền để thoát nạn”. Bà lão đáp lại:”Không, cám ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày hôm sau, cơn lụt dâng cao đến tầng hai của căn nhà. Đang lúc bà lão đứng tựa cửa sổ tầng hai ngắm nhìn con nước thì một chiếc thuyền khác lại xuất hiện. Người lái thuyền bảo bà:”Hãy lên thuyền để thoát nạn”. Bà già đáp lại:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa. Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.
Ngày kế tiếp cơn nước dâng lên tận nóc nhà. Đang khi bà lão ngồi trên nóc nhà nhìn con nước dâng, một chiếc trực thăng lại hiện ra. Viên phi công dùng loa gọi vọng xuống :”Tôi sẽ thả một chiếc thang dây cho bà, hãy leo lên và bà sẽ thoát nạn”. Bà già lại nói:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu thoát tôi”. Viên phi công nhìn bà lắc đầu, rồi bỏ đi.
Ngày sau đó, cơn lụt nhận chìm ngôi nhà và bà lão bị chết đuối. Khi được đưa về trời, bà ta nói với thánh Phêrô:”Trước khi vào đây, tôi xin được phàn nàn một điều. Tôi đã tin chắc Chúa sẽ cứu tôi thoát khỏi trận lụt, thế mà Ngài lại để tôi bị chết chìm”. Thánh Phêrô bối rối nhìn bà lão đoạn lên tiếng:”Tôi chả hiểu Chúa có thể làm thêm điều gì được cho bà nữa, vì Ngài đã gửi tới cho bà những hai chiếc thuyền và một chiếc trực thăng rồi còn gì” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 254-255) ?
Bà lão trong trận lụt này quá lầm lẫn. Bà quên rằng Chúa thường hoạt động trong đời sống chúng ta xuyên qua những phương tiện bình thường. Bà quên rằng chúng ta phải làm hết phận vụ mình và hợp tác với Chúa bằng cách xử dụng những phương tiện bình thường Ngài ban cho ta. Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi thụ động chờ Chúa làm phép lạ, mà phải dùng tất cả mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp mình trước đã.
Tục ngữ Việt nam đã nói lên chân lý này :”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” : con người phải bắt đầu làm đã, còn thành bại thế nào thì sẽ do Trời định liệu. . Nhưng về phía Trời thì chắc chắn :”Thiên thượng bất phụ hảo tâm nhân”, Trời sẽ giúp cho những ai biết cố gắng dùng mọi phương tiện Chúa đã ban cho, đúng như tục ngữ Pháp nói : Aide-toi, le Ciel t’aidera : anh hãy giúp mình trước, Trời sẽ giúp mình sau
Qua thái độ của người đàn bà băng huyết và của ông trưởng hội đường Giairô, ta thử xét lại đức tin của chúng ta xem sao : Tin khi đời sống bình an, thuận buồm xuôi gió thì chưa hẳn là đức tin thật, nó phải được tôi luyện trong đau khổ, trong khó khăn, trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên phép lạ. Hay nói đúng hơn, lúc ấy Thiên Chúa mới trợ giúp, mới cứu chữa, vì khi đó chúng ta không tin vào sức riêng mình mà tin vào Chúa, thì Chúa phải thực hiện thôi. Như Abraham xưa, như Phêrô đi trên mặt biển, như người đàn bà và ông Giairô trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy tin tưởng.
Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa cả trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng cho chúng ta năng lực chuyển hoá đau khổ. Chúng ta cần Thiên Chúa giúp đỡ để linh hồn chúng ta không bị thu hẹp vào sự thụ động hoàn toàn, gần giống như những đồ vật, bị tác động nhưng không bao giờ hoạt động. Thấu hiểu chân lý này, ông Francois Mauriac đã phát biểu:”Ngài đến không phải để cất sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Như vậy nghĩa là Ngài đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.
Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần : họ chịu đựng bệnh tật, họ chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật (vì đối với họ, bệnh tật chỉ là phiền toái, kết quả của một số phận mù quáng) và họ chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Họ coi bệnh tật của họ như một việc phải chịu đựng thay vì một việc phải sống. Đời sống của họ như bị giữ chặt lại vì họ chờ đợi thụ động cho đến khi mọi việc trở lại bình thường để họ có thể bắt đầu cuộc sống trở lại.
Mặt khác, các bệnh nhân có đức tin ở trong một tình thế tốt hơn. Dù đức tin không giải thoát họ khỏi bệnh tật, hoặc làm giảm bớt đau khổ do bệnh tật gây ra, người có đức tin tiếp tục sống một cách mãnh liệt như trước đây, có khi còn mãnh liệt hơn. Họ có thể tìm thấy Thiên Chúa trong bệnh tật cũng như trong lúc khỏe mạnh, và bệnh tật của họ có thể sinh ra kinh nghiệm có lợi là họ sẽ xin Chúa chữa lành cho bệnh tật ấy (Flor McCarthy).

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LÒNG TIN VÀ PHÉP- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Hôm 20/6/2018, ông Nguyễn Thiện Nhân chia sẻ với cử tri Thủ Thiêm rằng “Thành phố không gạt bà con.Thành ủy này không gạt bà con”. Ai nghe cũng nhận ra trong lời nói của ông bí thư thành ủy ấy có vị chát đắng! Đó là không phải Dân không muốn tin, mà Dân không dám tin chính quyền nữa. Vì sao? Những lời vấn an của ông Nhân “không gạt bà con” cho thấy niềm tin của Dân lúc này, bị gạt quá nhiều nên hết tin rồi! Những giọt nước mắt muộn màng, giọng nghèn nghẹn với những lời hứa của ông Nhân có vực lại được lòng tin của người dân? Có làm dịu được nỗi bất hạnh, những mất mát mà họ đã phải tự gặm nhấm từ nhiều năm qua? Muốn lấy lại lòng tin của Dân thì đừng lo mất quyền lực mà hãy lo làm sao để Tổ quốc cường thịnh, Dân được ấm no.
Đức tin là một món quà quý giá mà Thiên Chúa ban cho mỗi tín hữu. Đức tin không phải là thành quả của những công lao mệt nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới tạo nên được. Đức tin cũng không nhờ mua bán, tiền bạc đổi chác mà có. Đức tin là món quà do lòng yêu thương quảng đại vô biên của Thiên Chúa ban tặng cách nhưng không. Phần còn lại tuỳ thuộc vào cách mỗi tín hữu đón nhận món quà ấy.
Chúa Giêsu đã quả quyết: “Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23); “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, anh em có thể khiến núi dời non” (Mt 17, 20).
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nói đến lòng tin và phép lạ. Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Chúa Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đảo của Giairô: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Chúa Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.
Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Ðó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Ðức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”. Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và “phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ”. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông “Đừng sợ, cứ tin”. Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi !”, Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.
Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.
– Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.
– Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.
Cộng tác với ơn Chúa
Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.
Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:
– Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?
Vị linh mục nói:
– Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.
Bà già la lên:
– Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.
Thánh Antôn tự nhủ:
– Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!
Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.
Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.
Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.
Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.
Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7)
Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43).
Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).
Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.
Niềm tin thắp sáng hy vọng
Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường : “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.
Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.
Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.
Mẹ Têrêxa nói với ông : Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.
Người phóng viên hỏi : Tôi phải làm gì để có đức tin?.
Mẹ Têrêxa đáp : Ông hãy cầu nguyện.
Ông chống chế : Tôi không biết và không thể cầu nguyện.
Mẹ Têrêxa dịu dàng nói : Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.
Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
SỐNG CHẾT TRONG TAY CHÚA– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Tin mừng Chúa nhật 12 đến Chúa nhật 13 như một cuốn phim sống động quay lại cảnh con thuyền các môn đệ gần chìm đắm trong bão biểm đêm tối, đến cảnh người dân ngoại sống dưới ách xiềng xích, cùm kẹp khốn khổ của quỷ dữ giữa mồ mả, đồi núi, hoang dại. Để cứu họ, Đức Giêsu đã dẹp tan bão tố, xua đuổi ác quỷ chui đầu xô đẩy đàn heo lối hai ngàn con xồng xộc chạy theo dốc núi chênh vênh nhào xuống biển chết ngộp.
Sau đó, Đức Giêsu đã lên thuyền trở về với đám đông dân chúng đầy thiện cảm đang chờ đón Ngài bên bờ biển Galilê. Mới lên bờ, ông trưởng hội đường đến sấp mình dưới chân Ngài, tha thiết kêu xin Ngài cứu chữa đứa con gái mười hai tuổi gần chết. Ngài chẳng nói một lời, chỉ vội vàng đi với ông và dân chúng chen nhau kéo theo Ngài. Họ đụng cả vào Ngài.
Tự nhiên, Ngài quay lại hỏi đám đông: “Ai đã sờ vào áo Ta?”. Môn đệ chỉ thấy đám đông chen nhau đụng vào Ngài, còn Ngài thấu suốt tâm tư mọi người. Người phụ nữ như thấy Ngài trực tiếp hỏi mình, sợ run lên, đến sấp mình trước mặt Ngài. Ngài đã ôn tồn nhắn nhủ: “Này con, lòng tin của con đã cứu con, hãy đi bằng an và lành hẳn tật nguyền của con”.
Quá sung sướng, người phụ nữ đã mạnh dạn khai báo hết nỗi lòng đau khổ vì bệnh băng huyết. Suốt 12 năm chạy đủ mọi thầy, mọi thuốc, sạch bách tiền của mà tật bệnh vẫn còn.
Đang lúc đó, người nhà ông hội trưởng nhắn tin con ông đã chết rồi! Như sét đánh ngang tai, ông sợ quá. Đức Giêsu đã trấn an ông: “Đừng sợ, hãy tin”. Ông tin dù mọi người khóc lóc, kêu ầm ĩ, có kẻ còn nhạo cười Ngài. Trước cái chết, loài người chỉ biết khóc than hay cười ra nước mắt vì quá bất lực, quá đau đớn và lặng lẽ cúi đầu!
Thánh Phêrô đã chứng kiến từ đầu đến cuối những phép lạ đó và khi đi rao giảng Tin mừng, ngài đã kể rành mạch mọi chi tiết, kể rõ cả tên ông trưởng hội đường là Giairô và đứa con gái 12 tuổi. Chắc chắn ông Giairô và con gái ông vẫn còn sống để làm chứng cho lời Phêrô giảng. Phêrô muốn cho mọi người thấy Chúa Giêsu là Chúa biển cả trời đất, Chúa thống trị quỷ thần và là Chúa nắm giữ sự sống chết của loài người.
Sự sống, sự chết của mỗi người chúng ta đều thuộc quyền Đức Giêsu, cho nên Phaolô đã quyết tâm thực hiện: “Đối với tôi, sống là chính Đức Kitô” (Phil. 1, 21). Lý do là: “Ngài đã chết thay cho tất cả mọi người, hầu kẻ sống không sống cho chính mình, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho họ” (2Cr. 5, 15).
Thánh Xiprianô đã mạnh mẽ trả lời tổng trấn Galêriô khi ông ra lệnh: “Các hoàng đế đã truyền cho ngươi phải tế thần”.
Xiprianô đáp: Tôi không tế.
Galêriô nói: Hãy suy nghĩ kỹ đi, hãy tuân lệnh đi.
Xiprianô đáp: Thần là quỷ ma giả dối, chỉ có Thiên Chúa là Đấng chân thật, sáng tạo vạn vật. Đó là chân lý, không cần suy nghĩ nữa.
Galêriô nói: Ngươi phải chịu án trảm quyết.
Xiprianô đáp: Xin ngợi khen Chúa.
Vì tin Chúa nắm sự sống chết, nên người sống cho Chúa, coi cái chết nhẹ như lông hồng, như một giấc ngủ. Chính Chúa Giêsu đã bảo cha đứa trẻ: “Con bé không chết, nó ngủ”. Sau này, khi nghe tin Lagiarô chết, Ngài cũng nói: “Lagiarô, người thân của Ta ngủ, Ta đi đánh thức ông dậy”.
Đối với kẻ không nắm được sự sống chết, thì chết là tận diệt, nên phải khóc than, gào thét. Đối với Chúa, sự chết thật là một giấc ngủ. Để được chết an lành như vậy thánh Vinh sơn Phaolô đã tập coi giấc ngủ mỗi đêm là việc lặp đi lặp lại của cái chết thực sự, và thức dậy là dấu của sự sống lại trong ánh sáng của Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa trên thập giá đau đớn đến cùng cực, nhưng vì yêu thương cứu độ loài người chúng con, Chúa đã coi cái chết đó như một giấc ngủ thật nhẹ nhàng, bình an, trong sáng. Xin cho con biết hy sinh, tập chết đi những ích kỷ, kiêu căng vì mến Chúa yêu người để đến giờ chết con được an nghỉ êm ái trong Chúa muôn đời. Amen.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CON CHIÊN NHỎ BÉ, HÃY CHỖI DẬY- Suy niệm Peter Peldmeyer- Lm. Văn Hào, SBD chuyển ngữ
Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1,13)
Trong giáo xứ tôi coi sóc trước đây, có một phụ nữ tên Irish đã trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp: Con trai của chị vừa mới chết lúc tuổi đời còn rất trẻ. Chồng của chị cũng đã mất vài năm trước. Khi cậu con trai chết cách đột ngột, tâm hồn chị tan nát, và chị nói rằng trên đời này chẳng còn điều gì tồi tệ hơn thế.
Sau đám tang vài tuần, tôi gặp chị. Chị suy sụp và tuyệt vọng hoàn toàn. Khoảng một tháng sau, tôi không thấy chị đến nhà thờ nữa, và tôi lại phải đến thăm chị. Chị ta bực bội, tâm hồn rối bời và cảm thấy rất bất mãn với chính Thiên Chúa. Chị ta khó chịu và nói với tôi: “Cha xem, tôi đã cho Thiên Chúa rất nhiều. Suốt 50 năm, tuần nào tôi cũng đến nhà thờ, tôi đọc kinh cầu nguyện với Chúa mỗi ngày. Tôi gửi con cái vào học tại các trường công giáo. Thế nhưng, tôi nhận lại được những gì? Đứa con trai tôi đã chết một cách tức tưởi. Đó là điều Thiên Chúa đã tặng cho tôi một cách ác độc. Tôi nói với Chúa rằng sao Ngài lại dã tâm như thế, và tôi hoàn toàn thất vọng về Ngài.”
Lúc đó, có lẽ không cần tôi phải biện minh cho Thiên Chúa để bảo vệ Ngài. Chính Ngài có thể làm điều này. Tôi chỉ thinh lặng lắng nghe và để đồng cảm với nỗi đau của người phụ nữ khốn khổ kia. Nhưng tôi vẫn suy nghĩ mãi một điều: Tại sao Thiên Chúa vẫn để cho cái chết xảy ra? Tại sao Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và con người chúng ta, lại để cho cái chết tự do tung hoành? Cái chết đến với chúng ta mang chở ý nghĩa gì?.. Câu trả lời giản đơn theo khoa học, thì tất cả vật thể đều sẽ tiêu tan hay biến đổi, và thân xác con người cũng không thoát khỏi định luật vật lý đó. Nhưng câu trả lời theo thần học được nhắc tới trong chính bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, trích từ sách Khôn ngoan. Tác giả viết “ Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong… Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường sinh bất tử. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Ngài” (Kn 1,14; 2,23).
Vậy thì cái chết đến từ đâu? Phần cuối của bài đọc hôm nay đưa ra câu trả lời rất rõ ràng: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian, và ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Thánh Phaolô đã đồng hóa quỷ dữ với con rắn mà sách khởi nguyên phác vẽ. Nó chính là căn nguyên gây nên cái chết, hay nói cách khác sự chết là hậu quả của tội Adam (Rm 5,12). Nhưng chúng ta đừng nên phóng tưởng và nghĩ rằng nếu nguyên tổ không sa ngã, thì sự chết đã không xảy ra. Định luật thiên nhiên luôn còn đó và vẫn mãi chi phối thân xác con người. Tác giả sách Khôn ngoan cũng xác nhận điều này, và còn minh giải thêm rằng ngay cả người công chính cũng sẽ phải chết. Thiên Chúa có là Thiên Chúa của sự sống hay không, thì sự chết vẫn luôn phủ trùm trên thân phận mọi người chúng ta.
Nhưng, sách Khôn ngoan xem cái chết của người công chính chỉ như là một khúc dạo đầu ngắn ngủi, đưa dẫn vào giai đoạn phục sinh vinh quang. Đó là lúc chúng ta được nghỉ ngơi an bình trong tay Chúa. Khi ấy, người công chính sẽ sống một cách sung mãn và ngập tràn hạnh phúc như thuở ban đầu lúc mới được tạo thành. “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và chẳng cực hình nào động tới được nữa… Họ đang hưởng an bình. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa… và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời (Kn 3,2.8).
Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Thiên Chúa tạo nên sự sống. Ngài luôn muốn chúng ta sống và sống dồi dào, cho dù chính Đức Giêsu đã phải nếm trải khổ đau và kinh qua cái chết. Bài Tin mừng hôm nay cũng gợi mở cho chúng ta chân lý này.
Ông Giairô đã khấn xin Đức Giêsu đến nhà ông để chữa lành cho cô con gái đang ốm nặng sắp chết. Trên đường đi đến nhà ông, một phụ nữ bị bệnh loạn huyết suốt 12 năm đã sờ chạm đến áo của Chúa và bà đã được khỏi bệnh. Rõ ràng, Đấng Thánh của thiên Chúa (Mc 1,24) không bị nhiễm uế khi có người bệnh đụng đến mình, không giống như luật Moise đã viết (Lv 12,4). Ngài nói với người phụ nữ: “Lòng tin của con đã cứu con”. Vào thời điểm đó, cô con gái ông Giairô cũng đã tắt thở và không qua khỏi cơn nguy kịch. Đức Giêsu liền khơi dậy một niềm tin giống như đức tin của người phụ nữ nói ở trên. Ngài đến bên giường, cầm lấy tay đứa bé và nói “Talithakoum”. Marcô sử dụng hạn từ Aram này để nói lên sự thân thiết và lòng thương cảm sâu xa từ sâu tận đáy lòng của Đức Giêsu. “Talithakoum” có nghĩa là “Hỡi con chiên nhỏ bé, hãy trỗi dậy”. Đức Giêsu ám thị rằng Ngài như người chăn chiên nhân lành luôn phủ bóng yêu thương trên tất cả đàn chiên mà Ngài dẫn dắt. Vi mục tử tốt lành ấy muốn các con chiên của mình được sống và sống dồi dào.
Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và cả cô con gái ông Giairô sau này chắc chắn cũng đã chết, giống như tất cả mọi người chúng ta. Điều này xảy ra không phải vì Đức Giêsu đã thất bại trong việc chữa lành, hay Ngài chỉ tạm đình hoãn cái chết nơi cô gái, và cái chết là điều chắc chắn sẽ đến, không ai có thể trốn thoát. Nhìn sâu hơn, chúng ta sẽ nhận ra rằng, cả hai phép lạ trên nhằm khải thị một chân lý. Đó là Đức Giêsu muốn vén mở cho chúng ta một chân trời mới, một hoạch định mới trong vương quốc cánh chung sau cùng. Trong vương quốc đó, chúng ta sẽ được sống và sẽ sống mãi vì được kết hợp nên một với Thiên Chúa, đấng hằng sống và không bao giờ chết.
Những phép lạ được trình thuật hôm nay công bố cho dân chúng thời xưa cũng như cho chúng ta ngày hôm nay biết rằng Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong những bầm dập và khổ đau của phận người. Ngài sánh bước cùng chúng ta với một con tim thương cảm sâu xa. Ngài bảo đảm cho chúng ta rằng cái chết không phải là một dấu chấm kết tận, kết thúc lịch sử cuộc sống con người một cách vô nghĩa. Bởi vì, Thiên Chúa mãi luôn là Thiên Chúa của sự sống. Trong Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ phải chết.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
THIÊN CHÚA QUAN TÂM- Lm. Quốc Toản CMC
Một giáo sư đại học tự xưng mình là vô thần. Một hôm ông tuyên bố trước mặt các sinh viên rằng ông sẽ chứng minh được là không có Thiên Chúa. Ông chế diễu: “Này Chúa, nếu Chúa thật sự hiện hữu thì tôi muốn Chúa đánh ngã tôi văng khỏi bục giảng này. Tôi cho Chúa đúng 15 phút.”
Cả phòng yên lặng, và mười phút trôi qua, ông lại ngạo mạn: “Tôi đang ở đây, và tôi đang chờ đợi.”
Một anh lính mới giải ngũ rời khỏi chỗ ngồi đi lên gặp vị giáo sư và tặng ông một cú đấm thật mạnh vào mặt, khiến ông văng khỏi bục giảng, ngã xuống bất tỉnh. Sau đó, anh lính bình tĩnh về chỗ ngồi.
Vị giáo sư dần dần tỉnh lại, nhìn anh lính và hạch hỏi: “Có chuyện gì với anh vậy? Tại sao anh lại đánh tôi?”
Anh lính trả lời: “Thiên Chúa đang quá bận rộn, nên ngài gửi tôi tới.” (God is too busy, so He sent me).
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng như thế nào? Phải chăng Ngài tạo dựng vũ trụ và rồi thoải mái ngồi chơi xơi nước không để ý chuyện thế gian hay vẫn tiếp tục quan tâm đến cuộc sống của các thụ tạo? Phải chăng Ngài quá bận rộn chăm sóc những nhân vật quan trọng và vì thế không còn đủ thời giờ để săn sóc quan tâm đến những người tầm thường bé nhỏ?
Qua hình ảnh nhân loại của Chúa Giêsu, tin mừng hôm nay đã trình bày khuôn mặt sống động của một Thiên Chúa luôn yêu thương quan tâm:
Đám đông dân chúng đã đang tụ họp lắng nghe Chúa giảng dạy. Đây là dịp tốt thuận lợi để truyền bá giáo lý, nên chắc hẳn Chúa đã chuẩn bị cẩn thận bài nói chuyện. Đang chia sẻ, bỗng dưng chương trình của Chúa bị xáo trộn, khi ông Giairô trưởng hội đường, đến cắt ngang bài nói chuyện và xin Chúa chữa con gái ông sắp chết. Nhìn thấy nỗi khổ của người cha, Chúa đã sẵn lòng hy sinh bỏ chương trình kế hoạch riêng của Chúa để đáp ứng nhu cầu của người cần cứu giúp. Không thấy tin mừng ghi lại Chúa phàn nàn kêu ca vì phải cắt ngang bỏ dở chương trình.
Rồi trên đường đi, Chúa cảm thấy có người đụng chạm, người đó là một người đàn bà bị bệnh loạn huyết. Thật dễ hiểu nếu Chúa có trở nên bất nhẫn với bà: “Tại sao bà lại làm phiền tôi chứ? Bà không thấy rằng tôi đang phải cứu giúp con ông trưởng hội đường khỏi chết sao? Bà và chuyện của bà có thể đợi được mà?”
Nhưng thay vì bất nhẫn hay trách móc, Chúa Giêsu đã nhận thấy người đàn bà cũng đáng thương, và tuy dù bệnh tật của bà không quan trọng bằng chuyện đứa con sắp chết của ông Giairô nhưng cũng là điều thật quan trọng đối với bà. Với lòng thương cảm, Chúa bảo bà: “Này con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh.”
Qua đoạn tin mừng hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương quan tâm. Có người bảo: “Ngài không quá bận để điều khiển vũ trụ. Ngài có thời giờ cho những nhân vật quan trọng có tên tuổi như ông Giairô trưởng hội đường, nhưng Ngài cũng có thời giờ cho người tầm thường bé nhỏ như người đàn bà không tên tuổi bị bệnh loạn huyết. Ngài có thời giờ cho Đức Giáo Hoàng, cho các vị lãnh đạo, cho những người quan trọng, và Ngài cũng có thời giờ cho những người tầm thường như chúng ta.”
Kiểm điểm lại cuộc sống, có lẽ chúng ta cần phải khiêm nhường xin ơn tha thứ vì rất có thể nhiều lần chúng ta không quá bận như Thiên Chúa nhưng đã không dành thời giờ cho anh chị em khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Hơn nữa, thay vì ân cần lắng nghe theo dõi đáp ứng những nhu cầu của anh chị em, chúng ta đã nhẫn tâm nhắm mắt bịt tai xua đuổi. Có lẽ còn lâu lắm và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được ở nơi Chúa bài học cảm thông nâng đỡ, và được nên giống Chúa?
Nếu ngày hôm xưa Chúa đã có thời giờ cho dân chúng, đáp ứng những nhu cầu của họ, thì ngày hôm nay Ngài cũng có thời giờ cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có đi đến với Chúa, và kêu xin Người giúp đỡ?
Nếu Chúa đã có thời giờ cho chúng ta, phải chăng chúng ta cũng có thời giờ cho anh chị em chúng ta? Chúa và anh chị em đang chờ đợi câu trả lời của mỗi người chúng ta.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LÀM PHIỀN THẦY CHI NỮA- Lm. Gioan Nguyễn văn Ty SDB
Hai phép lạ lồng vào nhau được Tin Mừng Mác-cô tường thuật nêu lên một vấn nạn mà từ lâu nay tôi vẫn lởn vởn trong đầu: tôi có thật sự tin vào Chúa không, và thế nào là một niềm tin đích thực vào Chúa?
Hai phép lạ Đức Giêsu thực hiện rõ ràng là do lòng tin của các nhân vật trong cuộc: Ông trưởng hội đường Gia-i-a và người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm chắc chắn đã tin vào sức mạnh chữa lành của Thầy Giêsu, khi họ đồng loạt khẩn khoản nài xin Người thi thố quyền phép, tuy với những cách thức rất khác nhau – một người ‘sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin’, trong khi người kia rón rén ‘đến phía sau Người để sờ vào áo của Người’. Trong cả hai trường hợp Đức Giêsu đều xác định: “Lòng tin của con đã cứu chữa con… Chỉ cần ông tin thôi”. Thế nhưng toàn bộ câu chuyện hình như lại cho thấy một điều gì khác thâm sâu hơn; Đức Giêsu đòi bất cứ niềm tin nào đặt nơi Người, cho dầu tự nó đã là rất vững chãi đi nữa, vẫn còn phải được kèm theo một yếu tố không thể thiếu, đó là phó thác cậy trông dứt khoát và không lay chuyển! Người đàn bà có tin nhưng còn không dám, còn rụt rè và run sợ… gia đình ông trưởng hội đường tin đấy, nhưng còn ngại ngùng ‘làm phiền Thầy chi nữa!’ Rõ ràng tín thác cậy trông đã thiếu trong cả hai trường hợp.
Đối với Đức Giêsu, tin vào quyền năng của Thiên Chúa mà thôi là chưa đủ, nói cách khác, Người chờ đợi nơi Kitô hữu của Tân Ước một thái độ tin tưởng phó thác rất độc đáo, không hề tìm thấy nơi bất cứ một tôn giáo nào khác. Các Kitô hữu chúng ta đều biết, mục đích chính Đức Giêsu đến trần gian chắc chắn không nhằm biểu lộ quyền năng hùng mạnh của Thiên Chúa. Để làm được điều này Cựu Ước đã quá đủ; ‘Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh’ (Lc 1:51) qua không biết bao nhiêu là biến cố oai hùng, nhất là các can thiệp khủng khiếp trong biến cố Xuất Hành giải thoát dân riêng. Ngay cả khi Người thực hiện các phép lạ vĩ đại, Người vẫn cho thấy rằng biểu lộ quyền năng Thiên Chúa chỉ là điều rất thứ yếu. Mục tiêu chính của các phép lạ vẫn luôn là, như Người không ngừng khảng định rằng ‘Thiên Chúa yêu thương trần gian’. Chính vì thế mà, đối với người dàn bà rón rén ‘lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người’, cho dầu lòng tin của bà có mạnh thật đấy, ‘Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu’, nhưng Đức Giêsu vẫn muốn bà nhận ra: có một ‘năng lực tự nơi mình phát ra’ mà chưa ai từng nhận biết, đó là tình yêu xót thương của Thiên Chúa, một tình yêu phải mang đến cho bà tin tưởng và bình an, chứ không phải e dè sợ hãi. “Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. Cũng vậy trường hợp ông trưởng hội đường (tương tự như cô Mát-ta trong chương 11 Phúc Âm Gio-an); chắc chắn ông đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, nhưng ông vẫn có phần ngại ngùng rằng yêu cầu của ông đi quá xa, “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền thầy chi nữa!” Ngại ngùng đó chứng tỏ ông không hiểu gì về lòng nhân lành thương xót của Đấng mà Đức Giêsu công bố là ‘Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho anh em sao?’ Người phải chấn an ông: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”, nhưng phải là niềm tin hoàn toàn phò thác và tin tưởng sâu xa nhất.
Tin không chút sợ hãi chắc chắn không phải là một niềm tin bình thường. Niềm tin đó không chỉ dựa vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, mà quan trọng hơn, phải đặt trên tin tưởng vô hạn đặt cơ sở trên chính sự nhân lành của Thiên Chúa tới độ tín thác không chút e dè. Sự tin tưởng của người lính vào tài bầy binh bố trận của vị tướng cầm quân tài giỏi có thể là rất vững chắc, nhưng không thể nào sánh được với sự phó thác của em bé trong vòng tay âu yếm của mẹ nó; một đàng là tin tưởng đặt nền móng trên nắm bắt được sức mạnh của quyền lực, đàng khác là phó thác dựa trên cảm nghiệm được yêu thương. Niềm tin Kitô hữu, kể từ thời các Tông Đồ, không còn đặt nền tảng trên biến cố oai hùng như Xuất Hành qua Biển Đỏ, nhưng là trên cử hành Hiến Tế thập giá. Vì thế niềm tin này, để trưởng thành và vững chãi, sẽ không cần cầu xin một dấu lạ (xem Mt 12:38), nhưng cần cảm nghiệm được tình yêu của Đấng đã ‘chết cho người mình yêu’. Nói cách khác, ánh sáng đức tin Kitô hữu không giãi sáng từ trí óc nhưng từ con tim (hãy ngắm nhìn bức ảnh ‘Lòng Thương Xót Chúa’). Và do đó câu tuyên xưng đức tin đúng đắn nhất của mọi Kitô hữu sẽ không còn là ‘tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng!’ (I believe in God almighty), nhưng phải là ‘Con tín thác nơi Chúa’ (Jesus, I trust in you), vì chỉ mình Người mới là Đấng không những quyền phép, nhưng trên hết là từ nhân.
Tôi thiết nghĩ cốt lõi của phong trào ‘Lòng Thương Xót’ hệ tại ở việc biến đổi thâm sâu trong đức tin của mỗi Kitô hữu chúng ta.
Lạy Chúa Từ Nhân, như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng, con xin Chúa cho con được nếm cảm sự an bình thư thái ‘như bé thơ trong vòng tay mẹ hiền’. Xin cho con một đức tin không vương chút âu lo sợ hãi, bất chấp những yếu hèn vô tận của con người mỏng dòn. Xin cho con luôn biết chiêm ngắm Thập Giá như nguồn cậy trông phó thác duy nhất đời con, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CHỖI DẬY NHỜ ĐỨC GIÊSU- Lm Anphong
Tin mừng hôm nay trình thuật câu chuyện Chúa Giêsu làm cho con gái của ông trưởng hội đường Giairô được “chỗi dậy” (Mc 5,40), cùng với việc người đàn bà bị bệnh xuất huyết 12 năm được khỏi bệnh sau khi chạm đến áo Người. Qua hai trình thuật này, chúng ta nhận thấy đức tin là một gặp gỡ, tương giao cá vị, và đem lại ơn giải thoát cho con người.
* Đứa trẻ 12 tuổi, con gái của ông Giairô đã “chết” (Mc 5,35). Nhưng đối với Đức Giêsu, “đứa bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5,39) (Thực ra, đứa bé đã chết). Lời này của Đức Giêsu tiên báo việc Người sắp sửa làm, đó là một phép lạ. Như thế, phép lạ là một hồng ân Thiên Chúa khôi phục con người, làm cho họ chỗi dậy, làm cho họ sống, đồng thời đem lại niềm vui và hạnh phúc. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn đang làm chỗi dậy những tâm hồn “đã chết”.
* Người đàn bà được chữa lành trong Tin mừng hôm nay cho thấy một quan niệm đã có vào thời bấy giờ là “năng lực chữa bệnh xuất phát từ nội lực”. Bà đã chạm đến Đức Giêsu, và bà nghĩ, chỉ cần chạm đến Người là bà được khỏi bệnh hoàn toàn. Nhưng Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình… và “hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”. Người đã ban cho bà một sự bình an bên trong, Người đã cứu bà, cho bà thấy Thiên Chúa yêu thương bà, bà thật là quý báu đối với Thiên Chúa, và đời sống của bà có một ý nghĩa lớn lao. Như thế, khi chữa bệnh, Chúa Giêsu muốn cứu vớt con người tự bên trong, muốn giải thoát họ khỏi “run sợ”.
Cả hai phép lạ chữa bệnh hôm nay đều cho thấy Đức Giêsu là đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi. Đứa bé đã chết được chỗi dậy, người đàn bà bị bệnh xuất huyết 12 năm – bệnh này là dấu hiệu của tội lỗi – được hồi phục. Đồng thời cũng cho thấy: nhờ đức tin, con người được cứu độ. Sau khi mọi hy vọng, biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Ông Giairô đã tin vào Chúa Giêsu khi con gái ông đang hấp hối, còn người đàn ba, sau 12 năm chữa trị, hầu như đã hoàn toàn tuyệt vọng. Hẳn là vào thời điểm gay go này, khi đứa con sắp chết, ông Giairô chỉ còn niềm hy vọng duy nhất vào Chúa Giêsu? Người đàn bà cũng vậy. Nhưng tất cả đã thay đổi nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu. Người đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông.
Đức Giêsu hẳn đã nói với mỗi người chúng ta: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Lời này gây cho chúng ta một sự ngạc nhiên. Thực vậy, đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu. Hẳn là Mẹ Têrêsa Calcutta đã chẳng hề nghĩ đến những giải thưởng cuộc đời ban tặng Mẹ, nhưng Mẹ đã có được những điều đó nhờ đức tin?
Liệu chúng ta có “dám tin vào những lời đầy thách thức” này không? Nhưng chúng ta biết rõ Thiên Chúa là tình yêu, Người sẽ không bỏ rơi những ai trông cậy, tin tưởng vào Người, nhất là những người đang gặp khó khăn và tuyệt vọng. Hãy mở toang cánh cửa tâm hồn cho Thiên Chúa hành động. Hãy tin, dù mọi sự chưa rõ ràng. Hãy chờ đợi Thiên Chúa hành động “ đúng lúc, kịp thời”, nhưng với đức tin.
Lạy Chúa,
Hoa trái của đức tin là cầu nguyện.
Để đức tin có thể triển nở,
xin cho chúng con biết cầu nguyện.
Xin cho chúng con biết tin tưởng và cậy trông,
ngay cả trong những lúc tuyệt vọng.
Lạy Thiên Chúa là Cha,
xin dạy cho chúng con biết
sống là sống trong niềm tin,
niềm cậy trông và tình yêu.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LÒNG TIN CỦA CON ĐÃ CỨU CON- Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Thân phận con người
Đức Giêsu thực hiện hai phép lạ: phép lạ chữa bệnh và phép lạ làm cho sống lại. Hai phép lạ này liên quan đến hai nghịch cảnh của đời sống con người, trong đó có những người thân yêu của chúng ta và có khi, có cả chúng ta nữa.
– Người cha có đứa con gái mới 12 tuổi đã chết. Sự bất hạnh của em bé, nhưng cũng là nỗi đau của bố, của mẹ, của cả nhà. Theo sách Tin Mừng của thánh Mát-thêu, em bé đã chết rồi, còn theo thánh Mác-cô và thánh Luca, lúc người bố đến kêu xin Đức Giêsu, thì em bé chưa chết; nhưng lúc Ngài đang trên đường tới nhà, cháu bé mới chết. Chi tiết này làm bật lên nỗi đau của người bố và của cả gia đình là một nỗi đau kéo dài.
– Người phụ nữ, có lẽ đã lớn tuổi, mang một thứ bệnh kín đáo trong người đã 12 năm. Có những thứ bệnh ai cũng biết, nhưng cũng có những thứ bệnh chỉ có một mình biết, kéo dài, nỗi đau triền miên.
Hai nghịch cảnh của hai lứa tuổi nói cho chúng ta thật nhiều về thân phận và những vấn đề muôn thủa của con người: bệnh tật và cuối cùng là cái chết, có thể xẩy ra ở bất cứ lứa tuổi nào; bệnh tật và sự chết làm bật lên sự liên đới của nhiều người; bệnh tật và sự chết tất yếu đặt ra con con người vấn đề Thiên Chúa và buộc phải lựa chọn tin hay không tin.
Và Lời Chúa cũng mặc khải cho chúng ta biết cách Thiên Chúa, ngang qua Đức Giêsu-Kitô, liên đới với đau khổ và cả sự chết thuộc về thân phận con người như thế nào.
Lòng tin
Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ: “tôi chỉ cần đụng được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu”. Ở những nơi hành hương, người ta vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng hay thánh tích.
Nhưng để được chữa lành thực sự, nghĩa là trọn vẹn, chúng ta được mời gọi đi vào tương quan mãi mãi với một ngôi vị, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Và đó chính là điều mà người phụ nữ được ban tặng, vượt xa nhu cầu chữa bệnh của bà. Được khỏe là một nhu cầu quan trọng, nhưng điều này vẫn chưa giải quyết được hết những vấn đề liên quan đến “sự sống” của một con người. Đời sống con người cần sức khỏe, nhưng khỏe thôi vẫn chưa đủ. Hơn nữa, xét cho cùng, người ta đâu có khỏe được mãi, và có rất nhiều phận người, sinh ra đã tật nguyền. Hơn nữa, Đức Giêsu còn nói: “lòng tin của con đã cứu con”. “Cứu” ở đây vượt xa vô hạn phép lạ hết bệnh.
Cái chết của đứa con, nhưng lòng tin lại là lòng tin của người cha: “con gái tôi mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên cháu, là nó sẽ sống”. Lòng tin của bố cứu được con mình. Điều kì diệu này được ghi lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Chính vì thế mà chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho người sống và kẻ chết. Vì Chúa cũng yêu thương những người chúng ta thương yêu trong Chúa.
Đức Giêsu không quan tâm đến tiếng tăm của mình, nhưng quan tâm đến sức khỏe và sự sống của em bé: “Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm” (c. 40). Sau này trong cuộc Thương Khó, Ngài sẵn sàng mang vào mình cái chết đau đớn và sỉ nhục tận cùng, để hiện diện, cảm thông với mọi đau khổ và mọi cách chết của con người, để bày tỏ lòng thương xót và dẫn chúng ta vào niềm Hi Vọng. Biến cố cá biệt, nhưng đem lại cho nhân loại chúng ta niềm hi vọng thật lớn: tất cả người chết sẽ sống lại, nếu Đấng Phục Sinh “cầm lấy tay”.
Niềm hi vọng
Cách Đức Giêsu đến với mỗi người mỗi khác. Với người phụ nữ, bà cố để đụng được vào gấu áo của Đức Giêsu; nhưng với em bé, Ngài đến tận nơi: “Người đi vào, cầm lấy tay em bé, nó liền trỗi dậy”. Đó chính cũng là cách Chúa ban ơn cứu độ cho từng người, luôn luôn đích thân và duy nhất. Bởi lẽ người ta không thể công thức hóa ơn cứu độ, lề luật hóa lòng tốt của Thiên Chúa được.
Đức Giêsu quan tâm đến sự sống của mỗi người, của cả loài người. Những gì Ngài làm, thật lạ lùng, nhưng cũng thật giới hạn. Vì người phụ nữ cũng sẽ bệnh lại và chết; em bé lớn lên và cũng qua đi. Nhưng đó là những dấu chỉ làm cho chúng ta hướng tới và đặt hi vọng nơi ơn huệ còn lạ lùng hơn: đó ơn huệ sự sống vô hạn trong Chúa và cùng nhau, mà Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh hứa ban cho chúng ta.
Chính niềm hi vọng đặt nơi ngôi vị của Đức Kitô phục sinh, làm cho chúng ta bình an và can đảm đảm nhận hôm nay phận người của mình và thân phận của cả những người khác nữa, nhất là những người thân yêu của chúng ta trong Gia Đình và trong ơn gọi dâng hiến.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CHÚA LÀ SỰ SỐNG – Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Sống vui, sống mãi và sống hạnh phúc, nhất là chiến thắng cái chết, không chỉ trong tư tưởng, nhưng là một khát vọng của con người ở mọi nơi mọi thời. Sự sống lại của Chúa Giêsu khẳng định, khát vọng ấy thực sự có thể, vì cái chết không phải là một phần cấu trúc sáng tạo, về nguyên lý là không thể đảo ngược, Chúa là Sự Sống : “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết…” (Kn 1,13).
Bởi ác quỉ ghen tương nên tử thần đột nhập vào thế gian (x. Kn 1, 13-15), nhưng Thiên Chúa “sẽ không thí bỏ mạng tôi cho âm phủ” (Tv 16,10). Lời Thánh Vịnh trên được Chúa Giêsu là Đầu và là Trưởng Tử hoàn tất khi sống lại từ trong cõi chết. Sự chết dẫn Người xuống mồ, nhưng không tiêu tan. Người đã chiến thắng sự chết. Chỉ có Lời quyền năng của Thiên Chúa Tình Yêu mới đủ mạnh để phá đổ những rào cản của sự chết.
“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” là lời tuyên xưng vào sự hiện hữu thực sự của Thiên Chúa, cho phép chúng ta hát vang lời Alleluia ở giữa một thế giới, bóng tối tử thần đang đe dọa chúng ta.
Đoạn Tin Mừng thánh Marcô hôm nay như một dạng “phóng sự” được thánh Phêrô trực tiếp chứng kiến những sự kiện, chúng ta cần đọc với cái nhìn đơn giản mới thấy được sự phong phú của nó.
Chúa Giêsu đến và đặt tay lên đứa bé
Điều mà Giairô mong đợi nơi Chúa Giêsu là “đến đặt tay lên em bé để nó được khỏi và được sống” (Mc 5, 23). Thái độ của Giairô thật là ấn tượng. Đường đường là trưởng hội đường Do Thái, vậy mà ông “sụp lạy và van xin” Chúa Giêsu (Mc 5, 22), ông quên đi nhân cách, địa vị của mình trước đám đông nhiều người biết ông, ông tiên phong tin cậy vào Chúa Giêsu. Tất nhiên, vì cô gái diệu, ông làm tất cả.
Chúng ta cũng thế, trong lúc ốm đau bệnh tật, vô phương cứu chữa, hy vọng tiêu tan, thì lời kêu cầu vang lên tới Chúa thật tha thiết. Lời van xin của người cha : “Xin Ngài đến…để nó được khỏi và được sống !” Chúa Giêsu không nói một lời nào, lời trấn an Giairô cũng không. Đôi lúc Chúa vẫn im lặng đối với lời van xin của chúng ta, khi nhận lời chúng ta cầu nguyện. Chúa đồng hành và ở với chúng ta, ngay cả khi chưa nhận lời chúng ta.
Ai chạm đến Ta ?
Một câu hỏi cất lên giữa đám đông khiến các môn đệ sửng sốt : “Thầy coi đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vầy mà Thầy con hỏi : Ai chạm đến Ta ?” (Mc 5, 31) Thì ra “có một người đàn bà bị bệnh” (Mc 5, 25) đã đi lẫn vào trong đám đông đến sau Người. Có thể bà sợ đến với Chúa trước nhiều người. Sợ họ biết việc mình làm. “Mười hai năm trời sống với bệnh xuất huyết” (Mc 5, 25), nghe nói về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền trong dân, cơ hội tuyệt vời đã đến, bà quyết định chạm tới áo Chúa.
Phản ứng của Chúa Giêsu không làm bà ngạc nhiên và xấu hổ. Không ai đụng đến áo Chúa mà Chúa không biết. Trước mặt Chúa, chúng ta không phải là người vô danh, mất hút giữa đám đông. Chúa thấy chúng ta kêu cầu, cả lúc chúng ta không thể hiện công khai. Chúa biết tất cả vì Người là Đấng toàn tri, là sức mạnh của Thiên Chúa, là Sự Sống. Người đàn bà đã nhận lại được sự sống qua việc chữa lành nhờ đụng chạm tới áo Chúa Giêsu (x. Mc 5, 33). Bởi trong chính cuộc đối thoại với người đàn bà nhút nhát đang tuyệt vọng này, từ việc chữa lành thể xác Chúa ban cho bà ơn cứu độ, bình an và sức khỏe xác hồn.
Dù đến với Chúa thế nào đi chăng nữa, lời thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta : “Bạn có biết sự hào phóng, ân hạn, nhưng không của các món quà của Chúa Giêsu Kitô” (2Cr 8, 9).
Họ liền chế diễu Người
Những “người nhà” Giairô là những người tốt. Với sự thận trọng, họ sẽ gặp người cha và báo cho ông biết về cái chết của con gái ông : “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa ?” (Mc 5, 35). Nói thế, không phải họ thiếu lòng tin, nhưng là họ không thể tưởng tượng được một tình huống đã chết rồi có thể sống lại được.
Thoáng nghe lời họ nói, Chúa Giêsu bảo : “Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5, 39). Họ thấy nực cười, vì chính lúc Giairô vắng nhà thì con gái ông trút hơn thở lần cuối. Chúa mời gọi ông Giairô : “Ông đừng sợ, hãy cứ tin” (Mc 5, 36) Giairô đã tin vào quyền năng chữa bệnh của Chúa. Ông được mời đi xa hơn sự tin tưởng là sống niềm tin vào Chúa.
Chúa Giêsu muốn chúng ta có một niềm tin sắt đá, một đức tin chuyển núi rời non, vượt trên sự chết. Kẻ có tội không bao giờ chết trước mặt Thiên Chúa. Người ấy có thể sống lại nhờ ân sủng Thiên Chúa trao ban, vì Chúa là Sự Sống. “Thiên Chúa không vui mừng khi người sống phải chết” (Kn 1,13).
Hãy cho em bé ăn
Giairô và vợ ông, cùng với ba tông đồ được Chúa mang theo. Chúa Giêsu không cầu xin Chúa Cha, không ban một lời chúc lành nào, vì Chúa là Sự Sống. Người có thể trả lại sự sống cho em bé một cách dễ dàng khi cầm tay nó. Người vẫn cầm tay chúng ta mà chúng ta không biết.
Những người chứng kiến không được chuẩn bị để đánh giá một cử chỉ như vậy có nghĩa gì. Còn quá sớm để giải thích cho họ ý nghĩa đầy đủ về sự sống lại của em bé. Nếu Đức Giêsu giữ bí mật, khác hẳn với việc Chúa chữa người đàn bà chạm vào Chúa, Người đã mang theo ba nhân chứng là những chứng nhân từ núi Chúa biến hình cho đến khi Chúa chịu Khổ Nạn và Phục Sinh. Im lặng là cần thiết, vì sự sống lại như thế được coi là dấu chỉ rõ ràng thời thiên sai.
Chúa Giêsu bảo họ : “Hãy cho em bé ăn” (Mc 5, 43). Vì em mà Chúa Giêsu đến. “Ăn” là cử chỉ Chúa Giêsu báo trước sự phục sinh của Chúa, vào buổi chiều tối Chúa Phục sinh, Chúa hỏi các môn đệ : ” các con có gì để ăn ?” không phải là để ăn cho thể xác, nhưng là để họ có niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô.
Giờ đây, Tiệc Thánh chúng ta cử hành là dấu chỉ của niềm vui được chia sẻ trong đức tin trước Thiên Chúa hằng sống, với sự sống viên mãn tràn đầy chứng thực rằng sự sống mạnh hơn cái chết. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỨC TIN KHAI MỞ QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA- Lm Jos. Nguyễn Thành Long
Sau phép lạ dẹp yên bão tố và phép lạ giải thoát người bị quỷ ám, hôm nay chúng ta được nghe trình thuật diễn tả hai phép lạ khác đan kết với nhau một cách chặt chẽ: phép lạ chữa người đàn bà loạn huyết và phép lạ phục sinh con gái ông Giaia. Qua các phép lạ này, ta thấy có một sự tăng trưởng dần dần trong niềm tin của các môn đệ vào quyền năng của Chúa Giêsu. Quyền năng trên các định luật thiên nhiên: làm cho sóng yên biển lặng. Quyền năng trên các thần ô uế: giải thoát người bị quỷ ám ở Ghêrasa. Quyền năng trên bệnh tật: chữa lành người đàn bà bị chứng xuất huyết. Và quyền năng trên sự chết: phục sinh con gái ông trưởng hội đường. Thế nhưng để quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ, đòi hỏi con người phải có niềm tin. Nói cách khác, tin là điều kiện cần có để được Đức Giêsu thực hiện các phép lạ.
Chính nhờ đức tin mà người đàn bà loạn huyết được chữa lành. Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34). Đức tin đã khai mở quyền năng của Ngài, như thể Chúa Giêsu quy gán phép lạ cho khả năng của con người. Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để dứt điểm căn bệnh mà bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marccô cho thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng diệu kỳ thay đức tin của con người.
Cũng vậy, chính nhờ đức tin của ông trưởng hội đường mà con gái ông được cứu sống. Cứ xem diễn tiến của câu chuyện chúng ta sẽ thấy rõ sự kỳ diệu của đức tin.
Khi hay tin con gái cưng của ông đã chết và những người nhà của ông đã tuyệt vọng, ông vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Con gái của ông không còn là một bệnh nhân, mà đã trở thành một xác chết. Và điều ông nài xin Chúa Giêsu giờ đây đối với gia nhân của ông cũng không còn giá trị nữa, như lời họ khuyến cáo: Con gái ông đã là người thiên cổ rồi còn làm phiền Thầy chi nữa (x. Mc 5,35).
Sự kiện “người ta khóc than kêu la” là dấu chứng con gái ông đã chết. Thánh sử Matthêu còn thêm chi tiết là “đến nơi Chúa Giêsu thấy phường kèn và đám đông xôn xao” (Mt 9,23). Đang sống thì phường kèn không có lý do gì để có mặt ở đó. Điều này chứng tỏ con gái ông rõ ràng đã chết thật, và đức tin của ông lúc này đang bị thử thách nặng nề. Có thể nói được là thử thách đã lên tới đỉnh điểm. Tuy nhiên, khi được Chúa Giêsu khích lệ, ông đã một lòng tin tưởng và tín thác, mặc cho bầu khí kém lòng tin, do những người bà con lối xóm gây ra, đang bao trùm chung quanh. Kết quả là đức tin ấy đã được tưởng thưởng xứng đáng: người con gái yêu quý đã được tử thần trả lại cho ông. Nói cách khác, chính đức tin đã đem con gái ông trở về từ cõi chết. Chẳng phải Chúa Giêsu đã từng có lần nói: “Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin” (x. Mt 21,21-22).
Nói tóm lại, tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ. Thế nhưng việc Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ cũng không nằm ngoài mục đích là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, để họ tin rằng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhờ đó mà họ được ơn cứu độ. Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để biểu diễn như lời dụ khị của Satan; hay là để cho nhân dân tán thưởng như các võ sĩ, các nhà ảo thuật, hoặc các diễn viên xiếc…
Qua phép lạ, Ngài kiện cường, thanh luyện niềm tin của những kẻ theo Ngài vốn còn nông cạn, thậm chí còn mang hơi hám ma thuật sơ đẳng, như đức tin của người đàn bà bị loạn huyết, hay còn đang bị chao đảo như đức tin của ông trưởng hội đường, trở thành một đức tin chân chính và sâu xa.
Niềm tin của tôi đang mang màu sắc nào? Tôi có để cho Chúa thanh luyện và “nâng cấp” để đức tin của tôi ngày càng trở nên tinh ròng và kiên vững hay không? Xin Chúa gia tăng lòng tin còn non yếu của chúng ta, hầu chúng ta có thể mở các kho tàng ân sủng trào tràn của Thiên Chúa. Amen.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
PHÉP LẠ CỦA NIỀM TIN- Trích Logos B
Nguyện đường Sixtina trong nội thành Vatican đã được Đức Giáo Hoàng Sixto IV cho xây cất vào cuối thế kỷ 15. Không những đây là nơi các vị hồng y tụ họp để bầu giáo hoàng, nơi tổ chức những buổi họp quan trọng, nguyện đường Sixtina còn là một bảo tàng viện có những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, nhất là những bức bích họa của Michelangelo, nhà danh họa và điêu khắc lừng danh.
Một trong những bích họa nổi tiếng trên trần nguyện đường Sixtina là bức “Thiên Chúa Tạo Dựng”. Bức họa vẽ tả Thiên Chúa như một ông cụ già uy nghi đang giơ bàn tay hướng về Adam tượng trưng cho con người. Adam trong hình ảnh người đàn ông trần trụi, cũng đang giơ bàn tay hướng về Thiên Chúa.
Hình ảnh hai bàn tay, một của Thiên Chúa, một của con người đang cố vươn tới nhau để chạm vào nhau là một hình ảnh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Đang lúc con người không thể vươn lên tới Thiên Chúa, thì Người đã cúi xuống để chạm đến thân phận hư vô và thấp hèn của con người, để nâng con người đứng dậy trong sự hiện hữu của mình.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô, chúng ta cũng bắt gặp những “cái chạm tay” đầy ý nghĩa giữa con người với Thiên Chúa và giữa Thiên Chúa với con người. Những “cái chạm tay” ấy được mô tả qua hai phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện để chữa lành người đàn bà bị bệnh loạn huyết và cứu sống con gái ông trưởng hội đường tên Giairô.
Cái chạm tay của người đàn bà loạn huyết
Khi Chúa Giêsu đang trên đường đi đến nhà ông trưởng hội đường để cứu chữa con gái ông ta, thì một người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đã 12 năm, trà trộn trong đám đông và chạm đến áo của Chúa vì bà tin rằng chỉ cần chạm đến áo Ngài thôi cũng đủ để bà được khỏi bệnh. Quả thật, bà đã được chữa lành và được Chúa khen ngợi: “Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”.
Đối với người Do Thái, loạn huyết là một căn bệnh bị coi là ô uế. Không những ô uế về phương diện thể xác, nhưng còn ô uế về phương diện luân lý. Vì thế, người phụ nữ nào bị bệnh loạn huyết sẽ không được chạm đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền Thờ. Còn những người khác cũng không được đụng chạm đến người bị bệnh. Nếu ai đụng chạm đến người bệnh, cũng bị coi là ô uế.
Người phụ nữ ở đây bị bệnh đã lâu, phải sống trong đau khổ, cô đơn và buồn tủi. Vì thế, gặp được Chúa là một cơ hội may mắn đối với bà. Bà đã khiêm nhường chỉ dám chạm đến áo Chúa. Bà đã có lòng tin mạnh mẽ, nên bà đã được chữa khỏi. Bà chạm đến áo Chúa không phải chỉ bằng tay mà còn bằng cả lòng tin nữa, một lòng tin đơn sơ mà mãnh liệt, một lòng tin sâu xa đến nỗi đã đụng chạm cả vào trái tim đầy lòng thương xót của Chúa.
Về phía Chúa Giêsu, Ngài đã cảm nhận được sự đụng chạm của niềm tin ấy, khiến từ nơi Ngài phát xuất sức mạnh chữa lành người phụ nữ khốn khổ kia. Chính tình thương của Chúa đã nâng dậy một con người thấp hèn. Tình thương của Chúa cũng xóa bỏ ranh giới ngăn cách người phụ nữ với cộng đồng, với phụng vụ và lề luật. Chúa đã tháo cởi dây trói thành kiến và nghi kỵ của xã hội đối với người phụ nữ đáng thương. Chúa đem lại cho bà bình an và lòng tự tin.
Cái chạm tay của Chúa Giêsu
Khi Chúa Giêsu đang ở bờ biển, có đám đông dân chúng đi theo Chúa. Chợt ông Giairô, trưởng Hội Đường Do Thái bước đến và quỳ xuống trước mặt Chúa để nài xin Chúa đến cứu chữa con gái ông đang hấp hối. Chúa Giêsu chấp nhận lời cầu xin của ông vì thấy ông thật khiêm tốn và có lòng tin.
Thế nhưng, Chúa vẫn còn muốn thử thách niềm tin ấy. Giữa đường, người nhà của ông trưởng Hội Đường đến báo tin con gái ông đã chết ! Chúa Giêsu đã an ủi và củng cố đức tin của ông khi nói với ông : “Ông đừng sợ, hãy cứ tin”.
Cuối cùng, khi đến nhà ông, Chúa Giêsu đã cầm tay bé gái và truyền cho em chỗi dậy. Có thể nói, còn hơn cả “cái chạm tay”, Chúa Giêsu đã cầm lấy tay em bé, truyền sức sống cho em để em chỗi dậy từ cõi chết. Qua cử chỉ vừa yêu thương vừa đầy uy quyền, Chúa Giêsu đã đem lại sự hồi sinh cho em bé. Quả thật, khi con người không thể vươn lên cao được, thì Chúa đã cúi xuống để vực con người lên. Bàn tay Thiên Chúa khi nắm lấy bàn tay con người, đã xóa nhòa khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người. Bàn tay Thiên Chúa nắm lấy bàn tay con người đã nối liền vô biên với giới hạn. Bàn tay Thiên Chúa nắm lấy bàn tay con người đã truyền sinh khí và sự sống cho con người. Còn về phía con người, tất cả những gì chúng ta có thể làm được, là đặt bàn tay chúng ta vào bàn tay Thiên Chúa với lòng cậy trông.
Chúa vẫn chạm đến ta mỗi ngày
Ngày hôm nay, trong đời sống kitô hữu, đã nhiều lần chúng ta được đụng chạm đến Chúa. Dù chúng ta là những con người phàm tục, Chúa vẫn để cho chúng ta đụng chạm đến Ngài là Đấng rất thánh. Dù đôi môi chúng ta bất xứng, chúng ta vẫn được đụng chạm đến lời Chúa. Dù miệng lưỡi chúng ta thô tục, chúng ta vẫn được đụng chạm đến Mình Máu Thánh Ngài.
Như người phụ nữ bệnh hoạn, đôi tay run rẩy chạm đến áo Chúa, Chúa vẫn sẵn sàng để truyền hơi ấm và sức mạnh đến cho bà. Như người trưởng Hội Đường chỉ xin Chúa đặt tay trên con gái mình, Chúa đã nắm lấy cả bàn tay em và ban cho em cả cuộc sống. Mỗi ngày, chúng ta cần chạm đến Chúa và chúng ta cũng cần được Ngài chạm tới.
Sự đụng chạm sâu xa nhất là sự đụng chạm của lòng tin. Sự đụng chạm đem đến sự biến đổi, chính là sự đụng chạm giữa trái tim với trái tim.
Chúng ta cần có lòng tin để chạm đến Chúa. Và chúng ta cũng cần có sự nhạy cảm để nhận ra những “cái đụng nhẹ” của Ngài trong cuộc sống, khi Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì.
Hơn lúc nào hết, khi rước Chúa vào lòng, Chúa không chỉ đụng chạm đến lòng ta, nhưng Ngài còn hòa tan trong thể xác ta, để Ngài có thể hòa nhập vào cuộc sống ta. Những lúc ấy, ta cũng được mời gọi để cũng đụng chạm và hòa trộn vào những số phận hẩm hiu và bất hạnh chung quanh ta.
Vào tháng 12 năm 1986, khi Đức Tổng Giám Mục Canterbury, Robert Runcie đến thăm Dòng Thừa Sai Bác Ái ở Calcutta, ngài đã quỳ gối xuống để hôn chân Mẹ Têrêxa. Đức Tổng Giám Mục không phải là kẻ độc nhất diễn tả tâm tình đó. Khi Mẹ Têrêxa đi đến đâu, đám đông thường vây quanh Mẹ để hy vọng được chạm đến Mẹ hoặc sờ chân Mẹ mà thôi.
Sở dĩ Mẹ Têrêsa được vinh dự đó, vì Mẹ đã để ra cả cuộc đời mình để chạm đến những thân phận đau khổ và bệnh tật, những người cùi hủi và nghèo khó nhất. Qua những con người bất hạnh đó, Mẹ đã đụng chạm đến chính Chúa Giêsu.
Hôm nay, hiện diện nơi những người anh em khốn khổ, Chúa cũng đang chờ đợi chúng ta đến để được chúng ta chạm đến. Và ở nơi bàn tiệc lời Chúa cũng như bàn tiệc Thánh Thể hằng ngày, Chúa cũng mời gọi ta đến để chạm đến Ngài. Chỉ cần được đụng chạm tới Ngài, cuộc đời ta sẽ hoàn toàn đổi mới.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỨC TIN MẠNH MẼ, KHIÊM TỐN THẲM SÂU- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.”(Mc 5,36)
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai phép lạ Chúa Giêsu làm:
Một cho con gái ông Giarô sống lại.
Và một Chúa làm cho một người đàn bà đáng thương bị bệnh loạn huyết suốt 12 năm được khỏi.
- Ông Giarô là một người giầu có, có địa vị, có thế lực trong xã hội. Con gái của ông ở trong một tình trạng hết sức nguy hiểm có thể đưa đến tử vong.
Trái lại người đàn bà thì rất nghèo, chẳng có địa vị gì trong xã hội. Thậm chí còn bị xã hội coi khinh. Bà bị bệnh tật. Cơn bệnh đã kéo dài suốt 12 năm. Suốt 12 năm trời như thế, bao nhiêu tiền bạc bà đã dốc cả ra để chạy chữa những bệnh tật vẫn còn nguyên đó. Thật là một hoàn cảnh rất đáng thương.
- Tâm trạng của hai người gống nhau:
Cảm thấy mình hoàn toàn bất lực trước hiện trạng của mình. Với ông Giairô thì đứa con ông sắp chết. Với người đàn bà thì tiền bạc đã cạn kiệt mà kết quả thì chưa thấy gì, không những thế bệnh tình có vẻ còn nặng thêm.
- Cả hai đều có chung một niềm hy vọng: Hy vọng được Chúa cứu.
– Ông Giairô: Đứa con tối sắp chết, xin Thầy đến cứu nó.
– Người đàn bà nghĩ ở trong lòng: Nếu tôi được động đến áo của Người.
- Cách thức họ đến với Chúa có hơi khác nhau:
– Với ông Giairô: Ông đến một cách công khai trước mặt mọi người.
– Còn người đàn bà thì đến một cách bí mật kín đáo, không muốn cho ai biết.
- Kết quả: Rất phấn khởi, ngoài sự tưởng tượng.
– Với con ông Giairô: được Chúa cho sống lại.
– Với người đàn bà: được hoàn toàn khỏi bệnh.
- BÀI HỌC
- Như vậy qua những sự việc bài Tin Mừng hôm nay ghi lại, thử hỏi Chúa muốn gì nơi chúng ta? Thưa tôi tưởng Chúa muốn:
* Trước hết là phải có một đức tin mạnh mẽ.
Đức tin là một yếu tố rất cần thiết để Chúa thực hiện những việc lạ lùng cho chúng ta. Nhưng đức tin chỉ có khi chúng ta hoàn toàn biết ký thác cuộc đời của chúng ta cho Chúa.
Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Budapest nước Hungary để trấn áp một cuộc bạo động, có một viên sĩ quan trẻ hung hăng trong tư thế một kẻ chiến thăng, đã tìm đến nhà một vị mục sư.
Bước vào phòng, đóng xập cửa lại, anh ta chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và bảo ông mục sư:
– Này, ông có biết không, cái đó là một sự dối trá, mê hoặc dân nghèo để bọn người giàu có thể kìm hãm họ trong sự ngu dốt. Bây giờ chỉ có ông và tôi ông hãy thú nhận là không hề tin vào ông Giêsu nào đó là Con của Thiên Chúa.
Vị mục sư điềm tĩnh nhỏ nhẹ trả lời:
– Không thể được, tôi thật sự tin vào Người!
Viên sĩ quan rút súng ra và bảo:
– Ông đừng có đùa với tôi! Nếu ông không khẳng định đó là sự dốt trá, tôi sẽ nổ súng giết ông ngay!
Vị mục sư đứng thẳng người, nhìn sâu vào đôi mắt anh ta và dõng dạc trả lời:
– Tôi không thể nói khác được. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa!
Thật không ngờ, nghe đến đây, viên sĩ quan buông tay để rơi khẩu súng xuống nền nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư vừa khóc vừa nói :
– Xin lỗi ông, tôi chỉ muốn thử xem ông có trung thực hay không! Đúng thế, tôi cũng đã âm thầm lặng lẽ tin trong suốt nhiều năm qua như ông đã tin! Nhưng giờ đây, tôi đã khám phá ra rằng: Có ít nhất một người dám chết cho Đức Tin của mình, chính ông đã củng cố Đức Tin cho tôi!
Ông trưởng hội đường trong bài Tin Mừng hôm nay đã tin nhưng chưa đủ mạnh. Mặc dầu ông đã can đảm tìm đến với Chúa. Chúng ta biết hội đường Do thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông đã mạnh. Chính Đức Giêsu đã bảo ông:”Chỉ cần tin thôi!”.
Còn người phụ nữ tuy sợ hãi nhưng cũng đã can đảm vượt qua những nỗi sợ hãi đó để đến với Chúa, sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin đó: “Lòng tin của con đã chữa con”.
* Thứ đến là phải có một lòng khiêm tốn thẳm sâu.
Người khiêm tốn là người biết sống với chân cái thật của mình. Mình có thế nào thì mình quyết sống như vậy.
Vào thời Minh Trị (1786-1912), Nam-in, một thiền sư Nhật, tiếp một giáo sư đại học đến hỏi về thiền.
Nam-in mời trà. Ông đã rót đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm!
Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cho đến khi không kềm mình được nữa:
– Đầy quá rồi, xin đừng rót nữa.
– Giống như cái tách này. Nam-in nói ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tương của ông, làm sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được, trừ phi ông cạn cái tách của ông trước?
Vâng! Phải khiêm tốn thì mới có thể thấy được tình trạng bất lực của mình để biết tìm đến Chúa.
Một hôm, hoàng tử gọi vào đền vua một người lái buôn chuyên nghề bán ngựa. Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử hai con ngựa bạch đã được huấn luyện rất kỹ để hoàng tử kén chọn. Bề ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau, nhưng người lái buôn lại đòi hai giá khác nhau, con này gấp đôi giá con kia. Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến mà bảo:
-Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết tại sao con ngựa này gấp đôi giá con ngựa kia?
Các quan cận thần đến gần hai con ngựa và quan sát thật kỹ càng, nhưng không một ai nhận ra có điều gì khác biệt. Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người lính hầu cận đến và sai họ cưỡi trên hai con ngựa, hy vọng rằng các quan cận thần sẽ nhận ra giá trị của mỗi con. Sau mấy vòng phóng ngựa chung quanh sân, không ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về giá trị của hai con ngựa. Cuối cùng, hoàng tử phải lên tiếng giải thích cho họ:
– Chắc các ngươi đã nhận ra rằng: trong khi ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất không để lại dấu gì đằng sau, nó chạy cách nhẹ nhàng như bay. Trái lại con ngựa thứ hai để lại lớp bụi bay ngập trời. Chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá gấp đôi con ngựa thứ hai.
Chẳng cần phải dài lời, chúng ta cũng thấy được kết quả của lòng khiêm tốn đối với ông trưởng hội đường và người đàn bàn bệnh tật ngày hôm nay như thế nào. Chúng ta thấy sự khiêm tốn của hai người không những đã được biểu lộ qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn được diễn tả qua thái độ bên ngoài. Với ông trưởng hội đường Tin Mừng ghi: “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Còn với người đàn bà Tin Mừng cho biết: Sau khi bị phát giác, Người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm tốn ấy đã được Chúa thương.
Hôm nay, chúng ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm tốn thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm tốn như thế, ta sẽ nhận được tình thương của Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, chúng ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Người.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐỪNG SỢ, HÃY VỮNG TIN- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Để đón nhận Nước Thiên Chúa và quyền năng chữa lành của Chúa Giêsu, người rao giảng và ban tặng Nước Thiên Chúa, chúng ta cần có thái độ nào ? Chúa nhật tuần này, chúng ta được mời gọi nhận thức quyền năng của Chúa Giêsu, Đấng thực thi nuớc Thiên Chúa qua việc người chữa lành cho con gái ông Giairô trưởng hội đường và người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm. Cả hai người này, dù hoàn cảnh có khác nhau, đều biểu lộ một đức tin mạnh mẽ phi thường. Ông trưởng hội đường có đức tin mạnh mẽ xứng đáng vì đã can đảm đến với Chúa Giêsu để cầu xin cho con gái của ông đang lâm bệnh nặng gần chết, còn người đàn bà thì bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm đã tin tưởng chạm vào áo của Chúa Giêsu. Thái độ đầy tin tưởng của ông Giairô diễn tả một đức tin mạnh mẽ, ông thẳng thắn đến trước Chúa Giêsu và phục lạy trình bày rõ tình trạng nguy kịch của con gái ông. Câu chuyện bị gián đoạn bởi người đàn bà bị bệnh loạn huyết tìm cách tiếp xúc với Chúa Giêsu một cách kín đáo. Bà không đến trực tiếp xin Chúa Giêsu nhưng tin rằng mình chỉ cần chạm vào áo người, thì sẽ được khỏi bệnh. Và quả nhiên, bà đã được khỏi bệnh ngay lập tức. Phúc âm nhấn mạnh đến thái độ của Chúa Giêsu đối với bà. Người không để bà này được chữa lành cách vô danh, không ai biết, nhưng quay lại hỏi các môn đệ : ai đã chạm đến áo Ta. Bấy giờ, người đàn bà được chữa lành run sợ tiến đến và thú nhận mình đã chạm đến áo người và đã được chữa lành. Chúa Giêsu đã nói với bà lời an ủi khích lệ : « đức tin của con đã chữa con, hãy đi bằng an”. Lời nói an ủi của Chúa Giêsu khích lệ bà. Bà đã được chữa lành vì đã có lòng tin mạnh mẽ và bà hãy tiến bước trong đức tin này. Bà không còn là người vô danh hay bị loại trừ, nhưng ngược lại bà được nhắc nhớ đến như gương mẫu của một người có lòng tin và vì thế xứng đáng được chữa lành. Câu chuyện trở lại với tình huống của việc chữa lành cho con gái ông Giairô. Trên đường đi đến nhà ông Giairô thì những người nhà của ông đến báo con gái ông đã chết và đừng phiền thầy làm chi nữa. Những lời nói này biểu lộ thái độ thiếu lòng tin, nên Chúa Giêsu nói riêng với ông Giairô: hãy cứ vững lòng tin, đừng sợ. Đồng thời Chúa Giêsu chỉ đem theo ba môn đệ thân tín đi với người là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Khi đến nhà, Chúa Giêsu nhận thấy những người nhà của ông Giairô khóc lóc thảm thiết, nên người đã nói những lời trấn an mọi người : “sao lại khóc ồn ào như thế, đứa bé không chết đâu, nó chỉ ngủ thôi”. Nhưng người ta đã chế diễu người. Chúa Giêsu lại nhận thấy những thái độ thiếu lòng tin nơi những người chung quanh, và người chỉ cho phép những người thân là vợ chồng ông Giairô và ba môn đệ thân tín vào phòng riêng. Và tin mừng đã thuật lại những lời của chính Chúa Giêsu bằng tiếng aram : “Talitha koumi”, hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy. Lập tức em bé đã chỗi dậy. Chúa Giêsu có sức mạnh thần linh truyền khiến cho người đã chết được chỗi dậy.
Hai câu chuyện chữa lành đi liền sau dụ ngôn về Nước Thiên Chúa là cách làm sáng tỏ sức mạnh quyền năng Nước Thiên Chúa được biểu lộ bởi chính Chúa Giêsu. Sức mạnh này được ban tặng cách niềm nở cho những ai có lòng tin. Người đàn bà bị bệnh loạn huyết không còn là người vô danh hay bị khai trừ nhưng đã được chữa lành và khen ngợi như gương mẫu của người có lòng tin. Ông Giairô cũng thế, tỏa sáng trong Tin mừng với lòng tin vững vàng và chân thành. Câu chuyện Tin mừng cũng cho thấy khía cạnh Chúa Giêsu đã đón tiếp ông chân tình, người không câu nệ, không xa cách, người đã mau mắn và nhẫn nại, dù bị nghi ngờ hay coi thường bởi những người nhà của ông Giairô, để đến nhà ông, nói với ông và với những người ở nhà ông những lời nói đơn sơ chân thành đầy khích lệ : hãy vững tin, đừng sợ. Hai câu chuyện chữa lành của Tin mừng này làm sáng lên nhiều câu chuyện chữa lành khác nữa trong cuộc đời Chúa Giêsu và sứ mạng cứu thế của người. Chúa Giêsu luôn chứng tỏ một thái độ sẵn sàng để chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của con người và chứng tỏ sức mạnh chiến thắng tội lỗi, bệnh tật và sự chết của người, ngay cả từ nơi người tuôn chảy những sức mạnh chữa lành cho người đàn bà chỉ chạm vào áo người cách kín đáo, hoặc con gái ông Giairô dù em đã chết bằng một lời truyền đơn giản nhưng hiệu quả. Sức mạnh cứu thế của người là như thế: người đi đến mọi nơi để gặp gỡ những người có lòng tin, người như muốn vi phạm cả lề luật khi đón tiếp mọi người không câu nệ, và muốn để cho sức mạnh của người đụng chạm đến những ai đang bị bệnh tật và tội lỗi giam cầm để lôi kéo họ đến với nguồn sức mạnh chữa lành của người. Bài đọc sách Khôn ngoan làm cho chúng ta suy nghĩ về mầu nhiệm của tội và sự chết làm cho thân phận của con người trở nên bi đát. Sách Khôn ngoan khẳng định cho chúng ta rõ Thiên Chúa tạo dựng mọi sự tốt đẹp, lành mạnh, tràn đầy sự sống và hạnh phúc. Thiên Chúa tạo dựng mọi sự để cho chúng hiện hữu ngay cả tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa, tức là được tham dự vào sự sống và vinh quang của Thiên Chúa. Sách khôn ngoan cũng trả lời luôn câu hỏi về nguyên nhân của đau khổ và sự chết. Chính ma quỉ ác thần do bởi ghen tương mới tạo ra sự ác, và sự chết là hậu quả của tội khi con người sử dụng tự do của mình để chống lại thánh ý và lề luật của Thiên Chúa. Tội dẫn tới sự chết và con người đã phạm tội, bất tuân phục Thiên Chúa, nên con người phải nhận hậu quả của tội là sự chết. Mầu nhiệm của tội và sự chết cũng là mầu nhiệm khó hiểu đối với mỗi người. Thiên Chúa tôn trọng tự do của mỗi người đến độ dù con người có phạm tội chống lại ý muốn của Thiên Chúa để rồi nhận hậu quả là phải chết. Nhưng mặt khác, Thiên Chúa lại yêu thương và tha thứ cho con người ngay cả chấp nhận nhập thể làm người, gặp gỡ mỗi người chúng ta, và chịu chết cho mỗi người chúng ta để lôi kéo chúng ta ra khỏi tội và sự chết. Điều quan trọng là dù đã phạm tội và phải chết, chúng ta được mời gọi có thái độ tin tưởng vào người con Thiên Chúa là Chúa Giêsu và đón nhận lời của người, để cho lời của người chữa lành chúng ta từ bên trong và dẫn đưa chúng ta đến sự sống. Lời của người là lời ban tặng sự sống chân thật và lôi kéo chúng ta ra khỏi vực thẳm tội lỗi và sự chết.

CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN- Năm B
TIN THÌ ĐƯỢC CHỮA LÀNH VÀ ĐƯỢC SỐNG- Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
Mang trong mình kiếp con người từ khi sinh ra đến lúc chết đi, ai cũng trải qua những giai đoạn như: sinh, bệnh, lão, tử. Tuy nhiên, trong 4 cái khổ ấy, đệ nhị khổ là thứ khổ dai dẳng nhất.
Khổ về mặt thể lý, con người đã cảm thấy ngán ngẩn. Nhưng cái khổ tâm lý, khổ tinh thần, người đối diện với nó sẽ cảm thấy day rứt khôn nguôi!
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại hai phép lạ Đức Giêsu đã làm. Một phép lạ chữa lành bệnh tật. Một phép lạ cứu sống. Phép lạ chữa lành bệnh tật, Ngài đã chữa lành cả thể bệnh lẫn tâm bệnh. Phép lạ cứu sống, Ngài thể hiện uy quyền nhờ lòng tin của người kêu xin.
Qua mạc khải được gợi hứng từ chính bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu thêm những phép lạ khác Đức Giêsu đã làm để thấy được sứ mạng chính yếu của Đức Giêsu ngang qua những phép lạ ấy.
Thực thi phép lạ để cứu chuộc
Các sách Tin Mừng ghi lại Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ liên quan đến việc chữa lành, chẳng hạn như: chữa hai người bị quỷ ám (x. Mt 8, 29-34; Mc 5,1-20; Lc 8, 26-39); chữa nhạc mẫu ông Phêrô khỏi sốt (x. Mt 8, 14-15; Mc 1, 29-31; Lc 4, 38-39); chữa lành người bại liệt (x. Mt 9,1-8; Mc 2,1-12; Lc 5,17-26); chữa 10 người phong cùi được lành (x. Lc 17, 11-19); chữa hai người mù (x. Mt 9, 27-31); chữa người câm bị quỷ ám (x. Mt 9,32-34); chữa con gái người đàn bà Canaan cũng bị quỷ ám (x. Mt 15,21-28; Mc 7,24-30); chữa nhiều bệnh nhân tại bờ Biển Hồ Galilê (Mt 15,29-31); chữa rất nhiều người ốm đau và mắc đủ thứ bệnh cũng như loại trừ ma quỷ (x. Mt 8,16-17; Mc 1,32-34; Lc 4,40-41); và rồi ngay trước lúc bị bắt, Ngài đã chữa lành tai bị đứt của đầy tớ thầy thượng tế (x. Mt 26,47-55; Mc 14,43-49; Lc 22,47-51; Ga 18,3-11).
Qua một số phép lạ đã liệt kê ở trên, chúng ta thấy có điểm chung, đó là tin thì được lành và được sống.
Điều này cũng được Tin Mừng thánh Máccô ghi lại hôm nay thật rõ:
Phép lạ thứ nhất, Máccô kể lại giữa một đám người ô hợp, họ chen lấn, xô đẩy và à uôm. Vì thế, việc đụng chạm tới Đức Giêsu là chuyện bình thường. Tuy nhiên, có một cái đụng rất ấn tượng khiến Máccô không thể bỏ qua, bởi vì cái đụng này được Đức Giêsu để ý và nhắc tới. Ngài nói: “Ai đã đụng đến ta?”. Cái đụng ấy chính là cái đụng của một phụ nữ bị coi là ô uế suốt nhiều năm. Trong những năm ấy, người phụ nữ Dothái này đã phải tủi nhục, đắng cay và nhiều khi đặt ra cho mình những câu hỏi tại sao? Tại sao? Chính câu hỏi trong đầu và tâm khảm của chị phụ nữ này đã làm cho nàng không còn câu nệ vào luật lệ, bất chấp mọi thứ cấm cản và đã chạy thẳng tới nơi Đức Giêsu và đụng chạm vào Ngài.
12 năm mắc căn bệnh băng huyết. 12 năm đối diện với nhiều tủi nhục. 12 năm tìm thầy chạy thuốc. 12 năm bị cấm không được đụng chạm tới người khác. 12 năm không được đến đền thờ…. Càng đau khổ, tủi nhục bao nhiêu, người phụ nữ này lại càng tăng thêm lòng can đảm bấy nhiêu. Vì thế, bà ta đã quyết tâm và tin tưởng rằng: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi”. Bà tin thì bà được. Vì thế, Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi cả bệnh thể xác lẫn tinh thần.
Phép lạ thứ hai, thánh sử Máccô nhấn mạnh đến đức tin của người liên hệ và đề cao tinh thần liên đới giữ người cha và cô con gái xấu số. Từ một người trưởng Hội Đường, không quen biết gì đến Đức Giêsu, chỉ nghe người ta nói về Ngài. Từ một người giàu có và quyền thế trong dân, lẽ ra ông bám víu vào thế gian để đảm bảo cho con gái ông khỏi lưỡi hái tử thần. Tuy nhiên, những thứ vật chất và quyền hành trần thế đã không làm cho điều ông mong muốn được thành hiện thực, vì thế, ông đã can đảm, dốc hết lòng tin vào Đấng xa lạ chưa một lần gặp mà chỉ nghe đồn thổi về Ngài. Nhưng khi gặp, ông đã quỳ mọp dưới chân và năn nỉ Ngài đến chữa lành bệnh tật cho con gái ông.
Gặp được Đức Giêsu, ông giống như cá gặp nước, bởi vì từ lòng dạ xót thương, Đức Giêsu đã an ủi ông: “Đừng sợ, cứ tin“. Nói xong, Ngài đã đích thân tới tận nơi để an ủi những người còn sống: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” và ngay lập tức, Ngài tiến lại gần đứa trẻ và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi !”
Hai phép lạ khởi đi từ lòng tin. Hai phép lạ kết tụ ở sự sống được trao ban.
Sự sống thể lý nơi người đàn bà mất dần bởi chứng loạn kinh tới 12 năm. Khi chữa lành, Đức Giêsu đã trả lại cho bà sự sống sung mãn thủa ban đầu.
Còn đứa trẻ con ông trưởng Hội Đường thì sự sống đã tắt, nhưng Đức Giêsu đã làm cho sự sống ấy được hồi sinh.
Như vậy, phép lạ có được là do lòng tin từ phía con người và do quyền năng của Thiên Chúa cũng như lòng xót thương của Ngài đúng như lời Kinh Thánh đã chép: “Không phải lá cây, chẳng phải thuốc đắp đã chữa họ lành, nhưng chính Lời Ngài chữa lành tất cả” (Kn 16,12).
Niềm hy vọng của chúng ta
Lược qua những phép lạ trong cuộc đời sứ vụ Đấng Cứu Thế, nhất là hai phép lạ được thánh Máccô nhắc tới trong bài Tin Mừng hôm nay đã đem lại cho chúng ta bài học quý giá, đó là:
Nếu sự giàu có, quyền hành của ông trưởng Hội Đường đã không thể tự cứu con của mình khỏi chết, hay sự bất lực không thể diễn tả nổi của người phụ nữ đã tìm thầy chạy thuốc suốt 12 năm, tốn biết bao tiền, mất biết bao công sức… đã dẫn đến một đức tin trưởng thành và can trường vào sự hiện diện của Đấng có thể cứu chữa cả xác và hồn.
Thì đức tin của mỗi chúng ta cũng vậy. Nhiều lúc, mỗi người cũng cảm thấy trống trải khi bám víu vào sự giàu có hay quyền cao chức trọng hoặc cậy vào những khả năng của con người mà phớt lờ Thiên Chúa, Vị Thầy Thuốc tuyệt hảo của cuộc sống để bám víu vào nỗ lực trần gian. Những lúc như thế, ấy là chúng ta đã bị phai nhạt đức tin và không xác tín vào Thiên Chúa nữa. Noi gương người đàn bà và ông trưởng Hội Đường, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay cứu chữa và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh. Nói cách khác, bí quyết được chữa lành chính là đức tin. Chìa khóa này sẽ mở được cánh cửa của lòng thương xót Chúa để ta được đắm chìm trong ân sủng và chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.
Khi tin tưởng vào Ngài, chúng ta sẽ nhận ra Chúa không thờ ơ trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh và không ngừng quan phòng cho chúng ta: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. […] Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy.Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em!” (x. Mt 6, 25-30).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giải thoát chúng con khỏi những căn bệnh thể lý đang dằn vặt thể xác chúng con, đồng thời, xin Chúa cũng chữa lành những căn bệnh tự kiêu, tự mãn, tự ti, tự phụ của chúng con, để thân xác và tâm hồn chúng con được lành mạnh. Amen.



































