Lời Chúa Chúa nhật 32 Thường niên C
ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG KẺ SỐNG LẠI;
MỘT THỰC TẠI MỚI LẠ TUYỆT VỜI
Chú giải của Fiche Dominicales
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Gài bẩy từ một trường hợp không thực
Khi những kinh sư và thượng tế phái các “tay sai” đến hỏi Đức Giêsu về việc nộp thuế cho hoàng đế Rôma, người đã trả lời họ một cách quá khôn khéo đến độ họ “phái ngạc nhiên và làm thinh luôn”.
Bấy giờ là chính những người thuộc nhóm Sađốc tới thay phiên. Những người này làm thành một “phe” thân với thượng tế (Cv 5, l7). Có nguồn gốc là quý tộc, thuộc giai cấp tư tế, và là những người bảo thủ trong vấn đề tôn giáo, họ rất quý chuộng bộ Ngũ Thư của Kinh Thánh, nhưng lại không đếm xỉa đến sách các ngôn sứ; còn về các trước tác gần đây hơn, họ chối bỏ uy tín của những sách ấy. Nếu nhóm này “chủ trương không có sự sống lại”, là vì họ không tìm thấy dấu vết nào trong bộ Ngũ Thư mà họ thường tham khảo: Họ coi niềm tin vào sự sống lại như một sự canh tân và lệch lạc, mà thực ra chỉ xuất hiện trong bối cảnh cuộc nổi dậy của anh em nhà Macabê khi những người Israel trung thành với luật Chúa đã can đảm chịu chết vì đạo (cf. Bài đọc 1 Chúa nhật này).
Vì thế, khi biết Đức Giêsu cũng như tất cả nhóm biệt phái và phần đông dân chúng đều tin có sự sống lại, thì những người thuộc nhóm Sađốc liền nêu ra cho Người một trường hợp không có thực chứng tỏ sự phi lý của niềm tin này, dựa vào câu chuyện kỳ cục mà họ đưa ra. Đó là câu chuyện hoang đường về một người phụ nữ hiếm muộn nọ, mà theo luật Lêvi (một luật đã bị huỷ bỏ ở thế kỷ I) đã lần lượt kết hôn với sáu người em chồng chết mà không có con. Họ hỏi Chúa: “Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?”.
2. Câu trả lời khiến đối phương phải rút lui
Câu trả lời Chúa đưa ra hôm nay thật không ai ngờ, khiến đối phương phải rút lui, tuy nó vẫn thích nghi phần nào với não trạng của những người đôi thoại, những người Pharisêu, và nhóm Sađốc. Với những người biệt phái, Chúa đả phá cái quan niệm quá duy vật mà họ đưa ra về vấn đề kẻ chết sống lại, quan niệm mà những người thuộc nhóm Sađốc hẳn cũng chế giễu: họ mường tượng sự sống lại như chuyện thân xác được hồi sinh để có một nếp sống sau này đại khái như nếp sống hiện nay ở trần gian: cũng sinh con đẻ cái, cũng làm công việc kia nọ vậy.
Đời sống của các kẻ sống lại được hiệp thông với Thiên Chúa hấng sống, Đức Giêsu khẳng định, là đời sống hoàn toàn mới lạ so với đời sống trần gian này. Đời sống đó không có một kiểu mẫu nào ở đời này cả. Đó là một cuộc sống không thể nào tưởng tượng ra nổi, một cuộc sống hoàn toàn được biến đổi, một cuộc sống của những người “Con Thiên Chúa”, những “người được hưởng ơn phục sinh”: “Họ giống như các thiên thần”.
Với những người thuộc nhóm sađốc dựa vào Lề Luật Môsê để chối bỏ niềm tin kẻ chết sống lại, thì Đức Giêsu không trưng dẫn những sách gần đây hẳn, như sách Đanien. Người dựa vào Luật Chúa mà khẳng định rằng: “Mọi kẻ chết đều phải sống lại”.
Trong bụi gai cháy sáng (Xh 3, 6) Thiên Chúa tự xưng mình là “Thiên Chúa của tổ phụ Ápraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac, Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp”. Nếu Thiên Chúa làm bạn hữu với các tổ phụ, thì không phải chỉ trong thời gian của một đời người mà thôi. Giao ước người đã ký kết với các tổ phụ không thể chết, mà phải tồn tại đến muôn đời, vì Thiên Chúa đời đời trung tín.
Tất cả “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết” đều là những người sống mãi, sống muôn đời, họ hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa vì “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Chúa của kẻ sống”.
H. Cousin chú giải; “Ý tưởng nền tảng là lòng trung tín của Đức Chúa đối với những kẻ Người tuyển chọn, thì ngay cả Thần chết, kẻ thù của Thiên Chúa cũng không làm gì nổi. Do lòng trung tín của Thiên Chúa đối với Giao ước chính là động cơ thúc đẩy niềm tin vào sự sống lại của kẻ đã chết”. (L’Evangile de Luc, Centurion, trg 271).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. Thiên Chúa hằng sống”
(Đức Cha L. Daloz, trong Dieu a visílé con peuple”, Dcsclce de Brouwer, trg. 161 – 162).
Đức Giêsu lợi đụng những vấn đề lắt léo người ta đưa ra chống đối Người để tiếp tục mạc khải của Đức Chúa Cha cho đến những ngày cuối cùng. Những người thuộc nhóm Sađốc vốn chủ trương không có sự sống lại đến đặt cho người một trường hợp giả trang, mà theo họ nghĩ thì việc sống lại là điều phi lý không thể có được. Để tuân theo luật Môsê, bảy anh em lần lượt cưới cùng một người phụ nữ, và sau mỗi lần người phụ nữ ấy lại trở thành kẻ góa bụa. Sự sống lại hẳn sẽ đặt họ vào tình cảnh éo le: “Khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đều lấy bà làm vợ? “. Đức Giêsu dùng thời giờ trả lòi đầy đủ cho vấn đề phục sinh, vì đó là điều rất hệ trọng. Không có sống lại, như thánh Phaolô nói, đức tin của chúng ta hóa ra “hão huyền”… Cũng đáng công cho chúng ta chăm chú lắng nghe lời Chúa phán về điều này. Thí dụ người ta đưa ra để chống đối Người, tạo cho Người cơ hội để giải thích tình trạng mới lạ của “những ai được xét là đáng hưởng phúc đòi sau và sống lại từ cõi chết “. Đây không phải là vấn đề trở lại với cuộc sống đời này, để mà dựng vợ gả chồng, mà là một sự tham dự vào thế giới mai sau, ở đó người ta không còn chết nữa, không còn lấy vợ lấy chồng, người ta giống như thiên thần. Đó là một dạng sinh ra mới, làm cho người ta trở thành con cái của sự sống lại. Và do đó, hoàn toàn là con cái Thiên Chúa.
Sự sống lại là hành động của một Thiên Chúa hằng sống, Đấng ban sự sống ngay cả bên kia cái chết; Thiên Chúa của bụi gai cháy sáng, tự giới thiệu mình là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac và là Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Người đâu có giới thiệu mình là Thiên Chúa của kẻ chết? ” Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của các kể chết mà là của kẻ sống… “. Suốt cả cuộc đời Đức Giêsu luôn quy hướng về Đức Chúa Cha; chính Người là cội nguồn, là sự sống mà ngay cả thần chết cũng không có được tiếng nói cuối tùng. Vì có mấy vị kinh sư dám ngả về lập trường của Chúa – họ vui mừng thấy những ngươi thuộc nhóm Sađốc phải bẽ mặt – nên chúng ta chỉ có thể ngợi khen Đức Giêsu vì đã loan báo cho chúng ta một vị Thiên Chúa như thế: ” Thưa Thầy chúng tôi biết Thầy nói và dạy cách thắng thắn! “. Chẳng bao lâu nữa, sự phục sinh của chính Đức Giêsu sẽ tỏ cho thấy một tương lai mà chẳng bao giờ chúng ta dám mơ ước? “.
2. “Sự sống lại đã bắt đầu rồi”
(F. Deleclos, trong “Prends ét mang la Parole”, Ccnturion Duculot, trg 262).
“Đối với những người thuộc nhóm sa đố(, đây là cơ hội tốt để chế giễu có pha chút hài hước, những ai tin rằng sự sống lại là chuyển đổi nếp sống ở trần gian này lên thiên đàng.
Câu hỏi mà cũng là cái bẫy cho Đức Giêsu khiến Người phải nói rõ “giáo lý” của Người về sự sống lại từ cõi chết và thỏa mãn tính tò mò của đám thính giả? “Nếu các vị tin vào sự sống lại, thì cụ thể điều đó sẽ xảy ra như thế nào?”.
Đức Giêsu hẳn làm cho đối phương của Người phải rút lui bẽ mặt và bỏ đi những điều tưởng tượng quá trớn cùng những câu chuyện trẻ con chỉ làm cho ngủ gật thôi. Thiết tưởng là vô ích, vả lại cũng không thể có được một ý niệm nào về “Thế giới mai sau ” dựa vào những thực tại trần gian này. Những “người được hưởng sự sống lại” sẽ được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa. Họ sẽ “giống thư các thiên thần”, và sẽ không có thể chết nữa. Thế nhưng với một điều kiện là “được xét là xứng đáng”.
Đức Giêsu cũng hướng thính giả của mình về tận cội nguồn Kinh Thánh. Chắc chắn là những người Pharisêu và những người thuộc nhóm Sađốc đều biết Kinh Thánh, nhưng còn phải giải thích cho đúng những dữ kiện của Mạc khải nữa. Phải quy chiếu về Môsê, nhưng để tìm ra những điều mà người khác đã không tìm thấy. Nếu Đức Chúa tự giới thiệu với Môsê là “Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Isaác và Giacóp”, thì rõ ràng người là Thiên Chúa của những kẻ “còn đang sống” chứ không phải của những “kẻ đã chết rồi”. Bởi lẽ, mọi người đều sống với Người, nhờ Ngươi và vì Người. Và điều đó thiết tưởng phải đủ để ta hân hoan cùng với lòng tin tưởng mà hiểu biết rằng mầu nhiệm này thật khôn lường, trí con người không thể vươn tới được. Đời sống của kẻ sống lại là đời sống sung mãn tràn đầy, là kinh nghiệm về tình yêu trọn vẹn, là sự nối dài và phát triển mối tương quan đã được thiết lập và phát triển ngay ở đời này. Phần còn lại đều là tò mò hão huyền vô ích… Trang sử vĩ đại của tình yêu không thể “bị kết thúc và vùi sâu dưới nấm mồ”.
Còn hôm nay, mặc dầu Đức Kitô đã phục sinh, mặc dầu truyền thống Kitô giáo đã trải qua hai ngàn năm, mặc dầu trong kinh Tin Kính chúng ta vẫn tuyên xưng rằng xác loài người ngày sau sẽ sống lại, thế mà nhiều Kitô hữu vẫn lo lắng, và bối rối; có những người còn để mình lạc lõng trong những chi tiết vụn vặt và những điều ấu trĩ. Lại còn có những người bày tỏ bất mãn hoặc tìm ánh sáng và ủi an bên ngoài nguồn ánh sáng và an ủi. Người thì đòi hỏi những chứng cớ lịch sử hoặc cho đó là những chuyện huyền thoại; người khác lại bám víu vào thế giới bên kia để tìm an ủi mình một cách rẻ tiền.
Hôm nay cũng như hôm qua, chúng ta không ngừng sẵn sàng lắng nghe Đức Kitô và đặt niềm tin tưởng nơi Người để luôn tin vào sự sống lại và sống như người đã sống lại rồi”.
3. “Một điều bất ngờ hoàn toàn”
( “Fêles ét Saisons” số 468, que savons-nous de l’au-delà?” trg 15 và 16).
“Người chết sống lại làm sao? Họ trở về với thân thể nào?” Chẳng ai có thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng. Đã hẳn, trong Tân ước, có vài chỗ đề cập đến chủ đề này nhưng luôn luôn với chừng mực và giản dị hết sức. Một sự giản dị đến độ cuối cùng người ta chẳng biết được gì khá hơn ! Thực ra những đoạn văn ấy chỉ muốn cảnh giác tin tưởng tượng của ta thôi. Bởi lẽ người ta luôn luôn có nguy cơ, đặc biệt trong những lãnh vực này, là thích phản ánh những điều ta mơ ước vào thế giới bên kia và mường tượng rà một thực tại, mà đứng ra, chúng ta tuyệt đối không thể nào hình dung ra được, bởi vì không ai trong chúng ta đã có lần nào được nhìn thấy thực tại ấy cả? Làm sao ta có thể mô tả một cây sồi mà suốt đời ta chưa bao giờ được nhìn thấy cây ấy hoặc có được trong tay chỉ một trái cây sồi thôi? Đó là lý do tại sao các tác giả Tân ước, những người cũng chẳng biết gì hơn ta, mời gọi ta phải có sự khôn ngoan hết sức và dẫu sao cũng phải từ bỏ mọi cách trình bày duy vật.
Vì thế chúng ta hoàn toàn bất lực để nói về cái thực tại mà chúng ta hoàn toàn chẳng biết gì cả. Những điểm mốc ta quen dùng, rõ ràng là không đủ khả năng giúp ta tưởng tượng ra cái thế giới khác ấy, cái tình trạng “thân xác vinh hiển ” mà thánh Phaolô nói đến ấy, những “trời mới, đất mới” mà sách Khải Huyền (21, l) hứa hẹn cho ta thấy. Thực tại đó chẳng có gì để so sánh với cái ta biết ở trên mặt đất này. Sẽ là một bất ngờ lạ lùng theo nghĩa mạnh nhất của từ ngữ này.
Và là một bất ngờ vui sướng? Một thế giới tuyệt vời diễn ra không ngừng những điều mới lạ, một cái gì đó không thể tưởng tượng nổi? “.