Suy niệm Lời Chúa Chúa nhật II Phục sinh năm A
CHÚA NHẬT “LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA”
CÁC TÍN HỮU SỐNG NIỀM HẠNH PHÚC
VÌ CHÚA ĐÃ PHỤC SINH
Lm. Vinhsơn Trần Minh Hòa
Biến cố Chúa đã phục sinh là chân lý đức tin. Chân lý ấy dựa trên nền tảng Kinh Thánh và giáo huấn của Hội Thánh tông truyền. Các tông đồ là những người đã sống với Chúa Giêsu và đã gặp gỡ được Chúa phục sinh không chỉ bằng con mắt đức tin nhưng còn bằng con mắt thể lý. Bài Tin mừng theo thánh Gioan hôm nay đã trình thuật những lần các tông đồ gặp gỡ Chúa phục sinh.
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần. Cửa kín then cài không thể ngăn cản sự hiện diện của Chúa phục sinh trước mặt các tông đồ. Bởi lẽ, sau phục sinh, thân xác Chúa Giêsu đã trở nên siêu việt. Ngài đã được Chúa Cha siêu tôn và vượt qua biên giới của không gian và thời gian. Dấu ấn để các tông đồ nhớ lần hiện ra này là Chúa Giêsu đã cho các tông đồ xem tay chân và cạnh sườn. Đồng thời, Người nói lời chúc bình an và thổi hơi trao ban Thánh Thần. Sở dĩ, các tông đồ đã nhận ra Chúa phục sinh bởi vì các ông đã thấy dấu đinh và dấu tích nơi cạnh sườn Chúa. Một người chịu chết khổ hình thập giá thì phải có dấu tích để lại. Dấu tích nơi tay chân và cạnh sườn Chúa như là lời minh chứng Chúa đã phục sinh. Thêm vào đó, lời chúc bình an và hành vi và thổi hơi trao ban Thánh Thần của Đấng hiện ra đã chứng tỏ Đấng ấy là Chúa Giêsu phục sinh. Bởi lẽ, lời chúc bình ban và hứa ban Thánh Thần là lời độc quyền mà người ta đã thường nghe trên môi miệng Chúa Giêsu. Trước khi bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu đã nói nhiều lần về sự bình an mà chính Người sẽ trao ban. Người mời gọi các tông đồ khi đi truyền giáo phải chào chúc bình an cho nhà mà các tông đồ đến (x. Mt 10,12). Khi chữa lành bệnh, Chúa Giêsu thường chào chúc bình an cho người được khỏi (x. Mc 5,34, Lc 7,50, Lc 8,48). Đặc biệt, Chúa Giêsu đã hứa ban bình an cho các tông đồ khi Người còn ở với các ông: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27). Người cũng nói đến Chúa Thánh Thần sẽ được ban cho các tông đồ: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16,13).
Lần thứ hai, Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ có sự hiện diện của Tôma. Sự hiện diện của Tôma mang một dấu ấn đặc biệt, chứng thực Chúa phục sinh. Xuất phát từ một niềm tin có sự can thiệp đặc biệt của lý, Tôma muốn tìm hiểu đến ngọn nguồn biến cố phục sinh. Có lẽ, vì Chúa Giêsu phục sinh hiện ra lần trước trong tình trạng cửa nhà đóng kín mà các tông đồ chỉ thấy Chúa mà không sờ đến tay chân của Chúa nên lần hiện ra này Tôma muốn đụng chạm thật sự để chắc chắn rằng thân xác Chúa Giêsu phục sinh thật, chứ không phải là ảo ảnh, hay là ma. Sự đòi hỏi của Tôma tưởng chừng như quá đáng nhưng lại là cơ hội đặc biệt để các tông đồ một lần nữa gặp gỡ Chúa phục sinh với một mức độ cao hơn. Mức độ đó là các tông đồ không chỉ nhận biết Chúa phục sinh bằng ánh mắt thể lý như lần trước mà bằng cả xúc giác, với bàn tay đụng chạm vào Đấng phục sinh. Sau lần gặp gỡ này, chắc chắn các tông đồ tin nhận Chúa đã phục sinh thật chứ không phải là ma. Bởi vì, ma đâu có xương có thịt như các tông đồ đã thấy Chúa sau khi rờ xem (x. Lc 24,39). Nhờ gặp gỡ Đấng phục sinh, các tông đồ được củng cố niềm tin và sống hạnh phúc trong cộng đoàn kitô hữu tiên khởi.
2. Các kitô hữu tiên khởi sống niềm hạnh phúc vì Chúa đã phục sinh.
Mầu nhiệm Chúa phục sinh đã mở ra cho các kitô hữu tiên khởi niềm hạnh phúc khôn tả. Niềm hạnh phúc ấy được các kitô hữu tiên khởi thể hiện trong đời sống thường ngày. Sách Công vụ đã ghi lại những sinh hoạt hạnh phúc của các kitô hữu tiên khởi này. Họ hợp nhất với nhau, chuyên cần cầu nguyện, năng đến đền thờ, lắng nghe các tông đồ giảng dạy và nhất là siêng năng tham dự lễ bẻ bánh. Họ không còn chú trọng sống cho những gì thuộc hạ giới nhưng hướng về thượng giới. Tiền bạc, tài sản có giá trị nhất định, nhưng đối với các tín hữu tiên khởi thì chúng chỉ là thứ yếu. Họ sẵn sàng bán đất đai, của cải để lấy tiền chia cho mỗi người tủy theo nhu cầu. Phần họ, họ dùng bữa cách đơn sơ và dành giờ để ca tụng Thiên Chúa. Chính đời sống yêu thương và hạnh phúc của họ là sức mạnh truyền giáo. Cộng đoàn mỗi ngày có thêm những kitô hữu mới (x. Cv 2,47).
Tuy nhiên, sống niềm hạnh phúc vì Chúa đã phục sinh không miễn trừ cho các tín hữu tiên khởi khỏi bị thử thách. Họ có thể bị bách hại trăm bề nhưng không tuyệt vọng bởi Chúa phục sinh là niềm hy vọng quá lớn khiến họ có thể xem thường tất cả. Thánh Phêrô đã nhắc nhở các tín hữu hãy kiên tâm chịu đựng, vì đó là quy luật tất yếu để tinh luyện lòng yêu mến và đức tin trung kiên của các tín hữu. Như vàng được tôi luyện trong lửa để thấy được giá trị thực thì các tín hữu được tôi luyện trong thử thách. Chính khi đức tin đã được tinh luyện sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự (x. 1Pr 1,7). Chịu thử thách nhưng các tín hữu sẽ không tuyệt vọng. Niềm hy vọng lớn lao của các tín hữu không kết thúc ở đời này nhưng hướng tới hạnh phúc viên mãn bên Chúa phục sinh bởi Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại và đã mở ra cơ hội cho các tín hữu được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Vì vậy, các tín hữu được mời gọi sống trong thái độ chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi họ đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ (x. 1Pr 1,8).
3. Các kitô hữu hôm nay được mời gọi sống niềm hạnh phúc vì Chúa đã phục sinh.
Niềm hạnh phúc vì Chúa đã phục sinh không chỉ dừng lại nơi lòng các tín hữu tiên khởi nhưng còn ảnh hưởng đến các tín hữu ngày nay. Trong cuộc lữ hành đức tin này, ai cũng phải chịu thử thách. Tuy nhiên, kết cục của những ai trung kiên theo Chúa không phải là nấm mồ hư nát nhưng là niềm hy vọng được sống lại với Đấng phục sinh. Bởi lẽ, Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu (x. 1 Cr 15,20) và nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng có quyền hy vọng và tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su (x. 1 Tx 4,14).
Niềm tin vào Chúa phục sinh khiến cho các tín hữu sống đời này không bi quan thất vọng nhưng đầy tràn niềm vui và hạnh phúc trong bước đường theo Chúa. Tuy nhiên, niềm vui và hạnh phúc đó phải được các tín hữu biểu lộ qua đời sống hằng ngày. Tinh thần đoàn kết yêu thương nhau, cùng nhau xây đắp mối hiệp nhất nên một, sống chuyên chăm lắng nghe lời Mẹ Giáo hội dạy và chuyên cần cử hành thánh lễ là những dấu chỉ cho thấy các tín hữu hôm nay đang sống niềm hạnh phúc vì Chúa đã phục sinh.
Ước mong Lời Chúa trong phụng vụ hôm nay giúp các tín hữu ngày nay sống niềm hạnh phúc như các kitô hữu tiên khởi năm xưa, luôn yêu thương gắn bó nên một với nhau, giúp nhau thăng tiến trong đời sống đức tin. Để qua đời sống bác ái, yêu thương của các tín hữu ngày nay, nhiều anh em lương dân tin nhận Chúa phục sinh, nhờ đó họ được sống chứa chan hạnh phúc trong gia đình Thiên Chúa và hưởng niềm vui ơn cứu độ.