Suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật 2 Phục Sinh năm A:
NGÀI VẪN CÓ ĐÓ TRONG CUỘC ĐỜI
Logos năm A
Vào lúc 10 giờ 30 ngày 27/3/2005, tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, với sự hiện diện của hàng chục ngàn tín hữu, được trực tiếp truyền hình trên toàn thế giới, thánh lễ Phục Sinh đã được cử hành thật cảm động.
Cảm động vì trong 26 năm trên ngai giáo hoàng, lần đầu tiên Đức Thánh Cha không cử hành thánh lễ Phục Sinh. Sức khoẻ ngài chưa bình phục sau cuộc giải phẫu. Vì thế, Đức Hồng Y quốc vụ khanh Angelo Sodano đã thay mặt ngài chủ sự thánh lễ.
Cảm động vì trong suốt thánh lễ, dù không cử hành, nhưng cửa sổ phòng Đức Thánh Cha vẫn mở ra như một dấu chỉ hiệp thông với mọi người trong thánh lễ.
Cảm động vì sau thánh lễ, Đức Thánh Cha ngồi trên xe được đẩy tới trước cửa sổ trong chiếc áo trắng và dây các phép truyền thống. Vị linh mục phụ tá để micrô gần miệng Đức Thánh Cha để ngài cố nói vài lời. Ngài cố hết sức phát âm, nhưng không được một lời nào, chỉ nghe thấy tiếng thở mệt nhọc và những âm thanh không thành tiếng. Nhiều người đã bật khóc nức nở và chính Đức Thánh Cha cũng khóc !
Sau cùng, Đức Thánh Cha đã ra dấu ban phép lành với những giọt lệ còn đọng trên khóe mắt ngài.
Mọi tín hữu trên khắp thế giới đã xúc động vì sự hiện diện đầy tình thương của Đức Thánh Cha giữa cộng đoàn dân Chúa. Dù với thân xác bệnh tật, sự hiện diện của ngài luôn là dấu chỉ của sự bình an, niềm vui và đức tin cho toàn thể Giáo Hội.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Kitô phục sinh đã hiện diện giữa các môn đệ trong căn phòng đóng kín. Sự xuất hiện của Chúa thật bất ngờ, nhưng cũng đầy tình thương dành cho những môn đệ yêu quí đang sợ hãi và hoang mang. Từ những vết thương nơi tay chân và cạnh sườn, Chúa đã đem lại sự bình an, niềm vui và niềm tin cho các môn đệ.
Sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh,
dấu chỉ sự bình an.
Sau cái chết của Chúa Giêsu, các môn đệ luôn sống trong tâm trạng lo sợ và hoảng loạn. Vì thế, các ông chỉ còn biết tụ họp lại với nhau trong căn phòng đóng kín.
Đức Kitô Phục Sinh hiện đến. Không gì có thể ngăn cản bước chân của ngài. Bước chân ấy đã bước qua bức tường sự chết, thì cũng bước qua được những cánh cửa khoá chặt. Bước chân Ngài dù còn mang vết đinh đóng, đã vội vã đến với các môn đệ đang run sợ và hoảng hốt. Đức Kitô Phục Sinh đến để đem lại sự bình an cho họ. Sau mỗi lần hiện ra, Ngài đều chúc các ông : “Bình an cho các con”. Ngài còn thổi hơi vào các ông và nói : “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Bình an là quà tặng của Chúa Thánh Thần. Ban Thánh Thần chính là ban sự bình an.
Khi một cơn bão lớn hình thành, nó giống như một cái đĩa khổng lồ xoay tròn với một lỗ hỗng ở giữa. Lỗ hổng đó gọi là tâm bão. Mặc dù gió lốc thét gào chung quanh, nhưng ở tâm bão luôn luôn êm ả và bình yên.
Cuộc thương khó và cái chết của Chúa như cơn bão lốc làm các môn đệ quay cuồng trong sự kinh hãi. Đức Kitô Phục sinh hiện đến ở giữa các ông như “tâm bão” đầy sự bình an. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện trong mọi trái tim nhân loại như dấu chỉ của bình an.
Sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh,
dấu chỉ của niềm vui.
Không thể tìm được niềm vui trong cảnh tang chế và chết chóc. Cuộc tử nạn của Chúa đã làm rơi biết bao giọt lệ thương đau và dìm tâm hồn các môn đệ chìm sâu trong nỗi buồn sầu. Không buồn làm sao được, khi họ mất đi Người Thầy kính yêu đã từng chia ngọt sẻ bùi với họ. Lòng các môn đệ như tan nát đớn đau.
Đức Kitô Phục Sinh hiện đến. Với đôi tay còn mang vết đinh, Ngài xoa dịu vết thương nơi tâm hồn các môn đệ. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Họ đã vui mừng khôn xiết vì nhìn thấy Chúa. Những vết thương của Chúa là chứng tích của tình yêu mãnh liệt. Những vết thương ấy đã chữa lành thương tích trong trái tim các môn đệ, đã làm cho tâm hồn các ông được “bình phục” và tràn ngập niềm vui.
Trong các khu rừng thời chiến tranh bị bom đạn cày xới, cây nào mang “vết thương” do những mảnh bom đạn ghim vào, trải qua thời gian, sẽ tạo thành trầm hương, một loại hương liệu quí như vàng. Những vết thương nơi tay chân và cạnh sườn Chúa cũng tỏa hương hoa của niềm vui, làm tan đi u buồn sầu khổ trong lòng các môn đệ. Chúa Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục hiện diện trong cuộc đời mỗi người, trên mọi chặng đường cuộc sống, để đem lại niềm vui cho mọi tâm hồn.
Sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh,
dấu chỉ của niềm tin.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, Ngài có mặt khắp nơi. Không gì có thể giam hãm hay ngăn cản sự hiện diện của Ngài. Đức Kitô “tràn ngập” mọi nơi chốn, mọi thời khắc, mọi nẻo đường, mọi khúc quanh của cuộc sống.
Có điều là Đức Kitô Phục Sinh hiện diện khắp nơi để tìm gặp con người, thì con người lại vắng mặt. Các tông đồ trốn tránh trong nhà. Hai môn đệ làng Emmaus chán nản bỏ về quê. Các môn đệ khác chạy trốn vì sợ người Do Thái. Riêng tông đồ Tôma vì thất vọng đã không tìm thấy niềm an ủi giữa cộng đoàn anh em. Ông đã vắng mặt khi Chúa hiện đến. Vì rời bỏ anh em, niềm tin của Tôma không được nâng đỡ và củng cố. Ông trở thành “kẻ cứng lòng tin”. Ông tuyên bố nếu không nhìn thấy các vết thương của Chúa thì không tin.
Tám ngày sau, Chúa Kitô Phục Sinh lại hiện đến để củng cố đức tin của Tôma và các môn đệ. Sau khi Tôma nhìn thấy những vết đinh, Tôma đã tỏ lòng tin mạnh mẽ : “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Nhưng Chúa phán : “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Đó cũng là lời Chúa nói với chúng ta hôm nay, để chúng ta không chỉ tin vì mắt thấy tai nghe, nhưng còn tin vì những mạc khải yêu thương của Chúa.
Sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh còn là nguyên lý làm nên sự hiệp nhất của một cộng đoàn đức tin. Chính cộng đoàn tín hữu sơ khai là minh chứng cho điều đó (Bài đọc 1 : Tông đồ công vụ). Gia đình và giáo xứ cũng là cộng đoàn đức tin, nâng đỡ và củng cố đức tin của mỗi người. Hơn nữa, chính sự hiện diện tích cực của chúng ta trong cộng đoàn, cũng nâng đỡ và củng cố đức tin của anh em mình.
Vào lúc 23 giờ ngày 28/3/2005, một cơn động đất mạnh đến 8,7 độ Richter đã xảy ra tại hòn đảo Nias gần quần đảo Sumatra thuộc nước Inđônêsia. Cơn động đất không gây ra sóng thần, nhưng đã phá huỷ nhiều nhà cửa và làm cho hàng ngàn người chết.
Có một điều trùng hợp là cơn động đất và sóng thần xảy ra trước đây vào ngày 26/12/2004, ngay sau ngày lễ Chúa Giáng Sinh, thì trận động đất này lại xảy ra ngay sau ngày lễ Chúa Phục Sinh.
Tại sao Chúa sinh ra lại để cho gần 300.000 người chết đi ? Tại sao Chúa sống lại trong khi để hàng ngàn người tử vong? Phải chăng Thiên Chúa mang khuôn mặt của “cái ác”?
Nếu nhìn theo ánh sáng đức tin, ta thấy con người không thể tránh khỏi đau khổ ở đời này. Thế thì tại sao chúng ta không suy nghĩ ngược lại : không phải Thiên Chúa mang khuôn mặt của “cái ác”, nhưng thật ra Ngài đang làm cho “cái ác” mang khuôn mặt của Thiên Chúa. Chúa Giáng Sinh và Phục Sinh đang cố kéo con người đau khổ gần lại với Ngài hơn, để Ngài làm vơi bớt đi những đau khổ ấy. Ngài muốn có mặt ngay bên cạnh nỗi thống khổ của nhân loại, để xoa dịu bớt nỗi thống khổ ấy. Ngài muốn hiện diện nơi những con người đang xả thân cứu giúp các nạn nhân. Ngài muốn hiện diện nơi những tấm lòng quảng đại đang hướng về những kẻ khốn cùng. Ngài vẫn có đó để làm cho thế giới hôm nay xích lại gần nhau hơn và thương yêu nhau hơn. Ngài vẫn có đó trong cuộc đời mỗi người chúng ta.