ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG GẶP GỠ
WHĐ (24/12/2025) – Chủ đề bài viết ‘Đức Giê-su Ki-tô – Đường Gặp Gỡ’ giúp chúng ta nhận diện rõ nét hơn về sự gặp gỡ vô tiền khoáng hậu giữa Thiên Chúa và gia đình nhân loại. Chủ đề này sẽ được khai triển theo các mục chính như sau: (1) Khái Niệm Gặp Gỡ; (2) Thiên Chúa Gặp Gỡ Con Người Trong Cựu Ước; (3) Thiên Chúa Gặp Gỡ Con Người Trong Tân Ước và (4) Đức Giê-su – Đường Gặp Gỡ.
Dẫn Nhập
Thiên Chúa là Nguồn Gốc và Cùng Đích của thế giới thụ tạo. Người không bị giới hạn bởi không gian, thời gian hay bất cứ hình thức biên giới nào mà con người có thể kinh nghiệm. Người dựng nên muôn vật muôn loài và không để chúng tự thân vận động nhưng luôn đồng hành, hướng dẫn và quan phòng. Đặc biệt, Người luôn gặp gỡ mọi người trong mọi thời và khắp mọi nơi. Sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người có thể được hiểu như là ‘sự tiếp xúc’ của hai chuyển động: Chuyển động từ Thiên Chúa đến với con người và chuyển động từ con người hướng về Thiên Chúa. Trong đó, Thiên Chúa luôn là Đấng bắt đầu, duy trì và kiện toàn; còn con người cần phải thành tâm đáp lại lời mời gọi cộng tác của Người.Hoa trái của sự gặp gỡ này là con người đón nhận, sống và hành động theo thánh ý Thiên Chúa. Khi con người gặp gỡ Thiên Chúa cách chân thành cũng là khi con người gặp gỡ chính mình, gặp gỡ anh chị em và gặp gỡ muôn vật muôn loài cách xứng hợp nhất.
Các trình thuật Cựu Ước cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa luôn gặp gỡ dân Do-thái qua trung gian các sứ thần. Người cũng gặp gỡ họ qua các biến cố xảy ra trong môi trường tự nhiên, gia đình và xã hội. Đặc biệt, Người gặp gỡ họ qua trung gian các vị lãnh đạo và ngôn sứ. Giao ước và lề luật đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự gặp gỡ này. Nhờ đó, Thiên Chúa giúp đỡ, hướng dẫn họ thực thi thánh ý Người, đồng thời, cộng tác với Người trong việc hoán cải và đổi mới bản thân ngày càng xứng đáng hơn với tình thương của Người. Khi thời gian tới thời viên mãn, qua dân được tuyển chọn, Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha là Đức Giê-su Ki-tô đã đến trần gian để giải thoát gia đình nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết.
Sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại diễn tả sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người cách kỳ diệu nhất, bởi vì: Nhờ Đức Giê-su mà con người hữu hình gặp gỡ Thiên Chúa vô hình; con người hữu hạn gặp gỡ Thiên Chúa vô hạn; con người tội lỗi gặp gỡ Thiên Chúa thánh thiện; con người yếu đuối gặp gỡ Thiên Chúa toàn năng; con người vô ơn gặp gỡ Thiên Chúa trung tín; con người tăm tối gặp gỡ Thiên Chúa ánh sáng; con người bất toàn gặp gỡ Thiên Chúa hoàn hảo; con người phù du gặp gỡ Thiên Chúa bền vững; con người ích kỷ gặp gỡ Thiên Chúa yêu thương; con người phải chết gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống. Nói cách khác, nhờ Đức Giê-su mà con người được nối lại tình hiệp thông với Thiên Chúa và chung hưởng sự sống vĩnh cửu của Người.
Chủ đề bài viết ‘Đức Giê-su Ki-tô – Đường Gặp Gỡ’ giúp chúng ta nhận diện rõ nét hơn về sự gặp gỡ vô tiền khoáng hậu giữa Thiên Chúa và gia đình nhân loại. Chủ đề này sẽ được khai triển theo các mục chính như sau: (1) Khái Niệm Gặp Gỡ; (2) Thiên Chúa Gặp Gỡ Con Người Trong Cựu Ước; (3) Thiên Chúa Gặp Gỡ Con Người Trong Tân Ước và (4) Đức Giê-su – Đường Gặp Gỡ. Qua việc tìm hiểu và khai triển chủ đề này, hy vọng rằng chúng ta nhận thức đầy đủ hơn về chương trình gặp gỡ giữa Thiên Chúa và gia đình nhân loại. Đồng thời, chúng ta cũng ý thức hơn về việc nhận diện và đáp lại lời mời gọi gặp gỡ không ngừng của Thiên Chúa đối với mỗi người cũng như muôn vật muôn loài.
1. KHÁI NIỆM GẶP GỠ
Kinh Thánh bằng tiếng Do-thái và Hy-lạp có nhiều từ diễn tả những sắc thái phong phú của việc ‘gặp gỡ’ giữa Thiên Chúa và con người, đồng thời cũng mở rộng sang các tương quan của con người với nhau và với muôn vật muôn loài. Các cuộc gặp gỡ này được thuật lại bằng các động từ khác nhau để diễn tả các sắc thái đặc thù của chúng, chẳng hạn như: פָּגַשׁ (pāgash)/ συναντάω (to meet), nghĩa là gặp gỡ, hội ngộ, đối diện trong một biến cố có tính quyết định; פָּגַע (pāga)/ ὑπαντάω (to encounter), nghĩa là gặp gỡ, cầu xin, chuyển cầu, trong bối cảnh Thiên Chúa chủ động can thiệp; קָרָה (qārāh)/ τυγχάνω (to happen), nghĩa là gặp gỡ, xảy đến, như một biến cố tưởng chừng tình cờ nhưng nằm trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa; מָצָא (mātsā)/ εὑρίσκω (to find), nghĩa là xảy đến, tìm thấy, gặp phải, hàm ý được ban cho, thường gợi đến kinh nghiệm con người ‘được’ Thiên Chúa cho gặp; נָגַשׁ (nāgash)/ προσεγγίζω (to approach), nghĩa là tiếp cận, tiến lại, đến gần, diễn tả chuyển động thánh thiêng khi con người được mời gọi đến gần Thiên Chúa, nhất là trong bối cảnh phụng tự và cầu nguyện; וַיֵּרָא (Nifal of רָאָה, rāʾāh)/ ὁράω (passive: ὤφθη, to appear) diễn tả việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người trong các cuộc thần hiện.
Ngoài những động từ với các nghĩa trên, trong Kinh Thánh cũng như trong đời sống hằng ngày, ‘gặp gỡ’ không chỉ là việc tiếp xúc bên ngoài, nhưng còn bao hàm những tương quan sống động, mang chiều kích giao ước. Gặp gỡ có thể là cuộc hẹn và điểm hẹn: יָעַד (yāʿad)/ συντάσσω (to appoint), מוֹעֵד (môʿēd)/ καιρός (appointed time); là Thiên Chúa đến thăm viếng và cứu độ: פָּקַד (pāqad)/ ἐπισκέπτομαι (to visit), יָשַׁע (yāšaʿ)/ σώζω (to save). Gặp gỡ còn diễn ra trong đối thoại mạc khải khi Thiên Chúa ngỏ lời: דָּבַר (dābar)/ λαλέω (to speak), còn con người lắng nghe, đáp lại và được sai đi: שָׁמַע (shāmaʿ)/ ἀκούω (to hear), עָנָה (ʿānāh)/ ἀποκρίνομαι (to answer), שָׁלַח (shālaḥ)/ ἀποστέλλω (to send). Cuối cùng, gặp gỡ đạt tới chiều sâu nội tâm qua sự tiến lại và dâng hiến: הִקְרִיב (hiqrîb)/ προσφέρω (to offer), cũng như qua chiêm ngắm, cầu nguyện: פָּלַל (pālal)/ προσεύχομαι (to pray) và sự gắn bó với giao ước: דָּבַק (dāvaq)/ κολλάω (to cling), nhờ đó con người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và được biến đổi trong tương quan với Người.
Nói đến gặp gỡ là nói đến tương quan. Thiên Chúa thiết lập tương quan với con người và mời gọi con người ở lại trong mối tương quan mật thiết với Người. Trong tương quan này, Thiên Chúa luôn đi trước, luôn bắt đầu, luôn khởi xướng mọi cuộc gặp gỡ. Người đến với con người, đồng hành cùng con người, hướng dẫn con người và nhất là thể hiện tình yêu đối với con người. Thánh Gio-an Tông Đồ viết: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10); “Chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19). Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8). Do đó, điều con người cần quan tâm là luôn mở rộng tâm trí để lắng nghe và thực thi thánh ý Người hầu mưu cầu lợi ích thiết thực cho bản thân giữa muôn nghịch cảnh của cuộc đời.
Tác giả Thánh Vịnh 85 khắc họa tương quan hòa hợp giữa Thiên Chúa và con người như sau: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao” (Tv 85,11-12). Thiên Chúa thể hiện sự chân thật, trung tín (אֱמֶת/ ’emet), ân tình, lòng nhân hậu (חֶסֶד/ ḥesed) của Người đối với dân Do-thái; Người cũng biểu lộ Người là Đấng công minh (צֶדֶק/ ṣedeq) và là Nguồn bình an của con người (שָׁלוֹם/ shalom). Nói cách khác, khi Thiên Chúa gặp gỡ con người cũng là khi con người nhận ra sự hòa hợp trọn vẹn giữa sự thật và tình yêu, bình an và công lý, ánh sáng và sự sống. Con người từ môi trường bóng tối được bước vào môi trường của Thiên Chúa, môi trường ánh sáng, môi trường sự sống, môi trường ân sủng nhờ tín nghĩa, lòng trung thành và tinh thần hoán cải để đáp lại thánh ý Thiên Chúa. Nhờ đó, con người được đón nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần hầu có thể vượt qua những thử thách, chướng ngại hay cạm bẫy trong đời sống hằng ngày.
Dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Do đó, con người luôn hướng về quyền năng (omnipotentia), tình yêu (caritas) và sự thiện hảo (bonitas) cao cả của Thiên Chúa. Đặc biệt, niềm khát vọng về nhận thức và thông hiểu nơi con người luôn hướng về sự toàn tri (omniscience) của Thiên Chúa. Thánh Tô-ma A-qui-nô viết: “Để đạt tới hạnh phúc là cùng đích tối hậu, không đủ khi chỉ có tri thức về bất cứ đối tượng trí tuệ nào mà phải có tri thức về Thiên Chúa như là cùng đích tối hậu để chấm dứt khát vọng tự nhiên ấy. Vậy, cùng đích tối hậu của con người là hiểu biết Thiên Chúa” (Thomas Aquinas, Summa Contra Gentiles, Book III, Chapter 25). Thánh Au-gút-ti-nô từng trải qua nhiều kinh nghiệm mà ngài tưởng rằng sẽ giúp giải tỏa khát vọng của bản thân. Tuy nhiên, ngài không bao giờ thỏa mãn với những kinh nghiệm đó cho tới khi gặp gỡ Thiên Chúa. Chính ngài đã thốt lên:”Con đã yêu Chúa quá muộn màng, lạy Đấng Tuyệt Mỹ, xưa thật xưa mà luôn mới! Con đã yêu Chúa quá muộn màng!… Chúa ở bên trong con, còn con lại ở bên ngoài và ở đó con tìm kiếm Chúa… Chính những sự vật kia đã giữ con xa Chúa… Chúa đã bừng sáng, chiếu rọi và xua tan bóng mù trong con. Chúa đã lan tỏa hương thơm và con đã hít vào, con thở gấp kiếm tìm Chúa. Con đã nếm thử và nay con đói khát Chúa. Chúa đã chạm đến con và con bừng cháy khát vọng bình an nơi Chúa” (Augustine, Confessions X, 27.38).
Dựa trên tư tưởng của thánh Au-gút-ti-nô, chúng ta có thể viết tiếp rằng Thiên Chúa hiện diện với con người nhưng con người không hiện diện với Thiên Chúa; Thiên Chúa gặp gỡ con người nhưng con người không gặp gỡ Thiên Chúa; Thiên Chúa trung tín với con người nhưng con người không trung tín với Thiên Chúa; Thiên Chúa lắng nghe con người nhưng con người không lắng nghe Thiên Chúa; Thiên Chúa luôn tìm kiếm con người nhưng con người trốn tránh Thiên Chúa; Thiên Chúa cúi xuống với con người nhưng con người không hướng lên Thiên Chúa; Thiên Chúa giải thoát con người nhưng con người xiềng xích chính mình; Thiên Chúa chiếu sáng con người nhưng con người sợ hãi ánh sáng Thiên Chúa; Thiên Chúa trao ban sự sống dồi dào cho con người nhưng con người dõi theo đường dẫn đến sự chết. Quả thật, Thiên Chúa luôn kiên trì mời gọi con người trở về để được Người thứ tha, khôi phục và dẫn đưa vào Nguồn hạnh phúc trường cửu.
Kinh nghiệm nội tâm của thánh Au-gút-ti-nô giúp chúng ta nhận thức rằng bao lâu còn trong hành trình trần thế, bấy lâu con người còn phải xao xuyến, còn phải thao thức, còn phải mong mỏi để được gặp gỡ và nghỉ yên trong Chúa. Những xao xuyến, thao thức và mong mỏi không chỉ phát xuất trực tiếp từ con người mà chính yếu là được Thiên Chúa khơi mở từ cõi thâm sâu của tâm hồn như lời thân thưa của thánh nhân: “Lạy Thiên Chúa của con, con không thể nào hiện hữu, hoàn toàn không thể hiện hữu, nếu Ngài không ở trong con” (Augustine, Confessions I, 2.1). Do đó, nhận thức Thiên Chúa luôn ở trong tâm hồn mình là điều cần thiết để con người gặp gỡ, lắng nghe và phân định tư tưởng, lời nói và việc làm của bản thân trong hành trình trần thế.
Con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh không gian hay thời gian nào. Con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua việc chiêm ngắm công trình của Người; qua việc đọc và suy niệm lời của Người trong Kinh Thánh; qua đời sống cầu nguyện, phụng tự và sinh hoạt cộng đoàn; qua các hoạt động hằng ngày, nhất là hoạt động bác ái yêu thương để nâng đỡ những người nghèo khó; qua lương tâm không ngừng hoán cải của mình.Đặc biệt, con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Đâykhông chỉ là cuộc gặp gỡ mang nghĩa nhân học, trí tuệ, cảm xúc (anthropological, intellectual hay emotional) mà còn mang nghĩa thiêng liêng, biến đổi, siêu việt (spiritual, transformative, transcendent). Nói theo cách tổng quát hơn, gặp gỡ Đức Giê-su là sự gặp gỡ đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho con người. Đây là hình thức gặp gỡ được phân biệt với các hình thức gặp gỡ mà con người có kinh nghiệm trong đời sống mình.
Một trong những bức tường ngăn cách sự gặp gỡ của con người với Thiên Chúa là ‘bức tường tội lỗi’ của con người. Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này làm cho con người khó có thể đi vào cuộc gặp gỡ Thiên Chúa cách xứng hợp. Các mãnh lực ma quỷ, thế gian, xác thịt thật mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi người và làm cho con người xa rời Thiên Chúa (Rm 7,15-19). Tại vườn Ghết-sê-ma-ni trước khi chịu đóng đinh trên thập giá, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14,38). Vì tội lỗi, con người có khuynh hướng phản kháng hay đóng mình trước ‘đề nghị gặp gỡ’ của Thiên Chúa. Con người muốn ý mình được thể hiện hơn là thánh ý Thiên Chúa được thể hiện. Con người thường quen với lối cũ; đổi mới luôn là gánh nặng khó vượt qua. Vì thế, đổi mới theo thánh ý Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người phải hy sinh, quên mình, từ bỏ như chính Đức Giê-su đã giảng dạy và minh chứng bằng đời sống của Người.
Nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau theo cách thức vượt trên mọi suy luận, nhận thức hay cảm nghiệm tự nhiên của con người. Đây là sự gặp gỡ nhiệm mầu mà lý trí con người không thể dò thấu. Đó là lý do tại sao con người cần đón nhận Đức Giê-su với niềm tin, tình yêu và hy vọng. Chính nhờ Đức Giê-su trong thân phận con người, tương quan giữa Thiên Chúa và con người trở thành tương quan thông hiệp, bởi vì: Khoảng cách giữa Thiên Chúa thánh thiện và con người tội lỗi được hòa giải; khoảng cách giữa Thiên Chúa toàn năng và con người yếu đuối được bắc nhịp; khoảng cách giữa Thiên Chúa toàn tri và con người mù tối được soi sáng; khoảng cách giữa Thiên Chúa hằng sống và con người phải chết được vượt qua; khoảng cách giữa Thiên Chúa vĩnh cửu và con người tạm bợ được liên kết. Theo thánh Phao-lô, trong Chúa Thánh Thần, những ai liên kết mật thiết với Đức Giê-su thì “không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa” (Ep 2,19).
Tự bản tính, Thiên Chúa luôn ‘ở thì hiện tại’ bởi vì Người là Đấng vô thủy, vô chung, vượt trên mọi giới hạn của thế giới thụ tạo. Chính Người sáng tạo muôn vật hữu hình và vô hình; sáng tạo không gian, thời gian và những thuộc tính của không gian, thời gian. Trong Thánh Lễ tại Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 34 tại Panama (27.01.2019), Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô nói: “Đức Giê-su mặc khải ‘hiện tại’ của Thiên Chúa, Đấng đang đến gặp gỡ chúng ta và mời gọi chúng ta tham dự vào chính ‘hiện tại’ của Người trong việc ‘loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn… công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Đồng thời, ngài khẳng định: “Đây chính là hiện tại của Thiên Chúa. Hiện tại ấy trở nên hiện hữu với Đức Giê-su: Có gương mặt, có xác phàm. Đó là tình yêu xót thương không chờ đợi những hoàn cảnh lý tưởng hay hoàn hảo mới tỏ mình ra, cũng không chấp nhận bất kỳ lý do thoái thác nào để chậm xuất hiện”. Đặc biệt, ngài nói với các bạn trẻ: “Các con thân mến, các bạn trẻ, các con không phải là tương lai. Chúng ta thường thích nói: ‘Các bạn là tương lai’. Không, các con là hiện tại. Các con không phải là tương lai của Thiên Chúa; hỡi các bạn trẻ, chính các con là hiện tại của Thiên Chúa. Người đang mời gọi và kêu gọi các con, ngay trong cộng đoàn và thành phố của các con, hãy ra đi tìm đến với ông bà, với những bậc cao niên; hãy đứng lên và cùng với họ cất tiếng nói, thực hiện giấc mơ mà Chúa đã mơ cho các con”. Không chỉ các bạn trẻ, mọi người trong gia đình nhân loại cũng như muôn vật muôn loài trong không gian, thời gian luôn hiện diện trước nhan Thiên Chúa. Như đề cập ở trên, với hành trình trần thế của Đức Giê-su, vĩnh cửu đã hiện diện trong không gian, thời gian để đồng hành, biến đổi, thánh hóa và quy tụ tất cả trong trời mới đất mới, nơi Thiên Chúa ngự trị.
Con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa nơi thế giới thụ tạo bởi vì ‘dấu ấn’ của Thiên Chúa hiện diện trong muôn vật muôn loài. Theo tác giả sách Khôn Ngoan: “Hết những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện hữu, và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hóa Công” (Kn 13,1). Tác giả Thánh Vịnh 19 viết: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2).Còn thánh Phao-lô thì khẳng định: “Những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (Rm 1,20). Để có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong thế giới thụ tạo, con người cần biết nhìn nhận phẩm giá cao quý của mình trong muôn vật muôn loài, đồng thời, cần nhìn nhận mình là thành phần của thế giới thụ tạo. Đặc biệt, con người cần ý thức rằng Thiên Chúa luôn yêu thương mình cũng như toàn bộ công trình do tay Người tác tạo.
2. THIÊN CHÚA GẶP GỠ CON NGƯỜI TRONG CỰU ƯỚC
2.1 Mầu Nhiệm Gặp Gỡ
Thiên Chúa gặp gỡ con người cách thân mật đến mức, nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể hướng về và nhận biết Người. Đồng thời, Người vẫn siêu việt mọi khả năng nắm bắt, thấu hiểu và diễn tả của con người. Chẳng hạn, trong sách ngôn sứ Hô-sê, Thiên Chúa thể hiện sự gần gũi của Người với Ít-ra-en: “Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn” (Hs 11,4) hay: “Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: Sa-mu-en! Sa-mu-en! Sa-mu-en thưa: Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3,10). Tuy nhiên, Đức Chúa vẫn luôn siêu việt tư tưởng cũng như mọi lượng định của con người, chẳng hạn lời của Xô-pha (người Na-a-mát, một trong ba người bạn của ông Gióp) cho chúng ta biết: “Liệu anh có dò nổi mầu nhiệm cao sâu của Thiên Chúa, liệu anh có nhận thức Đấng Toàn Năng tuyệt hảo dường nào? Sự tuyệt hảo của Người cao hơn các tầng trời, liệu anh làm gì được, sâu thẳm hơn âm phủ, hỏi anh biết được gì, trải dài hơn cõi đất, rộng hơn cả biển sâu?” (G 11,7-9). Lời của ngôn sứ I-sai-a cũng cho ta biết tương tự: “Lạy Thiên Chúa của Ít-ra-en, lạy Đấng Cứu Độ, Ngài quả thật là Thiên Chúa ẩn mình” (Is 45,15). Nói rằng ‘Thiên Chúa ẩn mình’ không có nghĩa là Thiên Chúa náu ẩn đâu đó hay ở xa con người mà là siêu việt lý trí thuần lý của con người.
Các cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người trong Cựu Ước có chung đặc điểm là: Vừa hiển nhiên vừa bí ẩn, vừa để lại cho con người kinh nghiệm vừa làm cho con người khao khát, vừa đem lại niềm vui vừa trao ban sứ vụ, vừa làm cho con người kính sợ vừa giúp con người biến đổi, vừa cho phép con người nhận diện sự cao cả của Thiên Chúa vừa cho phép con người nhận ra sự yếu đuối của bản thân. Chẳng hạn, kinh nghiệm của Mô-sê là: “Thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi” (Xh 3,2); Mô-sê thưa với Thiên Chúa: “Xin Ngài thương cho con được thấy vinh quang của Ngài” (Xh 33,18); ông Gióp thân thưa cùng Đức Chúa: “Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến” (G 42,5). Ông Gióp có được kinh nghiệm về Thiên Chúa bằng con mắt tâm hồn. Đây là cuộc gặp gỡ nội tâm, cụ thể là, với trực giác thiêng liêng và biến đổi cuộc đời ông mãi mãi.
Trình thuật sách Xuất Hành cho chúng ta biết: “Đức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11). Điều này có nghĩa rằng Mô-sê đi vào mối tương quan gần gũi với Thiên Chúa. Do đó, ‘mặt giáp mặt’ không theo nghĩa thể lý nhưng theo nghĩa tâm linh, nghĩa là kinh nghiệm nội tâm sâu xa, nhờ đó, tâm trí tăm tối của con người gặp gỡ ánh sáng Thiên Chúa. Con người cảm nhận được tình yêu của ‘Đấng không thể diễn tả’, Đấng vừa gần gũi, vừa siêu việt mọi khả năng của mình. Dưới nhãn quan Cựu Ước, không ai có thể thấy Thiên Chúa cách trực tiếp bằng giác quan của mình như lời của Thiên Chúa phán với Mô-sê: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33,20). Thiên Chúa luôn hiện diện với con người nhưng con người không thể mô tả Thiên Chúa. Quả thật, Thiên Chúa không bao giờ là chỉ ‘đối tượng’ (Object) như bao đối tượng khác để con người khám phá và đưa ra kết luận chung cuộc. Trong mọi hoàn cảnh, Người luôn là Chủ Thể siêu việt (transcendent Subject), vượt trên mọi suy tưởng của con người. Vì thế, con người chỉ có thể biết những gì Thiên Chúa mặc khải nhưng sự hiểu biết của con người vẫn vô cùng giới hạn so với những gì Người biểu lộ. Người không bị chi phối bởi bất cứ nguyên lý, quy luật hay nguyên tắc nào trong thế giới tự nhiên cũng như trong môi trường xã hội của loài người.
Thiên Chúa thường gặp gỡ con người trong những hoàn cảnh và tình thế đặc biệt, chẳng hạn như Thiên Chúa gặp gỡ Mô-sê khi ông đang chăn cừu (Xh 3,2); Thiên Chúa gặp gỡ Gia-cóp khi ông bỏ chạy khỏi anh mình là Ê-sau (St 28,10-17); Thiên Chúa dõi theo và can thiệp vào cuộc trốn chạy của Giô-na (Gn 1–2), Thiên Chúa gặp gỡ Ê-dê-ki-en nơi lưu đày (Ed 1,1-28). Hơn nữa, Thiên Chúa gặp gỡ con người qua trung gian các sứ thần của Người, chẳng hạn như sứ thần gặp gỡ Ha-ga (St 21,17-19); sứ thần gặp gỡ Áp-ra-ham và nói với ông đừng giết đứa trẻ (St 22,11-12); sứ thần dẫn dân Ít-ra-en qua Biển Đỏ (Xh 14,19); sứ thần xuất hiện trước khi Gio-suê chiếm Giê-ri-khô (Gs 5,13-15); sứ thần gặp gỡ Ghít-ôn (Tl 6,11-23); sứ thần gặp gỡ Ê-li-a (1 V 19,5); sứ thần đồng hành cùng Đa-ni-en trong lò lửa (Đn 3,49-50); sứ thần giải thích thị kiến cho Da-ca-ri-a (Dcr 1,9-14).
Thiên Chúa mời gọi con người tham dự chương trình của Người theo những cách thức mà con người không ngờ tới, chẳng hạn như Thiên Chúa gặp gỡ và mời gọi Sa-mu-en khi còn rất trẻ (1 Sm 3,1–10); Thiên Chúa đến với Ê-li-sa khi đang cày ruộng (1 V 19,19–21); Đa-ni-en được mặc khải về Đấng Mê-si-a (Đn 7,13–14). Chúng ta có thể trình bày cách rõ nét hơn cuộc gặp gỡ bất ngờ của ngôn sứ I-sai-a qua thị kiến trong đó Đức Chúa ngự trên ngai trong Đền Thờ, giữa sự hiện diện của các thần Xê-ra-phim, những vị này không ngừng tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!” (Is 6,3). Tại đây, chính vị ngôn sứ ý thức về sự yếu đuối, tội lỗi của mình trước vinh quang Thiên Chúa. Chính Đức Chúa trao ban sứ mệnh cho vị ngôn sứ: “Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta? Tôi thưa: Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8). Cũng từ đây, vị ngôn sứ phải đối diện với muôn nghịch cảnh khi đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và Dân Người.
Thiên Chúa thường gặp gỡ con người trên núi trong những biến cố quan trọng. Hình ảnh núi với mây bao phủ là biểu tượng trời cao và đất thấp gặp nhau. Ở đó, Thiên Chúa mặc khải ý định của mình cho con người và cũng là nơi con người thờ phượng Thiên Chúa, chẳng hạn như: Nô-ê gặp gỡ Thiên Chúa trên núi A-ra-rát (St 8,4.20); Áp-ra-ham gặp gỡ Thiên Chúa trên núi Mô-ri-gia (St 22,2-18); Mô-sê gặp gỡ Thiên Chúa trên núi Xi-nai (Xh 3,1-6; 19,3-20); Ê-li-a gặp gỡ Thiên Chúa trên núi Khô-rếp (1 V 19,8-13); Đa-vít gặp gỡ Thiên Chúa trên núi Xi-on (2 Sm 5,7; Tv 2,6). Đặc biệt, núi là nơi thiết lập giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Nói cách khác, núi tượng trưng cho không gian gặp gỡ thuận tiện giữa Thiên Chúa và con người bởi vì khi lên núi, con người thoát khỏi những ồn ào của thế sự. Ai gặp gỡ Thiên Chúa ‘trên núi’ thì được biến đổi và sẵn sàng ‘xuống núi’ để có thể đối diện với thực trạng cũng như thử thách của môi trường xã hội. Năng lực thần linh phát xuất từ cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trên núi giúp con người thực thi thánh ý Người cách xứng hợp.
2.2 Gặp Gỡ Và Thiết Lập Giao Ước
Một trong những chủ đề quán xuyến diễn tả sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người trong Cựu Ước là việc thiết lập giao ước với những đặc điểm căn bản như sau: (1) Thiên Chúa mặc khải ý định của Người, (2) biểu lộ lòng thương xót, (3) tuyển chọn những con người cụ thể để thiết lập giao ước, (4) các giao ước bao gồm lời chúc phúc và ơn cứu độ, (5) liên quan đến cá nhân và tập thể, (6) có những dấu chỉ hữu hình kèm theo, (7) bao gồm hiến tế và máu, (8) giao ước bền vững, (9) như là phương tiện cứu độ, (10) bao gồm nghi thức phụng tự, (11) hướng tới cánh chung, (12) hướng về Giao Ước Vĩnh Cửu được Đức Giê-su thiết lập trong hành trình trần thế. Các trình thuật Cựu Ước cho chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa luôn trung tín với giao ước, còn dân Do-thái lại bất tín và hậu quả là họ phải gánh chịu muôn thử thách trên bình diện cá nhân cũng như các hình thức tập thể.
Sách Sáng Thế không trình thuật cách hiển nhiên hay minh nhiên việc Thiên Chúa thiết lập giao ước với A-đam. Tuy nhiên, theo truyền thống thần học, chúng ta có thể hiểu rằng một hình thức ‘giao ước’ đã tiềm ẩn nơi trật tự tạo dựng và nơi mối tương quan nguyên thủy giữa Thiên Chúa và con người. Giao ước này bao gồm hai giai đoạn là trước khi A-đam phạm tội (giao ước nguyên thuỷ) và sau khi A-đam sa ngã (giao ước thương xót): (1) Theo trình thuật sách Sáng Thế chương một, trước khi A-đam phạm tội, Thiên Chúa chúc phúc và nói với A-đam: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1,28). Theo trình thuật sách Sáng Thế chương hai, Thiên Chúa nói với A-đam: “Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2,16-17). (2) Trình thuật sách Sáng Thế chương 3 cho chúng ta biết A-đam đã phạm tội và Thiên Chúa tìm kiếm A-đam, đồng thời, trao ban ‘lời giao ước’ rằng ‘dòng giống người nữ sẽ đạp nát đầu con rắn’ (St 3,15). Đây được gọi là Tin Mừng nguyên thủy (Protoevangelium), Tin Mừng cứu độ, mở đường cho sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su.
Trình thuật sách Sáng Thế cũng cho chúng ta biết khi con người phạm tội thì: “Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,18-19). Kể từ đây, lịch sử của gia đình nhân loại cũng là lịch sử của ‘tội chồng tội’. Khi Ca-in giết em mình là A-ben thì Thiên Chúa phán với Ca-in: “Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất” (St 4,12). Cũng theo sách Sáng Thế: “Ông Ca-in đi xa khuất mặt Đức Chúa và ở tại xứ Nốt, về phía đông Ê-đen” (St 4,16). Dưới nhãn quan Kinh Thánh, phía đông Ê-đen là ‘đất của sự lang thang’, ‘miền lưu đày’ hay ‘nơi xa lìa Thiên Chúa’. Ca-in đã xa nguồn ân sủng của Thiên Chúa, biểu tượng của người tội lỗi, cắt đứt mối tương giao với Người, nghĩa là không còn gặp gỡ Người. Như vậy, ‘xứ Nốt’ sẽ là nơi làm cho Ca-in khao khát trở lại với Thiên Chúa, trở lại môi trường Ê-đen, môi trường hạnh phúc nguyên thủy, môi trường hiệp thông với Thiên Chúa. Xứ Nốt trở thành biểu tượng bất ổn, bất bình, của người bất tuân phục huấn lệnh Thiên Chúa. Đó là xứ dành cho những người sử dụng tự do theo ý mình và hậu quả là hành trình lang thang trong nỗi khắc khoải về với tình yêu thuở ban đầu.
Thiên Chúa gặp gỡ, kêu gọi Nô-ê và hướng dẫn Nô-ê đóng tàu. Người cho ông biết rằng Người sẽ thiết lập giao ước với ông (St 6,18). Nô-ê trung tín với Thiên Chúa qua việc xây dựng bàn thờ kính Người (St 8,20-21). Sau đó, Thiên Chúa cho ông biết rằng giao ước giữa Người với ông là giao ước phổ quát (universal covenant): “Đây Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi: Chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú” (St 9,9-10). Người cũng hứa với ông rằng nước hồng thủy sẽ không còn hủy diệt mặt đất nữa. Đặc biệt, Người phán: “Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất” (St 9,12-13). Sau Nô-ê, Thiên Chúa chọn Áp-ra-ham và qua ông Người thiết lập giao ước với dân Người tuyển chọn.
Thiên Chúa đã kêu gọi Áp-ra-ham từ bỏ quê hương xứ sở của mình để đến nơi Thiên Chúa chỉ cho ông. Đồng thời, Người cũng hứa với ông rằng, qua ông, một dân lớn được hình thành. Đặc biệt, qua ông, mọi người trong gia đình nhân loại được chúc phúc (St 12,1-3). Thiên Chúa thiết lập giao ước với Áp-ra-ham bằng những lời sau đây: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát, đất của những người Kê-ni, Cơ-nát, Cát-môn,Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, E-mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút” (St 15,18-21). Đặc biệt, Thiên Chúa đã đổi tên ông từ Áp-ram thành Áp-ra-ham. Trong bối cảnh Kinh Thánh, khi Thiên Chúa đổi tên cho ai thì Người cũng trao ban sứ mệnh mới. Do đó, khi đổi tên Áp-ram thành Áp-ra-ham, Thiên Chúa trao ban cho Áp-ra-ham sứ mệnh cao cả là cha của muôn người trong đức tin. Tuy nhiên để tuân phục và thực thi thánh ý Thiên Chúa, Áp-ra-ham phải đối diện với nhiều thử thách. Đức Chúa nói với ông: “Ta sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta với ngươi và với dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây sẽ là giao ước vĩnh cửu, do đó Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này” (St 17,7).
Hai trình thuật chính yếu trình bày việc Thiên Chúa thiết lập giao ước với dân Do-thái qua trung gian của Mô-sê là Xh 19,1-14 và Xh 24,3-8. Thiên Chúa gặp gỡ Mô-sê và trao ban cho ông sứ mệnh giải thoát dân Do-thái khỏi ách nô lệ Ai-cập: “Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập. Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập” (Xh 3,9-10). Người cũng cho Mô-sê biết là Người luôn đồng hành với ông: “Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: Khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này” (Xh 3,12). Mô-sê đã hỏi tên của Thiên Chúa và Người trả lời: “Ta là Đấng Hiện Hữu” [אֶֽהְיֶ֖ה אֲשֶׁ֣ר אֶֽהְיֶ֖ה/ I am who I am] (Xh 3,14). Trong hành trình sa mạc, không phải toàn thể dân Ít-ra-en đều gặp gỡ Thiên Chúa mà là chính Mô-sê gặp gỡ Người, đón nhận thánh chỉ của Người và truyền lại cho dân chúng. Nói cách khác, Mô-sê là trung gian thông truyền thánh ý Thiên Chúa cho con cái Ít-ra-en. Mô-sê cũng là trung gian giữa Thiên Chúa và các nhà lãnh đạo Do-thái khác bởi vì Thiên Chúa lấy một phần thần khí nơi ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục (Ds 11,16-17,25). Mô-sê không chỉ là trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-en mà còn là trung gian giữa Thiên Chúa và các dân khác nữa, chẳng hạn như Mô-sê là trung gian giữa Dân Chúa và Pha-ra-ô khi ông truyền đạt ý muốn của Thiên Chúa rằng vua Ai-cập phải để con cái Ít-ra-en trở về Đất Hứa (Xh 4,22-23; Xh 7,1).
Thiên Chúa cũng thiết lập giao ước với Đa-vít qua một số trình thuật trong Cựu Ước. Từ đứa trẻ chăn chiên vô danh tiểu tốt, qua trung gian của ngôn sứ Na-than, Đa-vít đã được chọn để lãnh đạo dân Ít-ra-en: “Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en” (2 Sm 7,8). Đặc biệt, Đức Chúa hứa với Đa-vít: “Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2 Sm 7,16). Lời hứa của Đức Chúa tiếp tục được gợi lại trong dòng lịch sử Ít-ra-en, chẳng hạn: “Xưa Chúa phán: Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta, rằng: Dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ.” (Tv 89,4-5). Đức Chúa tiếp tục khẳng định giao ước giữa Người với Đa-vít qua các ngôn sứ hầu nhắc nhở Ít-ra-en rằng vương quyền Đa-vít tiếp tục tồn tại và chức tư tế luôn bền vững. Đặc biệt, lòng thương xót của Đức Chúa luôn dồi dào nơi dòng dõi Gia-cóp và Đa-vít (Gr 33,17-26).
2.3 Hoa Trái Của Cuộc Gặp Gỡ
Nhiều trình thuật Cựu Ước cho chúng ta biết rằng chỉ những ai lắng nghe, đón nhận và thực thi thánh ý Thiên Chúa mới có thể làm cho cuộc gặp gỡ với Người sinh hoa kết quả tốt đẹp. Bằng không, những cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa sẽ dẫn đến những hệ lụy tiêu cực. Chẳng hạn, Ca-in gặp gỡ Thiên Chúa nhưng không nghe lời cảnh báo của Người: Ca-in đã giết em của mình là A-ben và phải chịu cảnh lưu đày; qua miệng Mô-sê, Pha-ra-ô nhận sứ điệp từ Đức Chúa nhưng lòng dạ ông chai đá và cuối cùng chịu cảnh thất bại ê chề (Xh 7-12). Ít-ra-en gặp gỡ Đức Chúa, nhất là qua miệng Mô-sê nhưng họ đã thờ ngẫu tượng trong sa mạc Xi-nai (Xh 19-32); vua Sa-un (vị vua đầu tiên của Ít-ra-en) gặp gỡ Đức Chúa và được Người chỉ dạy nhưng ông đã không toàn tâm, toàn trí với lời của Đức Chúa qua miệng ngôn sứ Sa-mu-en. Quả thật, không phải tất cả những người gặp gỡ Thiên Chúa trong Cựu Ước đều mang lại những điều tốt lành. Cụ thể là khi con người gặp gỡ Thiên Chúa nhưng lại không tuân phục thánh ý Người, họ sống xa rời đường lối Thiên Chúa và trở thành nguyên cớ cho nhiều người sa ngã.
Điểm chung của những người sau khi gặp gỡ Thiên Chúa cách hữu hiệu trong Cựu Ước là họ nhìn con người, hiện tượng và sự vật với nhãn quan mới mẻ hơn. Đặc biệt, họ ý thức hơn về tầm quan trọng trong việc sống tâm tình tạ ơn, tìm hiểu và tiến tới trong tình yêu của Người và sẵn lòng chấp nhận những gì nghịch lý, thậm chí trái ngược với tâm tính của mình hầu có thể trung tín với Người. Ai chấp nhận những gì vượt quá thói quen hay khả năng vốn có của mình thì có thể trở nên khí cụ hữu hiệu của Thiên Chúa trong việc mời gọi mọi người hoán cải, đổi mới bản thân để có thể lắng nghe, gặp gỡ và tuân phục thánh ý Thiên Chúa giữa muôn thăng trầm của cuộc đời.
Gặp gỡ Thiên Chúa luôn dẫn con người đến chọn lựa thuận theo thánh ý Người hay theo ý riêng của mình. Sự chọn lựa theo thánh ý Thiên Chúa đem lại cho con người sự bình an, niềm vui nội tâm và khả năng nhìn thấy những cơ hội cũng như nghịch cảnh trong đời sống hằng ngày. Chẳng hạn, Thiên Chúa gặp gỡ Áp-ra-ham và nói: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi” (St 12,1-2). Trước khi gặp gỡ Thiên Chúa, chắc hẳn Áp-ra-ham không bao giờ nghĩ tới việc mình phải từ bỏ cách lớn lao và triệt để như thế. Bởi vì, từ bỏ thói quen, từ bỏ quê cha đất tổ, từ bỏ những gì mình gắn bó lâu năm luôn đối diện với biết bao khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, Áp-ra-ham tin vào lời của Thiên Chúa, phó thác đời mình cho Người và thành tâm thực thi những gì Thiên Chúa truyền dạy. Chương trình của Thiên Chúa đối với con người thật nhiệm mầu như chính lời của Người qua miệng các ngôn sứ, chẳng hạn như: “Ta dẫn người mù tối qua những lối chưa tường, trên nẻo đường mới lạ, sẽ dìu họ bước đi. Ta biến đổi bóng tối thành ánh sáng soi họ, và uốn khúc gập ghềnh thành quan lộ thẳng băng” (Is 42,16) hay sự cảm nghiệm của tác giả Thánh Vịnh về quyền năng nhiệm mầu của Thiên Chúa: “Đường của Chúa băng qua biển rộng, lối của Ngài rẽ nước mênh mông, mà chẳng ai nhận thấy vết chân Ngài” (Tv 77,20).
Gia-cóp gặp gỡ Thiên Chúa trong dáng vẻ con người. Sau đó, ông được đổi tên từ ‘Gia-cóp’ thành ‘Ít-ra-en’. Cũng từ đó, ông trở nên Tổ Phụ vĩ đại của dân Chúa trong Cựu Ước. Như Gia-cóp ‘vật lộn với Thiên Chúa trong dáng vẻ con người’, như các ngôn sứ phải vật lộn với muôn nghịch cảnh để có thể trung tín với Thiên Chúa, tất cả những ai gặp gỡ Thiên Chúa trong Cựu Ước đều được Thiên Chúa biến đổi, trợ giúp để có thể đương đầu hay vật lộn với muôn vàn nghịch cảnh xảy đến. Qua mọi thời đại, ‘ai vật lộn với Thiên Chúa’ thì cũng phải vật lộn với nhiều khó khăn gian khổ trong cuộc sống. Họ xứng đáng là người được Thiên Chúa kêu gọi để tham dự vào chương trình cứu độ và giải thoát của Người đối với con người và muôn vật muôn loài. Việc vật lộn với Thiên Chúa để lại dấu ấn không thể xóa mờ nơi tâm hồn những người thành tâm thiện chí (homines bonae voluntatis). Gia-cóp phát biểu: “Tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng” (St 32,31).
Thông thường, khi nói đến các ngôn sứ, chúng ta thường nghĩ rằng họ là những người gặp gỡ Thiên Chúa và được Thiên Chúa hướng dẫn việc loan báo chuyện tương lai hay tuyên sấm những điều bí nhiệm về Thiên Chúa, về con người hay về vạn vật. Thực ra, đặc điểm chung của các ngôn sứ trong Cựu Ước là tất cả họ đều gặp gỡ Thiên Chúa theo những cách thức mà họ không lường trước được. Đa số các ngôn sứ sợ hãi, ngạc nhiên và thấy đau khổ khi được kêu gọi (Xh 3,11; Tl 6,15; 1 Sm 3,15; Is 6,5; Gr 1,6). Trong khi thực thi thánh ý Thiên Chúa, họ phải đối diện với muôn vàn nghịch cảnh, nhất là khi họ không mang đến tin tốt cho mọi người. Họ mời gọi mọi người hối cải nhưng không phải ai cũng lắng nghe. Quả thật, ngôn sứ trong Cựu Ước là người được Thiên Chúa tuyển chọn để giải thích những biến cố hiện tại, công bố ý định của Thiên Chúa cho mọi người, nói về thực trạng của con người và mời gọi họ ăn năn sám hối để gặp gỡ Thiên Chúa, lắng nghe và thực thi thánh ý Người.
Sau khi gặp gỡ và lãnh nhận sứ điệp từ Thiên Chúa, những người lãnh đạo cũng như các ngôn sứ trong Cựu Ước thường công bố sứ điệp của Thiên Chúa cho toàn dân. Họ giải thích cho toàn dân về ý định của Thiên Chúa đối với họ cũng như cho toàn dân biết phải không ngừng hoán cải hầu có thể đón nhận, sống và chuyển tải sứ điệp của Người cách trung tín nhất. Nhiều trình thuật Cựu Ước cho chúng ta nhận thức rằng không phải lúc nào dân chúng cũng tuân theo thánh ý Thiên Chúa. Để trung tín với sứ điệp của Thiên Chúa, những người lãnh đạo và các ngôn sứ thường phải đối diện với nhiều thử thách, khó khăn hay sự bất tuân phục của dân chúng. Thông thường, các ngài phải đối diện với muôn vàn nghịch cảnh bởi vì dám trung tín với lời của Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, các ngài luôn mời gọi mọi người hoán cải và hướng về Thiên Chúa với tâm hồn rộng mở.
3. THIÊN CHÚA GẶP GỠ CON NGƯỜI TRONG TÂN ƯỚC
3.1 Ngôi Lời Thiên Chúa Trong Thân Phận Con Người
Biến cố Đức Giê-su nhập thể trở thành cuộc gặp gỡ chóp đỉnh và cũng là cuộc gặp gỡ trung tâm trong chương trình mặc khải của Thiên Chúa đối với gia đình nhân loại. Bởi vì, từ đây, Thiên Chúa không còn ‘gặp gỡ’ con người qua các hình thức thông thường, chẳng hạn như qua thế giới tự nhiên, qua các sứ thần, qua các ngôn sứ hay qua những người lãnh đạo. Khởi đầu thư gửi tín hữu Do-thái, tác giả viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đây là cuộc gặp gỡ hướng tới việc kiện toàn thánh ý Thiên Chúa đối với con người và muôn vật muôn loài.
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Lu-ca cho chúng ta biết rằng với lời ‘xin vâng’ của Đức Ma-ri-a, Con Thiên Chúa đã trở thành con loài người giữa gia đình nhân loại (Lc 1,26-38). Đức Ma-ri-a nhận ra sứ mệnh của mình là cộng tác với chương trình của Thiên Chúa trong việc cứu độ trần gian. Sau biến cố Truyền Tin, Đức Ma-ri-a đã lên đường gặp gỡ gia đình bà Ê-li-sa-bét. Khi nghe lời chào của Đức Ma-ri-a, đứa con trong bụng của bà Ê-li-sa-bét nhảy lên vui sướng và bà Ê-li-sa-bét được đầy tràn Thánh Thần (Lc 1,41). Như vậy, đây không chỉ là sự gặp gỡ giữa hai người phụ nữ mà còn là sự gặp gỡ lần đầu tiên của hai người con vĩ đại nhất trong dòng lịch sử nhân loại, Đức Giê-su và thánh Gio-an Tẩy Giả. Đặc biệt, bà Ê-li-sa-bét đã nói với Đức Ma-ri-a những lời vốn không thuộc kinh nghiệm vốn có của bà: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,42-45). Ở đây, chúng ta nhận ra thời đại của Đấng Mê-si-a mở ra trang sử mới là Thiên Chúa gặp gỡ con người theo hình thức vượt quá tâm thức của con người.
Trong dịp Gio-an Tẩy Giả chịu phép cắt bì, Da-ca-ri-a đã cất lên Bài ca ‘Chúc Tụng’ (Benedictus). Hai câu kết thúc của bài ca này là: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,78-79). Có gì tốt hơn khi ‘trời’ đến thăm viếng ‘đất’, ‘ánh sáng’ thăm viếng ‘đêm tối’, Thiên Chúa thăm viếng con người? Với quyền năng của mình, Thiên Chúa có thể viếng thăm con người theo cách thức nào đó dễ hiểu và phù hợp với khả năng của con người hơn. Tuy nhiên, Người đã viếng thăm dân Người theo cách thức vượt quá kinh nghiệm, sự nhận thức hay tưởng tượng của con người. Gio-an Tẩy Giả trở thành ‘tiếng kêu trong hoang địa’ để mời gọi mọi người ăn năn thống hối hầu có thể đón nhận Đức Giê-su là ‘Vầng Đông’, là ‘Ánh Sáng’ vĩnh hằng, bất biến, chiếu soi vào đêm tối của gia đình nhân loại lỗi lầm.
Trong Bài Giảng Lễ Giáng Sinh (Nửa Đêm) tại Đền Thờ Thánh Phê-rô (2007), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI nói: “Tại máng cỏ Bê-lem, Trời và Đất gặp nhau. Trời đã cúi xuống Đất. Chính vì thế, một ánh sáng từ máng cỏ chiếu tỏa cho muôn thế hệ; và chính vì thế mà niềm vui được bừng cháy từ nơi ấy”. Thật nghịch lý, Đức Giê-su là Thiên Chúa quyền năng lại gặp gỡ con người, gặp gỡ thế giới thụ tạo nơi máng cỏ chứ không phải là nơi cao sang lộng lẫy nào đó. Máng cỏ là dụng cụ dành cho súc vật ăn uống, là hình ảnh của sự tầm thường, nghèo khó, lệ thuộc; máng cỏ báo trước Đấng Mê-si-a gặp gỡ những người đau khổ, bé mọn, dễ bị tổn thương hay bị loại trừ; đặc biệt, máng cỏ cũng là nơi đơn hèn, không được quan tâm; máng cỏ là biểu tượng báo trước về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đấng Mê-si-a hiến tế chính mình để gia đình nhân loại được sống.
Trong thư 101 (Epistula 101) gửi linh mục Cledonius để phản bác lạc giáo Apollinarianism, thánh Gregory thành Nazianzus (khoảng năm 382 sau Công Nguyên) viết: “Điều gì Người đã không đảm nhận thì Người cũng không chữa lành; nhưng điều gì được kết hợp với thần tính của Người, thì điều ấy cũng được cứu độ. Nếu chỉ một nửa con người A-đam sa ngã, thì điều Đức Ki-tô đảm nhận và cứu độ cũng chỉ là một nửa; nhưng nếu toàn thể bản tính con người đã sa ngã, thì toàn thể bản tính ấy phải được kết hợp với Đấng đã được sinh ra, để nhờ đó toàn thể được cứu độ.” Đối với thánh nhân, ơn cứu độ được Đức Giê-su thực hiện cho mọi người trong gia đình nhân loại là ơn cứu độ liên quan đến những gì thuộc về con người. Điều này có nghĩa rằng Đức Giê-su đã gặp gỡ tất cả, mang lấy tất cả, cứu độ tất cả và làm cho con người từ ‘cũ’ trở nên ‘mới’ như lời của thánh Phao-lô: “Phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5,17) hay: “Chúng ta biết rằng con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” (Rm 6,6).
Đức Giê-su đến trần gian không chỉ để khôi phục và thăng tiến phẩm giá con người mà còn khôi phục và thăng tiến giá trị của muôn vật muôn loài do Người tác tạo. Cũng trong Bài Giảng Lễ Giáng Sinh (Nửa Đêm), tại Đền Thờ Thánh Phê-rô (2007), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI nói: “Điều Đức Ki-tô xây dựng lại không phải là một cung điện trần gian bình thường. Người đến để phục hồi vẻ đẹp và phẩm giá cho công trình sáng tạo, cho toàn thể vũ trụ: Đó chính là điều đã khởi sự trong đêm Giáng Sinh và khiến các thiên thần hân hoan reo mừng. Trái Đất được tái lập trật tự ngay thẳng khi được mở ra cho Thiên Chúa, khi đón nhận lại ánh sáng chân thật, và trong sự hòa hợp giữa ý muốn con người với ý muốn Thiên Chúa, trong sự hợp nhất giữa cao và sâu, nó hồi sinh vẻ đẹp và phẩm giá nguyên thủy”. Như vậy, Đức Giê-su là Đấng Sáng Tạo gặp gỡ thế giới thụ tạo, nhất là Người đã mang lấy những yếu tố thụ tạo. Nhờ chương trình cứu độ nhân loại mà Người thực hiện, muôn vật muôn loài cũng được biến đổi cách trọn vẹn (Kh 21,1).
Trong Thông Điệp về Chúa Thánh Thần ‘Dominum et Vivificantem’ (Đức Chúa và Đấng Ban Sự Sống, 1986), Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết: “Việc Ngôi Con Thiên Chúa Nhập Thể diễn tả việc kết hợp nên một với Thiên Chúa không chỉ của bản tính nhân loại mà trong chính bản tính nhân loại ấy, theo một nghĩa nào đó, còn bao gồm mọi thực tại thuộc về ‘xác phàm’: Toàn thể nhân loại, cùng với toàn bộ thế giới hữu hình và vật chất. Như thế, mầu nhiệm Nhập Thể cũng mang một ý nghĩa vũ trụ, một chiều kích mang tầm mức toàn vũ trụ” (Pope John Paul II, Dominum et Vivificantem 50). Chúng ta biết rằng con người là ‘tiểu vũ trụ’ (microcosm). Về mặt thể lý, những gì thuộc về con người cũng thuộc về vũ trụ và ngược lại. Đó là lý do tại sao trong ‘Bài Ca Mặt Trời’, thánh Phan-xi-cô Át-xi-di gọi mặt trời, gió, lửa là anh; mặt trăng, nước là chị và trái đất là mẹ. Nói cách khác, muôn vật muôn loài là ‘anh chị em’ với con người trong gia đình thế giới thụ tạo của Thiên Chúa.
Đức Giê-su đến trần gian không chỉ để ban thêm tri thức về Thiên Chúa hay giải thích những gì thuộc về Thiên Chúa và tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Quả thật, Người đến trần gian để cảm thông với con người, đồng hành với con người và hướng dẫn con người. Do đó, Tin Mừng của Người là Tin Mừng Thiên Chúa yêu thương con người như chính Lời Tựa của thánh Gio-an Tông Đồ: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14); yêu đến nỗi Thiên Chúa đã ban Con Một của Người để con người không chỉ ‘khỏi phải chết’ mà còn ‘được sống muôn đời’ (Ga 3,16).
Tại Na-da-rét, Đức Giê-su lớn lên trong môi trường truyền thống và học hỏi để “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52). Điều này có nghĩa rằng, trong xã hội Do-thái, Người gặp gỡ và hội nhập các yếu tố cần thiết cho sự trưởng thành về các chiều kích trong đời sống mình. Tác giả thư gửi các tín hữu Do-thái giúp chúng ta hiểu rõ hơn về điều này: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,8-9). Kinh nghiệm cuộc sống của những người ở Na-da-rét cũng là kinh nghiệm cuộc sống của Người. Sự hiểu biết, hội nhập và thực hành các yếu tố trong đời sống xã hội của Người cũng giống như bao người khác thời bấy giờ. Hơn nữa, Người trở nên viên mãn khi là Thượng Tế tối cao và vĩnh cửu hiến tế chính mình cho mọi người trong gia đình nhân loại (Dt 4,14; Dt 7,21).
3.2 Đức Giê-su Gặp Gỡ Mọi Người
Khởi đầu việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đã đến sông Gio-đan chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy Giả. Thánh Mát-thêu trình thuật biến cố này như sau: “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,16-17). Mặc dù từ ‘Ba Ngôi’ không xuất hiện ở đây hay bất cứ ở sách nào của bộ Kinh Thánh, chúng ta hiểu rằng trong biến cố Đức Giê-su chịu Phép Rửa, có sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Trong đó, Chúa Thánh Thần được diễn tả qua hình ảnh chim bồ câu và Chúa Cha phán về Đức Giê-su là Con Yêu Dấu của Người. Như vậy, cuộc gặp gỡ gia đình nhân loại cũng là cuộc gặp gỡ của Ba Ngôi Thiên Chúa, trong đó: Chúa Cha khơi nguồn, Chúa Con thực hiện và Chúa Thánh Thần tiếp tục công trình này cho đến tận thế.
Tiếp tục truyền thống Cựu Ước, trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su bày tỏ sự hiện diện và hoạt động của Người ở những nơi gắn liền với mây và núi: Người chịu cám dỗ trong hoang địa, đồng thời, quỷ cũng đem Người lên núi cao để cám dỗ Người về quyền lực và vinh quang trần thế (Mt 4,1-11); Đức Giê-su công bố và giải thích Tám Mối Phúc trên núi (Mt 5–7); Người lên núi cầu nguyện (Mt 14:23; Mc 6:46; Lc 6:12); tuyển chọn mười hai môn đệ trên núi (Mc 3,13–19); cho hơn năm ngàn người ăn trên núi (Ga 6,1-15); chịu đóng đinh và chịu chết trên núi (Mt 27,33); trao ban sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các môn đệ trên núi (Mt 28,18-20); từ trên núi, Người chúc lành cho các môn đệ và được đem lên trời (Lc 24,50-51). Như vậy, núi là biểu tượng của sự gặp gỡ của Thiên Chúa với con người, thượng giới với hạ giới, nơi trời đất giao hòa và cũng là nơi Thiên Chúa biểu lộ thánh ý Người.
Buổi đầu loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su gặp gỡ những người ở Na-da-rét, quê hương Người. Ban đầu họ chăm chú lắng nghe và ngạc nhiên về Người. Sau đó, những đòi hỏi của họ không được đáp ứng, họ định ra tay hại Người nhưng Người đã rời đi (Lc 4,28-30). Thánh Mát-thêu trình thuật rõ hơn về những điều xảy ra ở Na-da-rét khi Đức Giê-su viếng thăm: “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế? Và họ vấp ngã vì Người” (Mt 13,55-57). Chúng ta thường dựa vào dòng tộc, quá khứ hay truyền thống để đánh giá con người, hiện tượng hay biến cố. Tuy nhiên, điều chúng ta cần quan tâm là ‘thực tại đang diễn ra’. Chẳng hạn, thay vì để tâm đến những lời nói, việc làm và lối sống của Đức Giê-su để tin nhận Người thì dân ở Na-da-rét lại ‘lục lọi quá khứ’ để ‘dán nhãn’ cho Đức Giê-su và tìm cách loại trừ Người.
Trong hành trình loan báo Tin Mừng công khai, Đức Giê-su gặp gỡ các kinh sư, những người Pha-ri-sêu, những người thu thuế, những người tội lỗi, những người đạo đức, những người khỏe mạnh, những người yếu đuối, những người mù lòa, các trẻ em, dân Do-thái, dân ngoại, binh lính Rô-ma, đại diện chính quyền Rô-ma. Chúng ta có thể khẳng định rằng Đức Giê-su chủ động gặp gỡ mọi hạng người trong mọi giai tầng xã hội: Từ những người rốt hết đến những kẻ đứng đầu; từ những người bé mọn đến những kẻ giàu sang; từ những người bị gạt ra bên lề xã hội đến những kẻ đang nắm quyền cai trị. Phản ứng của những người gặp gỡ Đức Giê-su thật đa dạng: Có người nghi ngờ, có người giận ghét, có người tò mò, có người ngạc nhiên, có người sẵn lòng đón nhận và tin tưởng vào Người.
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su gặp gỡ một người mù đang ăn xin ở Giê-ri-khô tên là Ba-ti-mê. Anh ta nhận ra Đức Giê-su là Con vua Đa-vít và cầu xin Người thương xót anh. Trong khi mọi người quát nạt và dặn anh im lặng thì anh lại kêu lớn hơn. Đức Giê-su nói với mọi người xung quanh gọi anh tới và anh xin Đức Giê-su chữa mắt cho anh. Đức Giê-su nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10,52). Nhờ kiên trì trong cuộc gặp gỡ Đức Giê-su, Ba-ti-mê được sáng mắt. Đức tin của anh vốn đã mạnh mẽ lại càng mạnh mẽ hơn. Anh mù nhưng nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a, trong khi đó, những người sáng mắt thì không nhận ra. Anh không chỉ nhận ra Đức Giê-su mà còn đáp lại tiếng Người mà không hề lưỡng lự. Như vậy, nhờ đức tin mạnh mẽ, cuộc đời của Ba-ti-mê được chuyển sang hướng mới, hướng về Đức Giê-su, hướng về sự chữa lành viên mãn.
Sự gặp gỡ giữa người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng là một trong những câu chuyện cảm động giúp mọi người nhận ra tầm quan trọng trong cuộc gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình. Theo trình thuật của câu chuyện: Người cha luôn yêu thương con mình, trong khi đó, người con lại muốn ‘tự lực tự cường’ với hoài bão rằng rời khỏi tay cha là được tự do hạnh phúc như lòng mong muốn. Tuy nhiên, hậu quả là người con lâm cảnh ‘màn trời chiếu đất’: Sống trong vùng dân ngoại, phung phí hết tài sản, lao động cực nhọc, đói rách. May thay, người con vẫn còn chút hoài bão và quyết tâm trở về. Thánh Lu-ca trình thuật: “Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15,17-19). Người con chỉ mong ‘có’ nhưng khi trở về, người cha đối xử với người con như ‘chưa hề có cuộc chia ly’. Với lòng thương xót của người cha, phẩm giá người con không hề mai một. Điều đó được thể hiện qua việc người cha cho người con áo đẹp (phẩm giá được phục hồi), dép tốt (tự do, không còn là nô lệ), nhẫn sang (quyền làm con). Qua câu chuyện này, Đức Giê-su cho mọi người hiểu rằng Thiên Chúa luôn tha thứ, Người không chỉ khôi phục phẩm giá mà còn cho phép con người được sống trong tình yêu vĩnh cửu của Người.
Đức Giê-su đã biến đổi Da-kêu từ người ‘thấp bé, nhẹ cân’ trở thành người ‘cao lớn, vĩ đại’. Sự cao lớn, vĩ đại của Da-kêu không phải là về mặt sinh học, về mặt thể lý nhưng về mặt tâm linh. Da-kêu ý thức về những lầm lỗi của bản thân, ăn năn hối cải, sống đời bác ái, yêu thương và không chần chừ, không hứa suông mà thực hiện lập tức: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19,8). Hiệu quả là Da-kêu được hưởng ơn cứu độ và phẩm giá của ông được Đức Giê-su khôi phục: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,9-10). Như vậy, Tin Mừng Đức Giê-su là Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người biết sống trong tâm tình tạ ơn, khiêm nhường và quan tâm đến anh chị em đồng loại.
Đức Giê-su không chỉ gặp gỡ những người Do-thái mà còn cả ‘dân ngoại’, những người không cùng văn hóa, truyền thống, tôn giáo. Chẳng hạn, Đức Giê-su tới miền Thập Tỉnh. Người cũng đã tới miền Tia và Xi-đôn. Cựu Ước đã có những trình thuật về việc dân ở đây thờ các thần của họ, chẳng hạn như: “Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: Hỡi con người, hãy nói với thủ lãnh của Tia: Chúa Thượng là Đức Chúa phán thế này: Vì ngươi đem lòng tự cao tự đại nên ngươi đã nói: Ta là thần, ta ngự trên ngai các thần, giữa trùng dương. Ngươi chỉ là người, chứ không phải là thần mà lại dám cho mình ngang hàng với thần thánh” (Ed 28,1-2). Tia và Xi-đôn là biểu tượng của việc sùng kính tà thần, kiêu ngạo và tôn thờ vật chất (Is 23,1-4). Trong Tân Ước, Đức Giê-su nói với những thành thuộc ‘Dân Chúa’ nhưng không sám hối: “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi. Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Lc 10,13-14). Đối với Đức Giê-su, điều quan trọng đối với con người không phải là thuộc dân Do-thái hay dân ngoại mà là đón nhận Người và thực thi giáo huấn của Người.
Như bao người Do-thái trưởng thành khác, Đức Giê-su đã đến Đền Thờ và các hội đường để gặp gỡ Thiên Chúa. Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an cho chúng ta biết chính Đức Giê-su đã ‘thanh tẩy Đền Thờ’ bằng cách xua đuổi những người bán chiên, bò, bồ câu và đổi tiền ra khỏi đền thờ (Ga 2,13-21). Qua trình thuật của thánh Gio-an Tông Đồ, Đức Giê-su dạy mọi người hai bài học quan trọng: (1) Mục đích của Đền Thờ là gặp gỡ Thiên Chúa và (2) chính Đức Giê-su là Đền Thờ (Ga 2,19-22). Đối với thánh Phao-lô, trên bình diện cá nhân, mỗi người chúng ta cũng là đền thờ của Thiên Chúa (1 Cr 3,16-17). Trên bình diện tập thể, Giáo Hội cũng là đền thờ của Thiên Chúa trong đó mỗi người là viên đá sống động (Ep 2,19-22).
Đức Giê-su đã tỏ bày vinh quang của Người trên núi Ta-bo trước sự hiện diện của ba môn đệ thân tín của Người là Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. Người đã gặp gỡ Chúa Cha và cho các môn đệ ‘nếm thử’ vinh quang của Người. Như đề cập ở trên, núi là chỗ ‘trời cao – đất thấp gặp nhau’. Điều kỳ diệu là biến cố này vừa là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Cha với Đức Giê-su, vừa là cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su với những nhân vật vĩ đại trong lịch sử mặc khải, bởi sự xuất hiện của Mô-sê (đại diện cho Lề Luật) và Ê-li-a (đại diện cho các ngôn sứ). Khi chứng kiến biến cố này, ba môn đệ thân tín của Đức Giê-su vẫn không hiểu toàn bộ những gì xảy ra bởi vì họ nhìn thấy sự biến đổi nơi Đức Giê-su cùng những người hiện diện, tuy nhiên, họ không thể diễn tả biến cố này cách rõ ràng. Đức Giê-su bảo họ đừng kể cho người khác nghe những gì họ chứng kiến cho đến khi ‘Con Người’ từ cõi chết trỗi dậy (Mt 17,9). Từ đó, càng ngày họ càng nhận ra rằng ‘vinh quang’ của Đức Giê-su được thể hiện qua thập giá. Quả thật, Biến cố Thập Giá cũng diễn ra trên núi, nhưng không phải là vinh quang như trên núi Ta-bo ở Ga-li-lê mà là ô nhục trên núi Sọ (Gôn-gô-tha), tại Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê.
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an cho chúng ta biết Đức Giê-su không chỉ gặp gỡ những người đang sống mà còn gặp gỡ những người đã chết để minh chứng rằng tình yêu của Người chính là tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chẳng hạn, khi biết tin La-da-rô đã chết, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây” (Ga 11,11). Thánh Gio-an trình thuật: “Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường” (Ga 11,13). Khi tới Bê-ta-ni-a thì La-da-rô đã chôn trong mộ bốn ngày và đã nặng mùi. Đức Giê-su hồi sinh La-da-rô trước sự chứng kiến của hai chị em Mác-ta, Ma-ri-a, các môn đệ Đức Giê-su và nhiều người khác nữa. Tình bạn của Đức Giê-su với những người trong gia đình Mác-ta thật lớn lao bởi vì Người không chỉ quan tâm họ khi đang sống mà cả khi họ đã qua đời. Trong Bữa Ăn Cuối Cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cho các môn đệ biết rằng Người là Bạn của họ. Đặc biệt, Người cũng giải thích cho họ biết rằng tình yêu cao cả nhất là tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
3.3 Cao Điểm Của Cuộc Gặp Gỡ
Sứ mệnh căn bản của Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại là giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Lần đầu tiên gặp Đức Giê-su, thánh Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Người cho những người chung quanh: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Đức Giê-su nói với những người Do-thái: “Hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do” (Ga 8,34-36). Đức Giê-su cho những người Do-thái xưa kia và mọi người trong gia đình nhân loại qua muôn thế hệ biết rằng chính Người là Đấng đem lại tự do đích thực khi xóa bỏ tội lỗi cho con người và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Người đã không dùng bất cứ hình thức trung gian nào khác để xóa bỏ tội lỗi của con người nhưng bằng cách gánh lấy tội lỗi của mọi người trong gia đình nhân loại mà đưa lên cây thập giá (Pl 2,6-6; 1 Pr 2,24).
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an cho chúng ta biết rằng cuối hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem, một số người Hy-lạp đến hỏi Phi-líp-phê: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su” (Ga 12,21). Câu hỏi của họ thể hiện lòng mong muốn diện kiến Đức Giê-su và lắng nghe lời của Người. Tuy nhiên, Đức Giê-su đã không trực tiếp gặp những người Hy-lạp. Người nói về chương trình phổ quát của Người nơi Biến Cố Vượt Qua đem lại ơn cứu độ: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,23-24). Người cũng nói với những người chung quanh: “Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,36). Biến cố này gợi lên trong chúng ta lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” (Is 60,3).
Thập giá Đức Giê-su chính là sự gặp gỡ huyền nhiệm và cao cả mà không ai trong gia đình nhân loại có thể cảm nghiệm cách đầy đủ. Nhiều câu hỏi được đặt ra là: Tại sao Thiên Chúa lại cứu độ con người qua thập giá? Tại sao Đức Giê-su là Thiên Chúa thánh thiện lại phải chịu hình phạt thập giá? Tại sao Thiên Chúa lại không cứu độ con người theo cách khác? Biến cố Đức Giê-su trên thập giá gợi lên nhiều câu hỏi hơn là trả lời. Chúng ta có thể hiểu như sau: (1) Thập giá thể hiện tình yêu huyền nhiệm của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su, (2) thiết lập Giao Ước Mới và vĩnh cửu; (3) sự thông hiệp của Đức Giê-su với muôn hình thức đau khổ của gia đình nhân loại, (4) ân sủng của Thiên Chúa thể hiện cách sung mãn nơi đau khổ nhất của con người, (5) đường lối của Thiên Chúa siêu việt lý trí thuần túy của con người; (6) chiến thắng của Thiên Chúa trên cái chết, (7) kiện toàn mặc khải của Thiên Chúa qua việc hòa giải con người với Thiên Chúa, với nhau và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI diễn tả sự gặp gỡ của Đức Giê-su trên thập giá như sau: “Đức Giê-su, Đấng đã tự mình chịu chết trên thập giá, đã mang đến một điều hoàn toàn mới mẻ: Một cuộc gặp gỡ với Chúa của muôn chúa, một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, và do đó, là một cuộc gặp gỡ với niềm hy vọng mạnh mẽ hơn mọi đau khổ của kiếp nô lệ, một niềm hy vọng có sức biến đổi cuộc sống và thế giới từ bên trong” (Spe Salvi 4). Nói cách khác, trên thập giá, Đức Giê-su gặp gỡ nỗi thất vọng tột cùng của thân phận con người để trao ban niềm hy vọng vinh hiển cánh chung cho mọi người.
Các Tin Mừng Nhất Lãm cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su chịu treo trên thập giá khoảng sáu giờ liên tục (từ giờ thứ Ba đến giờ thứ Chín). Đặc biệt, từ giờ thứ Sáu đến giờ thứ Chín (từ mười hai giờ Trưa đến ba giờ Chiều), bóng tối bao phủ mặt đất. Thật nghịch lý, hằng ngày, ánh sáng mặt trời trong khoảng thời gian này là mạnh nhất. Tuy nhiên, khi Đức Giê-su chịu treo trên thập giá, mọi sự trở nên tăm tối. Ý nghĩa thần học căn bản ở đây là tội lỗi nhân loại đã che phủ ánh sáng và thiên nhiên đã ‘tham dự’ vào chương trình của Thiên Chúa trong biến cố thập giá của Đức Giê-su. Đây thật là giờ cao điểm trong chương trình Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Đức Giê-su chết trên thập giá và Người đã tới tận cùng của vực thẳm sự chết để cứu độ và giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết.
Thánh Mác-cô trình thuật khoảnh khắc Đức Giê-su trút hơi thở cuối cùng: “Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (Mc 15,38). Đây là bức màn ngăn cách giữa nơi cực thánh trong Đền Thờ với phần còn lại của Đền Thờ. Bức màn tượng trưng cho sự ‘ngăn cách’ giữa Thiên Chúa là Đấng thánh và dân Người. Đức Giê-su muốn bày tỏ cho mọi người biết rằng bức màn mở ra để mọi người có thể đến với Thiên Chúa. Nơi Đức Giê-su chịu đóng đinh gần Đền Thờ Giê-ru-sa-lem càng làm nổi bật ý nghĩa rằng chính hy tế thập giá của Người là con đường dẫn vào sự hiện diện của Thiên Chúa. Tác giả thư gửi các tín hữu Do-thái viết: “Thưa anh em, nhờ máu Đức Giê-su đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh. Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền” (Dt 10,19-22). Như vậy, Đức Giê-su, Thượng Tế Tối Cao, đã thay mặt toàn thể gia đình nhân loại dâng lên Thiên Chúa hy tế cao cả nhất: Hy tế thập giá.
Cái chết không phải là biến cố cuối cùng trong hành trình trần thế của Đức Giê-su bởi vì Người đã sống lại như Người loan báo nhiều lần trong Tin Mừng (Mc 9,31; Mt 17,22-23; Ga 2,19). Biến cố Người sống lại vừa là nền tảng của lời loan báo tiên khởi (κήρυγμα/ kērygma) của các môn đệ, vừa là nền tảng của đức tin, đức cậy và đức ái Ki-tô Giáo. Thánh Phao-lô viết: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14). Cũng theo thánh nhân: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15,19). Thánh A-tha-na-xi-ô diễn tả cách tổng quát về sứ mệnh của Đức Giê-su như sau: “Đấng Cứu Thế đã phục sinh thân xác của chính Người, và rằng Người thật sự là Con Thiên Chúa, phát xuất từ Chúa Cha, chính là Ngôi Lời, là Sự Khôn Ngoan và là Quyền Năng của Cha, Đấng đã nhập thể vào thời viên mãn để cứu độ toàn thể nhân loại, dạy thế gian biết về Chúa Cha, tiêu diệt sự chết, và ban sự bất hoại cho mọi người” (Athanasius, On the Incarnation of the Word 32.6).
Đức Giê-su không chỉ hiện diện giữa gia đình nhân loại trong thời gian khoảng ba mươi ba năm mà còn cho tới thời cánh chung. Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mát-thêu cho chúng ta biết rằng lời cuối cùng của Đức Giê-su trước khi về trời là: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Đức Giê-su ở cùng mọi người trong gia đình nhân loại theo nhiều cách thức khác nhau, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích này, các tín hữu không chỉ gặp gỡ Đức Giê-su mà còn ‘ăn Thịt và uống Máu Người’ để nên một với Người như Người hằng nên một với Chúa Cha. Thánh Phao-lô không chỉ mời gọi mọi người cử hành Bí Tích Thánh Thể để ‘ăn Người’ mà còn mời gọi họ ‘mặc lấy Người’ (ἐνδύσασθε Χριστόν/ endýsasthe Christón, Rm 13,14). Về mặt thể lý, ‘ăn’ và ‘mặc’ là hai nhu cầu không thể thiếu của con người; về mặt tâm linh, ‘ăn Đức Ki-tô’ và ‘mặc Đức Ki-tô’ là nền tảng cốt yếu, nhờ đó các hình thức ‘ăn’ và ‘mặc’ khác của con người mới thực sự có ý nghĩa.
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su phục sinh đã gặp gỡ và trao ban bình an cũng như sứ mệnh cho các môn đệ. Khi Đức Giê-su xuất hiện lần thứ nhất, Tô-ma không có mặt cùng với các môn đệ và ông đã không tin lời của các môn đệ về việc họ được diện kiến Đức Giê-su phục sinh. Lần thứ hai, Đức Giê-su hiện đến với các môn đệ trong đó có Tô-ma. Chính Tô-ma đã tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa và là Thiên Chúa (Κύριος καὶ Θεός). Đức Giê-su nói với Tô-ma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Với Đức Giê-su, ai tin vào Người thì được hưởng ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu của Người. Quả thật, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu mà Người ban không hệ tại ở việc ‘nhìn thấy’ nhưng hệ tại ở việc ‘tin tưởng’. Thánh Gio-an cho biết mục đích ngài viết Tin Mừng như sau: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,30-31).
Thánh Phê-rô viết cho các tín hữu trong Giáo Hội sơ khai tại Pon-tô, Ga-lát, Cáp-pa-đô-ki-a, A-xi-a và Bi-thy-ni-a như sau: “Tuy không thấy Người [Đức Giê-su], anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1 Pr 1,8-9). Các Ki-tô hữu dõi theo Đức Giê-su không phải vì họ thấy Người bằng con mắt thể lý nhưng bằng con mắt đức tin theo lời loan báo của các chứng nhân Tin Mừng. Qua muôn thế hệ, nhiều người đặt niềm tin vào Đức Giê-su, niềm tin được củng cố bằng sự gắn bó với Người và thực thi thánh ý Người trong mọi hoàn cảnh của đời mình. Trong Thông điệp ‘Ánh Sáng Đức Tin’ (Lumen Fidei, 2013), Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô viết: “Đức tin được sinh ra từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mặc khải cho chúng ta tình yêu của Người, một tình yêu đi trước chúng ta, để chúng ta có thể nương tựa vào đó mà tìm thấy sự bảo đảm và xây dựng cuộc đời mình” (Lumen Fidei 4). Ngài cũng khẳng định: “Chân lý mà đức tin mặc khải cho chúng ta là chân lý quy hướng về cuộc gặp gỡ với Đức Ki-tô, về việc chiêm ngắm cuộc đời của Người và nhận thức về sự hiện diện của Người” (Lumen Fidei 30). Như vậy, mặc dù các Ki-tô hữu không nhìn thấy Đức Giê-su bằng xương bằng thịt nhưng ‘với con mắt đức tin’, họ ‘nhìn thấy’ sự hiện diện của Người và chiêm ngắm Người. Đồng thời, họ diễn tả đức tin và niềm hy vọng vào Người bằng đời sống đượm tình bác ái, hy sinh và từ bỏ chính mình.
4. ĐỨC GIÊ-SU – ĐƯỜNG GẶP GỠ
4.1 Đức Giê-su Là Đường Gặp Gỡ Của Mọi Người
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cho các môn đệ biết Người là Đường và không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Người (Ga 14,6). Mặc khải Ki-tô Giáo giúp chúng ta nhận thức rằng con người chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa ‘nhờ Đức Giê-su, với Đức Giê-su và trong Đức Giê-su’. Bởi vì, sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại là sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa; khuôn mặt Đức Giê-su là khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa. Như đề cập ở trên, theo dòng lịch sử, Thiên Chúa mặc khải chương trình cứu độ của Người qua nhiều kình thức khác nhau, trong đó, mặc khải sung mãn nhất và cao cả nhất là Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại.
Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su cho mọi người biết rằng Người là Mục Tử Nhân Lành và là Cửa duy nhất dẫn đoàn chiên tới sự sống dồi dào (Ga 10,7-14). Ý thức về điều đó, ngay từ buổi đầu loan báo Tin Mừng, thánh Phê-rô khẳng định: “Dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12). Thấm nhuần tinh thần Tin Mừng, Công Đồng Vatican II quả quyết: “Chỉ có Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng con người giống hình ảnh Người và cứu thoát con người khỏi tội lỗi, mới giải đáp đầy đủ các vấn đề ấy. Người giải đáp bằng cách mặc khải trong Con của Người là Chúa Ki-tô, Ðấng đã hóa thân làm người” (GS 41). Vai trò trung gian duy nhất của Đức Giê-su luôn được Giáo Hội xác nhận và khai triển trong dòng lịch sử của mình.
Đức Giê-su luôn hiện diện, hoạt động và gặp gỡ mọi người cũng như muôn vật muôn loài ngay cả khi Người sống trong không gian, thời gian. Thánh A-tha-na-xi-ô viết: “Người không hề bị giới hạn trong thân xác như người ta tưởng, cũng không phải khi hiện diện trong thân xác thì Người vắng mặt ở nơi khác; cũng không phải khi Người điều động thân xác thì vũ trụ bị bỏ mặc ngoài sự quan phòng của Người. Trái lại, điều kỳ diệu nhất là: Tuy là Ngôi Lời, Người không bị bất cứ điều gì bao bọc, nhưng chính Người lại bao bọc mọi sự” (Athanasius, On the Incarnation of the Word 17.1). Điều này có nghĩa rằng, là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đức Giê-su luôn hiệp thông trọn vẹn với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong đời sống nội tại cũng như trong công trình cứu độ. Là Thiên Chúa trong thân phận con người, Đức Giê-su hoàn toàn ‘tự do’ vâng phục Chúa Cha để thực thi chương trình cứu độ nhân loại và biến đổi muôn vật muôn loài.
Trong Lời Tựa Tin Mừng, thánh Gio-an viết về Đức Giê-su như sau: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Trình thuật Tin Mừng theo thánh Lu-ca cho chúng ta biết về những khó khăn của thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a trước biến cố Giáng Sinh: “Hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Quê hương của Đa-vít, vị vua lừng lẫy trong lịch sử dân tộc Do-thái lại không có chỗ cho Đức Giê-su; nhân loại không đủ chỗ cho Thiên Chúa. Tâm hồn con người không đủ chỗ cho Đấng tối cao bởi vì tâm hồn con người dành chỗ cho quá nhiều thứ, nó trở nên chật chội đến nỗi không có chỗ cho Đấng dựng nên mình. ‘Không có chỗ cho Chúa’ diễn ra trong biến cố Đức Giê-su Giáng Sinh đã trở thành ‘điệp khúc’ xuyên suốt lịch sử gia đình nhân loại bởi vì con người thường quan tâm nhiều thứ theo cảm tính của mình hơn là quan tâm Thiên Chúa, Đấng dựng nên mình. Thánh Gio-an Tông Đồ viết: “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12).
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội qua dòng thế kỷ, chúng ta nhận thức rằng không ai gặp gỡ Đức Giê-su cách chân thành mà cuộc sống mình lại không có âm hưởng nào đó về Người; không ai đến với Đức Giê-su cách đích thực mà lại không ra đi đem lại hoa trái dồi dào; không ai gặp gỡ Đức Giê-su mà lại không hoán cải nội tâm; không ai gặp gỡ Đức Giê-su mà lại không muốn tiến xa hơn trên đường đức hạnh; không ai gặp gỡ Đức Giê-su mà lại không dần dần khám phá ra căn tính đích thực của mình. Mọi người được mời gọi không ngừng hoán cải (μετάνοια/ metánoia/ conversion), nghĩa là cộng tác với Thiên Chúa trong việc trở về với chính mình để biến đổi và điều chỉnh tâm hồn mình. Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Trái tim là nơi con người chân thật với mình nhất, để chọn lựa sự sống hay sự chết. Đó cũng là nơi gặp gỡ để sống các mối tương giao, vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa: Trái tim là nơi sống giao ước” (GLGHCG 2563). Nhờ đó, toàn thể con người và lối sống được biến đổi hầu có thể thực thi thánh ý Thiên Chúa cách tốt đẹp nhất như lời của thánh Phao-lô: “Hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: Cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Ai không thực thi việc hoán cải thì không thể gặp gỡ Thiên Chúa theo thánh ý của Người cách xứng hợp. Hậu quả là, sớm hay muộn, mình sẽ tạo ra ‘chúa’ theo sở thích của mình chứ không phải là hướng tâm trí về Thiên Chúa đích thật, hằng hữu và hằng sống.
Công Đồng Vatican II khẳng định: “Con người, tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ, chỉ có thể gặp lại chính bản thân mình nhờ thành thực hiến thân” (GS 24). Điều này có nghĩa là Thiên Chúa sáng tạo con người với lý trí, ý chí, tự do và tình yêu. Con người có phẩm giá độc nhất vô nhị là ‘theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa’ (St 1,26). Con người được Thiên Chúa dựng nên để yêu thương nhau và thông hiệp với Người, chứ không phải là phương tiện để phục vụ tạo vật nào đó. Con người gặp được chính mình khi biết trút bỏ, biết cho đi, để có thể hoàn thành chính mình theo khuôn mẫu Đức Giê-su, Con Thiên Chúa trong thân phận con người. Nói cách khác, con người phải sống ơn gọi hướng về Đức Giê-su để có thể hướng về anh chị em cũng như vạn vật. Đặc biệt, con người cần phải luôn gặp gỡ Đức Giê-su, gắn bó với Đức Giê-su, hiệp nhất nên một với Đức Giê-su để có thể thực thi trọn vẹn ơn gọi trần thế của mình.
Dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, mọi người trong gia đình nhân loại, từ người đầu tiên đến người cuối cùng đều phải diện kiến Đức Giê-su, đều phải gặp gỡ Đức Giê-su khi hoàn tất đời mình cũng như trong thời quang lâm như là biến cố quyết định cho đời sống vĩnh cửu của bản thân mình. Mỗi người sẽ phải ‘trả lẽ’ cho những tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót trong hành trình trần thế. Điểm căn bản là kết quả cuộc gặp gỡ Đức Giê-su quang lâm (Đức Giê-su hiển thắng) tùy thuộc vào các hình thức mà mỗi người gặp gỡ Đức Giê-su, gặp gỡ anh chị em mình cũng như gặp gỡ muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Những tiên báo trong sách ngôn sứ I-sai-a trở thành hiện thực nơi Đức Giê-su trong thời cánh chung: “Ngày ấy, người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ” (Is 25,9).
Mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi gặp gỡ Đức Giê-su trong bất cứ hoàn cảnh nào: Hãy là những môn đệ chài lưới gặp gỡ Đức Giê-su khi đang làm việc; hãy là Ni-cô-đê-mô gặp gỡ Đức Giê-su ban đêm; hãy là người phụ nữ Sa-ma-ri gặp gỡ Đức Giê-su giữa trưa; hãy là Ma-ri-a Mác-đa-la gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh lúc trời chưa kịp sáng; hãy là hai môn đệ trên đường Em-mau trong cảnh chiều tà thất vọng. Đức Giê-su luôn chờ đợi và mời gọi mọi người đến với Người để được Người chúc lành, ban bình an và sai đi loan báo Tin Mừng; Đức Giê-su luôn đồng hành để phù trợ, an ủi, nâng đỡ những ai gắn bó với Người; Đức Giê-su luôn hướng dẫn và làm cho những ai gặp gỡ cũng như gắn bó với Người luôn có được viễn kiến tốt nhất cho hành trình trần thế của mình.
Đường Gặp Gỡ của Đức Giê-su cũng là Đường Hy Vọng bởi vì chính Đức Giê-su là Đường và cũng là Hy Vọng của con người cũng như muôn vật muôn loài (Ga 14,6; 1 Tm 1,1). Thánh Phao-lô cho các tín hữu Ê-phê-sô biết rằng, trước khi gặp gỡ Đức Giê-su, họ không có niềm hy vọng đích thực: “Thuở ấy anh em không có Đấng Ki-tô, không được hưởng quyền công dân Ít-ra-en, xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này” (Ep 2,12); nhờ gặp gỡ Đức Giê-su, họ trở thành những người ở gần: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2,13). Như vậy, gặp gỡ Đức Giê-su đem lại cho con người niềm hy vọng đích thực. Theo Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI: “Chúng ta, những người đã luôn sống trong khái niệm Ki-tô Giáo về Thiên Chúa và đã quen thuộc với nó, hầu như không còn nhận ra rằng mình đang sở hữu niềm hy vọng phát sinh từ một cuộc gặp gỡ thực sự với chính Thiên Chúa ấy” (Spe Salvi 3).
Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đã gặp gỡ gia đình nhân loại cách thâm sâu và cụ thể nhất. Do đó, thật là cần thiết để mọi người trong gia đình nhân loại biết nhìn nhận nhau và cùng nhau đóng góp phần mình xây dựng ‘nền văn hóa gặp gỡ’. Nền văn hóa này không loại trừ những giá trị lành thánh tốt đẹp nảy sinh từ các nền văn hóa đặc thù trên thế giới. Nền văn hóa này khơi dậy ý thức chung về sự cần thiết để mọi người nhận ra vai trò của mình trong gia đình nhân loại. Khi nền văn hóa gặp gỡ được hình thành và phát triển cũng là khi con người ý thức hơn về việc loại trừ những gì phương hại đến phẩm giá con người, tình hiệp thông và liên đới giữa mọi người cũng như lợi ích của mỗi cá thể trong gia đình nhân loại. Với nền văn hóa gặp gỡ, mọi người biết chung sức, chung lòng hầu có thể vượt qua những cản trở, nghịch cảnh hay thử thách trong các hình thức xã hội. Nền văn hóa gặp gỡ giúp mọi người biết tôn trọng trật tự cũng như bình đẳng trong mọi hoàn cảnh của đời sống, đồng thời, giúp mọi người ý thức hơn về việc đồng sức đồng lòng xây dựng gia đình nhân loại trong bình an, hòa thuận và phát triển bền vững.
4.2 Sống Theo Đường Gặp Gỡ Của Đức Giê-su
Với Bí Tích Rửa Tội, con người gặp gỡ Đức Giê-su, nên một với Người và đi vào cuộc sống mới trong Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Người. Nhờ đó, con người sống trong niềm hy vọng đích thực là được kết hiệp cùng Thiên Chúa trong đời sống vĩnh cửu. Nói cách khác, với Bí Tích Rửa Tội, con người được kết hợp cùng Đức Giê-su và trở thành chi thể của Người. Trong Thông Điệp ‘Thiên Chúa Là Tình yêu’ (Deus Caritas Est, 2005), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI viết: “Là Ki-tô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa luân lý hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là do gặp gỡ một biến cố, một con người, cuộc gặp gỡ ấy mang lại cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi dứt khoát” (Deus Caritas Est 1). Như vậy, Ki-tô hữu là người gặp gỡ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa trong thân phận con người; và chính sự gặp gỡ này sinh hoa kết trái ngay trong hành trình trần thế, đồng thời được kiện toàn trong vinh quang cánh chung khi con người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.
Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô, không ngừng tạo điều kiện cho các tín hữu gặp gỡ Đức Giê-su, gặp gỡ Thiên Chúa qua các bí tích. Quả thật, ở đâu lời của Thiên Chúa được lắng nghe và các bí tích được cử hành, ở đó con người được gặp gỡ Thiên Chúa và anh chị em mình cách xứng hợp. Lời của Đức Giê-su giúp chúng ta hiểu thêm về chiều kích cộng đoàn của cuộc gặp gỡ: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Mỗi cử hành bí tích là một cuộc gặp gỡ giữa con cái Thiên Chúa với Cha mình, trong Đức Ki-tô và Thánh Thần. Cuộc gặp gỡ này là cuộc đối thoại qua hành động và lời nói” (GLGHCG 1153). Như vậy, các bí tích là những máng thông truyền ân sủng Thiên Chúa cho con người, giúp con người sống xứng hợp với phẩm giá của mình là hình ảnh Thiên Chúa, bạn của Đức Giê-su cũng như môn đệ và tông đồ trung tín của Người.
Đức tin của các Ki-tô hữu nảy sinh từ sự gặp gỡ Đức Giê-su, gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng luôn hiện diện và hoạt động giữa trần gian. Tác giả thư gửi các tín hữu Do-thái viết: “Không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người” (Dt 11,6). Đặc biệt, đức tin của các Ki-tô hữu nảy sinh từ cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giê-su, Đấng đến trần gian để gặp gỡ mọi người trong gia đình nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Cuộc gặp gỡ này mở ra chân trời mới, chân trời mà tự thân con người không thể tiếp cận được. Nhờ sự gặp gỡ thâm sâu với Người, con người có khả năng vượt qua muôn hình thức đau khổ hay thử thách của cuộc đời trần lụy bởi vì Đức Giê-su luôn đồng hành nâng đỡ mọi người.
Như đề cập ở trên, Thiên Chúa đến với con người theo cách thức con người không ngờ tới. Khi giảng dạy, Đức Giê-su nói: “Ai có tai thì nghe” (Mt 11,15). Thiên Chúa luôn hiện diện và mời gọi mọi người gặp gỡ Người. Do đó, mọi người được mời gọi chuẩn bị tâm hồn, tạo cho mình tâm thế sẵn sàng để lắng nghe Lời Chúa. Con người cần luôn biết ngạc nhiên trước chương trình của Thiên Chúa đối với bản thân mình cũng như anh chị em đồng loại và muôn vật muôn loài. Ai không có tâm hồn ‘biết ngạc nhiên’ thì người đó khó có thể nhận ra thánh ý Thiên Chúa đối với bản thân mình. Thiên Chúa luôn gặp gỡ con người, vấn đề còn lại là từ phía con người chứ không phải về phía Thiên Chúa.
Con người không chỉ gặp gỡ Đức Giê-su hay gặp gỡ Thiên Chúa qua những gì bên ngoài mà còn gặp gỡ Người từ bên trong và thể hiện hoa trái của cuộc gặp gỡ đó bằng hành động. Chính Đức Giê-su nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô viết: “Tôi mời gọi mọi Ki-tô hữu ở khắp nơi, ngay trong giây phút này, hãy làm mới lại cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giê-su Ki-tô, hoặc ít ra hãy mở lòng để Người có thể gặp gỡ anh chị em” (Evangelii Gaudium 3). Như vậy, mọi người cần gặp gỡ Người tận đáy sâu của lòng mình để được Người biến đổi. Bằng không, chỉ nghe về Đức Giê-su hay biết Đức Giê-su qua ‘chữ nghĩa’ thì chưa đủ. Tương tự như vậy, đọc và suy niệm lời của Đức Giê-su mà thôi thì chưa đủ mà còn phải mở lòng để lời của Đức Giê-su biến đổi bản thân mình. Gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ Đức Giê-su qua kinh nghiệm nội tâm chứ không qua kinh nghiệm khả giác.
Gặp gỡ cá vị với Đức Giê-su là điều kiện không thể thiếu được để có thể đi vào các cuộc gặp gỡ liên vị khác. Tiến trình gặp gỡ liên vị (the process of interpersonal encounter) với Thiên Chúa và với nhau cho phép con người ý thức hơn về sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa đối với bản thân cũng như đối với anh chị em đồng loại. Đồng thời, tiến trình này giúp con người ý thức hơn về việc không ngừng đến với nhau và tương trợ lẫn nhau trong tình bác ái chân thành. Nhờ đó, tất cả cùng nhau kiến tạo môi trường gặp gỡ để xây dựng ngôi nhà chung trong đó tự do của con người ngày càng được coi trọng, phẩm giá con người được đề cao và sự sống con người được bảo vệ.
Chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa khi chúng ta cùng lên núi với Người như Áp-ra-ham, Mô-sê, Ê-li-a, như ba môn đệ trên núi Ta-bo; chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa khi chúng ta ‘diện đối diện’ với chính mình, với anh chị em, với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo cách trung tín nhất. Chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa khi chúng ta cùng xuống núi theo lời của Đức Giê-su (Mt 17,1–9; Mc 9,2–9; Lc 9,28–36); chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa khi chúng ta cúi xuống với anh chị em chúng ta; chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa khi chúng ta biết quan tâm nhiều đến bức tranh của Giáo Hội, của gia đình nhân loại, của gia đình thế giới thụ tạo hơn là bức tranh nhỏ của ‘cái tôi ích kỷ của mình’. Chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa khi chúng ta biết ở lại trong Người như Đức Giê-su dạy các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn.
Ai nhận thức rằng mình tội lỗi, bất xứng xấu xa và rằng mình cần sự tha thứ và nâng đỡ của Thiên Chúa thì mới có thể nhận thức sự cần thiết phải gặp gỡ Đức Giê-su, để nhờ Người mà được hòa giải với Thiên Chúa, với anh chị em và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Trong hành trình loan báo Tin Mừng Đức Giê-su nói: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,31-32). Người biết nhận thức những giới hạn của bản thân cũng là người biết cậy dựa vào tình thương hải hà của Thiên Chúa, đồng thời, có khả năng cảm nghiệm tình thương ấy. Nhờ đó, họ biết cộng tác với Thiên Chúa trong việc biến đổi bản thân để có thể cộng tác với Người trong việc biến đổi đời sống của anh chị em đồng loại.
Gặp gỡ và cộng tác là hai chủ đề phổ biến trong mọi nền văn hóa trên thế giới. Khi con người không thể gặp gỡ thì cũng không thể cộng tác. Khi con người cộng tác với nhau mà không đặt nền tảng trên cuộc gặp gỡ chân thành, sự cộng tác ấy dễ rơi vào nguy cơ đổ vỡ vì mỗi bên chỉ theo đuổi các chủ trương và quyền lợi riêng, không còn lưu tâm đến lợi ích chung của những người cộng tác. Trong diễn từ trước đám đông của thời Giáo Hội sơ khai, thánh Tê-pha-nô ngỏ lời với các thành viên của Thượng Hội Đồng Do-thái (Sanhedrin) tại Giê-ru-sa-lem như sau: “Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. Có ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy” (Cv 7,51-52). Lời của thánh nhân cho thấy rằng những người đang đồng lòng bách hại ngài cũng là hậu duệ của những kẻ đã khước từ lời mời gọi gặp gỡ của Thiên Chúa qua các sứ giả của Người trong quá khứ.¬
Ơn cứu độ của mọi người trong gia đình nhân loại được Đức Giê-su thực hiện ‘một lần cho tất cả’. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ Đức Giê-su không phải là cuộc gặp gỡ một lần cho tất cả. Bởi vì, sống giữa trần gian, con người luôn phải đương đầu với nhiều hình thức khó khăn, chẳng hạn như những khó khăn nảy sinh từ đời sống cá nhân, gia đình, xã hội; những khó khăn nảy sinh từ giới hạn của không gian, thời gian, sức khoẻ; những khó khăn nảy sinh từ muôn hình thức bóng tối của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Đó là lý do tại sao mọi người được mời gọi gặp gỡ Đức Giê-su và tái gặp gỡ Người luôn mãi. Nói cách khác, gặp gỡ Đức Giê-su là một tiến trình hơn là một biến cố bởi vì đây là cuộc gặp gỡ liên lỉ, cuộc gặp gỡ hướng tới đời sống vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa. Như vậy, gặp gỡ và tái gặp gỡ luôn là tiến trình không gián đoạn của các môn đệ và tông đồ Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại.
Trong thời đại kỹ thuật số (the digital age), sự tương tác giữa các cá nhân, các hình thức tập thể cũng như các nền văn hóa diễn ra nhanh chóng và thuận tiện. Đây là điều kiện tốt để các Ki-tô hữu gia tăng ‘tần suất gặp gỡ’ với anh chị em mình. Những cuộc gặp gỡ này sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho mọi người và tạo điều kiện cho sự hiểu biết lẫn nhau cũng như sự cần thiết để hợp tác với nhau hầu có thể mở ra những khả năng mới mẻ giúp con người ngày càng sống xứng hợp hơn với phẩm giá của mình. Sự gặp gỡ không chỉ xây dựng tình yêu thương và liên đới mà còn làm phát sinh những thách đố đòi hỏi mọi người phải đồng tâm chung sức giải quyết hầu mang lại lợi ích cụ thể cho từng cá nhân cũng như các hình thức cộng đoàn trong xã hội loài người. Quả thật, sự gặp gỡ trong thời đại kỹ thuật số có thể làm cho con người ‘sa chước cám dỗ’ khi con người không biết sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông cách hữu hiệu để định dạng đời sống nội tâm mình. Trong Tông Huấn ‘Đức Ki-tô Đang Sống’ (Christus Vivit, 2019), Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô mời gọi các bạn trẻ hãy thiết lập tương quan trực tuyến với Đức Giê-su, nối mạng với Đức Giê-su (online with Christ), hãy gặp gỡ Đức Giê-su vì Người luôn ở bên cạnh, luôn trung tín với giao ước của Người; hãy ở lại trong Người, hãy làm bạn với Người để qua Người, các hình thức gặp gỡ khác sẽ đem lại kết quả tốt đẹp (Christus Vivit, 154).
4.3 Loan Báo Tin Mừng Đường Gặp Gỡ Của Đức Giê-su
Buổi đầu loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su gặp gỡ Si-môn (sau này Người đổi tên thành Phê-rô) và An-rê, Người nói với họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1,17). Cùng với các môn đệ thân tín khác, họ đã rời bỏ người thân, nhà cửa, nghề nghiệp, thói quen để theo Người và được Người hướng dẫn hầu tiếp tục sứ mệnh loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho anh chị em đồng loại. Trước khi về trời, Đức Giê-su phục sinh nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Lời của Đức Giê-su đối với các môn đệ thân tín của Người xưa kia cũng là lời của Người đối với các Ki-tô hữu hôm nay, nghĩa là việc loan báo Tin Mừng luôn là ưu tiên hàng đầu cho những ai nhìn nhận Đức Giê-su là Chúa, là Thầy và là Bạn của mình trong gia đình nhân loại.
Môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su là người được mời gọi đến gặp gỡ, ở lại để được Người dạy dỗ và sai đi loan báo Tin Mừng. Bởi vì, Tin Mừng Đức Giê-su là Tin Mừng cho mọi người, trong mọi thời và khắp mọi nơi. Nhờ Đức Giê-su, cuộc đời của họ đã hoàn toàn biến đổi, từ ‘người lưới cá’ thành ‘người lưới người’, góp phần mình trong việc biến đổi cuộc đời của nhiều người khác. Gặp gỡ Đức Giê-su cách chân thành luôn đem đến những sự biến đổi tận căn. Chẳng hạn, các môn đệ đầu tiên của Đức Giê-su vốn là những người tầm thường nhưng nhờ gặp gỡ Đức Giê-su, họ đã trở thành những người có sứ vụ đặc biệt trong việc ở lại với Đức Giê-su để học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và trở thành những sứ giả tiếp tục sứ mệnh của Đức Giê-su hầu đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Sau khi phục sinh, Đức Giê-su đã gặp gỡ các môn đệ của Người, đặc biệt là Ma-ri-a Mác-đa-la, Phê-rô, Gio-an, người môn đệ được Đức Giê-su yêu mến. Đức Giê-su cũng gặp gỡ những môn đệ khác không thuộc Nhóm Mười Hai, chẳng hạn như hai môn đệ trên đường Em-mau, một môn đệ có tên là Cơ-lê-ô-pát, còn người kia thì không được nhắc tên. Các trình thuật Tin Mừng không cho chúng ta biết bất cứ điều gì về hai môn đệ này. Một số nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng ai cũng có thể đặt mình vào vị trí của hai môn đệ Em-mau để lắng nghe Đức Giê-su giải thích Kinh Thánh, cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể và cộng tác với Người trong việc loan báo Tin Mừng.
Trình thuật sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta biết, nhờ gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh, thánh Phao-lô đã hoán cải và trở nên vị tông đồ loan báo Tin Mừng cách hiệu quả nhất. Ngài kể hành trình của ngài như sau: Khi ngài đang mải mê bắt trói những ai theo Đức Giê-su để giải về Giê-ru-sa-lem thì có luồng sáng từ trời bao phủ và ngài ngã xuống đất. Bỗng ngài nghe tiếng của Đức Giê-su phục sinh: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” (Cv 9,4). Ở Đa-mát, một người có tên là Kha-na-ni-a được Chúa sai phái đến với Phao-lô và nói: “Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Đức Giê-su, Đấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần” (Cv 9,17). Sau khi chịu phép rửa, Phao-lô bắt đầu loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người trong các hội đường. Cho dù không phải là môn đệ được Đức Giê-su trực tiếp giảng dạy trong hành trình Người loan báo Tin Mừng như các môn đệ khác, Phao-lô đã trình bày căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su cách sâu xa và đầy đủ nhất. Cuộc gặp gỡ Đức Giê-su đã làm cho tâm trí Phao-lô hoàn toàn biến đổi: Từ người bắt bớ các Ki-tô hữu thành người kêu gọi mọi người trở thành Ki-tô hữu. Hơn nữa, ngài đã minh chứng cho Tin Mừng mà ngài loan báo bằng chính cái chết tử đạo theo khuôn mẫu Đức Giê-su. Với thánh Phao-lô, loan báo Tin Mừng luôn là trung tâm của đời sống ngài: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).
Ai gặp gỡ Đức Giê-su cách chân thành đều nhận ra tình yêu huyền diệu của Người đối với bản thân mình, đồng thời, được thôi thúc cộng tác với Người trong việc loan báo Tin Mừng cho anh chị em đồng loại. Trong Bữa Ăn Cuối Cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Giới Răn Mới của Đức Giê-su là yêu anh chị em mình theo như Đức Giê-su đã yêu, yêu đến nỗi gọi các môn đệ cũng như mọi người trong gia đình nhân loại là bạn và hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình (Ga 15,12-15). Trong Thông Điệp ‘Ðấng Cứu Chuộc Con Người’ (Redemptor Hominis, 1979), Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người vẫn là một hữu thể không thể hiểu nổi chính mình, đời sống của họ mất ý nghĩa, nếu tình yêu không được tỏ bày cho họ, nếu họ không gặp gỡ tình yêu, nếu họ không cảm nghiệm và chiếm hữu tình yêu ấy, nếu họ không tham dự cách thân mật vào trong tình yêu đó” (Redemptor Hominis 10). Đây chính là tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giê-su và ai gặp gỡ tình yêu này thì bản thân được biến đổi và nhận ra sự cần thiết trong việc giúp người khác biến đổi trong tình yêu của Người.
Như đề cập ở trên, trong Cựu Ước, ai gặp gỡ Thiên Chúa cách chân thành thì được biến đổi và trở nên sứ giả của Người. Trong Tân Ước cũng vậy, ai tâm thành gặp gỡ Đức Giê-su thì được biến đổi và trở thành môn đệ và tông đồ thực thụ của Người trong việc loan báo Tin Mừng. Họ nhận diện cách rõ nét hơn đặc sủng và ơn gọi cụ thể của mình, đồng thời, dõi theo đặc sủng và ơn gọi ấy hầu làm cho bản thân ngày càng được tiến triển lành mạnh trong hành trình bước theo Đức Giê-su. Người có kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giê-su cũng là người có kinh nghiệm gặp gỡ anh chị em cũng như muôn vật muôn loài cách xứng hợp. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giê-su giúp mọi người nhận ra căn tính, đời sống và sứ mệnh của bản thân cách tỏ tường hơn. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giê-su trong đời sống cá nhân giúp mỗi người thể hiện trong đời sống của các cộng đoàn mà mình tham dự.
Một trong những phương pháp quan trọng trong việc loan báo Tin Mừng là gặp gỡ nhau, có kinh nghiệm về nhau cũng như kinh nghiệm của cộng đoàn đức tin trước khi có thể công bố nội dung đức tin cho anh chị em đồng loại. Đây là ‘phương pháp của Đức Giê-su’ khi gửi các môn đệ từng hai người một để họ có thể gặp gỡ nhau trước khi gặp gỡ những người khác (Lc 10,1). Như đề cập ở trên, nhờ gặp gỡ Đức Giê-su cách chân thành, các Ki-tô hữu cũng gặp gỡ anh chị em mình cách xứng hợp. Đặc biệt, khi các Ki-tô hữu ý thức rằng gặp gỡ nhau và sống cùng nhau cách chân thành đã là lời loan báo Tin Mừng cách hữu hiệu rồi. Điều này đã được biểu lộ rõ nét trong Giáo Hội sơ khai khi những người chưa tin vào Đức Giê-su đã nói về các Ki-tô hữu: “Hãy xem, họ yêu thương nhau biết bao; hãy xem, họ sẵn sàng chết vì nhau” [Vide, inquiunt, ut invicem se diligant; vide, ut pro alterutro mori sint parati] (Tertullian, Apology 39).
Ai gặp gỡ Đức Giê-su thì cũng nhận ra rằng cuộc đời là chuyến đi trong sự hiện diện và hoạt động của Người, ‘Đấng xưa thật xưa mà luôn mới mẻ’ (Augustine, Confessions X, 27.38). Do đó, điều cần thiết là luôn ý thức về những cách thức mới để sống đời Ki-tô hữu (the new way of being Christians). Điều này có nghĩa rằng các Ki-tô hữu cần hiệp thông với Đức Giê-su, sống đời chứng tá Tin Mừng, ý thức về tinh thần nhập thể giữa các môi trường văn hóa khác nhau, đối thoại với mọi người, ý thức về tinh thần phục vụ, đặc biệt, đến với những người nghèo khổ. Quả thật, cuộc gặp gỡ Đức Giê-su phải có âm hưởng ngay trong cuộc sống của các Ki-tô hữu và được lan tỏa tới những người xung quanh, bằng không, sự gặp gỡ đó chưa được hoàn thành (Is 55,10-11).
Công Đồng Vatican II khẳng định: “Hết mọi tín hữu đều có bổn phận rất cao cả là hoạt động để mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc Âm cứu độ của Chúa” (AA 3). Mở đầu Tông Huấn ‘Niềm Vui Của Tin Mừng’ (Evangelii Gaudium, 2013), Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô viết: “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và cuộc sống của tất cả những ai gặp gỡ Đức Giê-su. Những ai đón nhận lời mời gọi cứu độ của Người được giải thoát khỏi tội lỗi, sầu khổ, sự trống vắng nội tâm và cô đơn. Với Đức Ki-tô, niềm vui không ngừng được sinh ra mới mãi” (Evangelii Gaudium 1). Tiếp tục tinh thần của Công Đồng Vatican II, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô viết: “Mỗi Ki-tô hữu là một nhà loan báo Tin Mừng, trong mức độ mà người ấy đã gặp gỡ tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su Ki-tô: Chúng ta không còn nói rằng mình là ‘môn đệ’ và ‘người loan báo Tin Mừng’ như hai thực tại tách biệt, nhưng đúng hơn, chúng ta luôn là những môn đệ loan báo Tin Mừng” [missionary disciples] (Evangelii Gaudium 120). Như vậy, gặp gỡ Đức Giê-su, cảm nhận và thực thi giáo huấn của Người là điều kiện tiên quyết để được hưởng ơn cứu độ. Đồng thời, những ai đi vào mối tương quan thân mật với Đức Giê-su như thế thì được thôi thúc loan báo Tin Mừng của Người cho anh chị em mình.
Trong sách ngôn sứ I-sai-a, cộng đoàn Xi-on (Giê-ru-sa-lem) được nhân cách hóa và Đức Chúa mời gọi họ như sau: “Hãy nới rộng lều ngươi đang ở, căng các tấm bạt ra, đừng hẹp lòng hẹp dạ. Nối dây thừng dài thêm, đóng cọc lều cho chắc, vì ngươi sẽ tràn ra hai bên tả hữu, dòng dõi ngươi sẽ thừa kế các dân tộc và đến ở trong các thành bỏ hoang” (Is 54,2-3). Giãn nhà, nới lều, căng bạt là những hình ảnh thôi thúc Giáo Hội mời gọi con cái mình đón nhận Tin Mừng, sống theo Tin Mừng và loan báo Tin Mừng cho mọi người với niềm xác tín rằng, không ai bị bỏ rơi, không ai bị loại trừ, không ai là ‘dân ngoại’ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Bởi vì, chương trình của Đức Giê-su là chương trình phổ quát (universal plan); ơn cứu độ của Đức Giê-su là ơn cứu độ phổ quát (universal salvation), thể hiện ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa (God’s universal salvific will). Theo Công Đồng Vatican II: “Giáo Hội [của Đức Giê-su] chỉ kết thúc trong vinh quang trên trời, khi thời cải tạo mọi sự đến và khi toàn thể vũ trụ cùng với loài người được thiết lập toàn vẹn trong Chúa Ki-tô, vì vũ trụ liên kết mật thiết với con người và nhờ con người đạt được cùng đích của mình” (LG 48).
5. Kết Luận
Những trình bày trên đây giúp chúng ta xác tín vững chắc rằng ngay cả khi con người vô ơn, kiêu ngạo, bất tuân phục và tội lỗi xâm nhập vào trần gian, tình yêu của Thiên Chúa đối với con người vẫn luôn bền vững. Tình yêu đó được thể hiện qua việc Thiên Chúa không ngừng gặp gỡ và mời gọi con người đi vào mối thông hiệp với Người. Đặc biệt, Thiên Chúa đã chọn Áp-ra-ham và qua ông, giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người được thiết lập. Theo dòng lịch sử, Thiên Chúa luôn gặp gỡ, đồng hành và hướng dẫn dân Người để giúp họ đón nhận, sống và thực thi thánh ý Người.
Khi thời gian tới hồi viên mãn, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đã đến trần gian để gặp gỡ mọi người trong gia đình nhân loại. Nơi Người, bản tính Thiên Chúa và bản tính con người nên một với nhau. Vì thế, Người vừa thể hiện mình là Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ, vừa là con người với những giới hạn, đau khổ và bấp bênh của đời sống nhân sinh như bao người khác. Nơi Người diễn ra sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa vô biên và con người hữu hạn, Thiên Chúa vô hình và con người hữu hình, Thiên Chúa hằng sống và con người phải chết. Mang lấy bản tính con người (tiểu vũ trụ), Đức Giê-su không chỉ cứu độ con người mà còn biến đổi những gì liên quan đến con người nơi toàn bộ công trình do tay Người tác tạo.
Trong hành trình loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đã gặp gỡ mọi người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội: Người gặp gỡ đám đông dân chúng, các kinh sư và những người Pha-ri-sêu, các vị lãnh đạo Do-thái cũng như những người thuộc các dân tộc khác. Đặc biệt, Người gặp gỡ những người bệnh tật, bị quỷ ám cũng như muôn hình thức đau khổ mà gia đình nhân loại phải gánh chịu. Người đến với những ai nghèo khó, buồn phiền, bị bỏ rơi trong xã hội. Sứ điệp trọng tâm của Người là mời gọi mọi người hoán cải và đón nhận Tin Mừng Nước Thiên Chúa mà Người loan báo và minh chứng bằng đời sống và hành động thấm đượm tinh thần hy sinh, bác ái. Đặc biệt, Người đã thiết lập Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, trên nền tảng các tông đồ để Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh gặp gỡ của Người cho đến tận thế.
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cho các môn đệ biết Người là Đường của Thiên Chúa giữa gia đình nhân loại để dẫn đưa mọi người về với Gia Đình Thiên Chúa. Đường Đức Giê-su là Đường Gặp Gỡ: Đường cho phép con người gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ nhau và gặp gỡ muôn vật muôn loài cách xứng hợp nhất. Do đó, mọi người được mời gọi đến với Đường Đức Giê-su, đi trên Đường Đức Giê-su và loan báo Đường Đức Giê-su cho anh chị em mình. Gặp gỡ Đức Giê-su giúp mọi người nhận thức sự cần thiết phải tuân giữ thánh ý Người và cộng tác với Người trong việc biến đổi bản thân hầu có thể trở nên khí cụ hữu hiệu của Người khi gặp gỡ anh chị em mình cũng như vạn vật. Ước gì lời dạy của thánh Phao-lô luôn vang vọng trong tâm trí của con cái gia đình nhân loại: “Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: Đó là một con người, Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người” (1 Tm 2,5-6).


































