Đôi khi, cuộc sống là một chuỗi của cô đơn tận cùng, khi lòng người thì vô hạn, nhưng trái tim lại hữu hạn.
Vậy nên, chúng ta luôn phải học cách rộng mở với đời nhưng lại e ấp khép chặt trái tim.
Cuộc sống ném vào đời những quy luật của thương yêu bất tận, nhưng lại nhỏ nhen khi tình yêu đã mang đến đủ nhiều giới hạn. Bởi mỗi chúng ta được sinh ra, đều được nhồi nặn sự ích kỷ hàn… chặt trong linh hồn.
Tạo hóa sinh ra con người phải biết đi trên đôi chân của mình, gượng dậy giữa những mặc cảm của nỗi đau chồng chất.
Đó đôi khi là một lợi thế, nhưng phần nhiều lại là yếu điểm.
Dần dà, con người ta phải học sống trong nỗi cô đơn, cái “cô đơn” ngấm ngầm trong máu thịt, và khép mình giữa những mạch cảm xúc đẩy đưa. Người quen thân đã ít, người xa ngày một nhiều, học cách đối mặt với nỗi cô đơn là điều hiển nhiên phải có. Mặc dù, những bài học cuộc sống vốn không hề giản đơn.
Ngồi một chỗ thì thời gian vẫn cứ trôi qua một cách lãnh cảm. Ấy vậy mà khi con người quá bận rộn với nhiều mục tiêu, tìm kiếm một phút đắm mình cho thời gian chảy dài như thế lại trở nên hiếm hoi vô cùng. Người có nhiều thời gian luôn nghĩ đến những việc muốn làm, người không có thời gian lại nghĩ về những việc không cần thiết phải làm.
Vì vậy, họ vô tình quên đi những điều giản dị hiển diện xung quanh, có khi chỉ là một nụ cười của người nào đó có ý nghĩa trong cuộc đời. Cuộc sống không bán vé quay lại, mất đi vĩnh viễn không thu hồi được. Thế thì, tại sao không thử “Yêu – Thương” ngay từ lúc này?
Con người ta cần phải nếm trải đủ nhiều nỗi đau thì mới ngấm được yêu thương là điều cần thiết. Cũng như việc đi qua những ngày mưa dầm dề, mới thấy được tình yêu nồng nàn dành cho những ngày nắng gắt. Rồi một lúc nào đó chúng ta cũng sẽ nhận ra rằng, có những người chỉ có thể ở trong trái tim mình, chứ không thể hiện diện trong cuộc sống của chúng ta.
Tình yêu thì ở trong tim, nó không phụ thuộc vào lời nói hay cách thể hiên bề ngoài. Chỉ cần trong thâm tâm chúng ta biết rằng, mình vẫn biết yêu thương, thế đã là quá đủ.
Đừng cố công làm màu mè lên những khái niệm giản đơn của cuộc sống, bởi những thứ xuất phát từ trái tim vốn dĩ rất mộc mạc.
Chẳng ai yêu lại không chút mong cầu, bánh xe dĩ vãng dù xa xôi vẫn mang nhiều trái đắng. Tô màu lên những ký ức là điều mỗi người vẫn thường làm khi có điều gì đó ở hiện tại đang vỡ tan. Chúng ta thường chìm đắm trong kỷ niệm để xoá nhoà những nỗi đau. Để rồi lại vô tình làm cho những thương tổn trở nên sâu hoắm. Người ta đặt tên cho tình yêu là định mệnh, và rồi lại đặt tên cho chia ly là bi kịch. Những tình yêu không trọn vẹn, luôn là những cuốn phim lãng mạn chất chứa nhiều nỗi đau.
Không phải cứ tạnh mưa thì cầu vồng sẽ xuất hiện.
Con người ta luôn mong chờ tương lai tốt đẹp vào những phút giây bất trắc của Tạo Hoá, nhưng hiển nhiên chẳng có ai nghĩ rằng, sẽ luôn có biến cố vào phút cuối của lối mòn. Nhưng mà, tự tạo nên một cầu vồng nho nhỏ cho riêng mình cũng chẳng phải là điều khó khăn.
Hãy cứ thử bắn nước tung toé vào ánh mặt trời, cầu vồng sẽ rực rỡ hiện lên mà thôi. Năng lực của con người vốn dĩ vô hạn, thế nên những gì số phận không thể mang đến cho mình, thì thôi hãy cố gắng tự mình tạo ra vậy.
Chúng ta lướt qua nhau như những vạt nắng, để rồi màn đêm sẽ kéo xuống đuổi nắng đi đâu mất.
Tình yêu vốn dĩ cần phải thủy chung, nhưng thỉnh thoảng lê la bên những vạt nắng cũng là điều dễ hiểu.
Trưởng thành có nghĩa là phải học cách cảm thông cho những lỗi lầm. Vậy mới có thể yêu nhau dài lâu, và thương nhau đậm sâu.
Yêu mà, chi li làm gì, chấp nhặt làm chi…
Ngửi thấy mùi cô đơn trên những chốn đi – về, lấy kỷ niệm lấp đầy những nỗi đau, ta đặt tên là “Nơi Bình Yên Trở Lại”.
Tại Giáo phận Bà Rịa, Nhà thờ Mồ được chọn làm nơi hành hương cho các tín hữu trong năm thánh. Nhà thờ Mồ nằm cách Nhà thờ Chánh Toà hiện nay khoảng 300m, trên khu đất trước đây là nghĩa trang giáo xứ. Dù chỉ là một ngôi nguyện đường khiêm tốn, nhưng đây chính là nơi cất giữ cả một ký ức hào hùng của cộng đoàn tín hữu Bà Rịa. Nơi đây ghi danh 288 vị anh hùng đức tin, và ghi dấu nhiều tín hữu vô danh khác, đã đổ máu đào làm nên lịch sử hào hùng cho mảnh đất Bà Rịa.
Chúng ta cùng lần giở lại những trang sử hào hùng cách đây gần 150 năm, để nhìn thấy dòng máu đỏ đã tuôn trào, làm nảy sinh và tăng trưởng bao thế hệ tín hữu. Năm 1861 – 1862 được ghi dấu là 2 năm lửa máu của Phước Tuy, tên gọi trước kia của Bà Rịa. Chính quyền thời đó ngờ vực người Công giáo theo Tây, cụ thể là các nhà sừa sai ngoại quốc cùng các binh sĩ Pháp và Tây Ban Nha, nên đã ra sức lùng bắt các tín hữu. Có khoảng 700 tín hữu đã bị bắt và giam vào 4 ngục thất: Ngục Chánh tại làng Phước Lễ, giam 300 nam tín hữu. Ngục thứ Hai cách ngục Phước Lễ khoảng hơn 3000 thước, dọc theo con đường Bà Rịa – Xuân Lộc. Nơi đây giam giữ 135 tín hữu. Ngục thứ Ba cách Phước Lễ độ hơn 5000 thước, trên đường hướng về Đất Đỏ, Long Điền. Có 140 tín hữu đã bị giam giữ tại đây. Ngục thứ Tư trong làng Phước Thọ, trung tâm Họ Đất Đỏ, là nơi giam giữ 125 nữ tín hữu và trẻ con.
Thế rồi ngày hạnh phúc của các tín hữu đã đến. Ngày 7 tháng Giêng dương lịch năm 1862, người Pháp dẫn binh chiếm Phước Tuy, chính quyền địa phương tưởng rằng họ tiến vào giải thoát các tín hữu nên đã phóng hỏa 4 ngục thất. Ngoài một số tín hữu thoát thân, có tất cả 444 vị đã bị chết trong cuộc thiêu sinh đó. Sau vài tháng tạm yên ổn, cuối năm 1862, một cuộc bắt bớ khác lại tái diễn ở vùng Gò Sầm, Đất Đỏ. Một cuộc lùng sục, truy đuổi các tín hữu lại diễn ra, chủ yếu vùng Đất Đỏ và Họ Thôm (Long Tâm). Lần bách hại này tuy ngắn ngủi nhưng cũng gần 200 tín hữu đã bị sát hại.
Tuy vậy, đúng như lời Chúa nói: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, nếu chết đi thì nó mới sinh được nhiều bông hạt khác. Các tín hữu đã nằm xuống vì đức tin, giọt máu của các ngài đã thấm vào mảnh đất Bà Rịa, làm đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái là bao thế hệ Kitô hữu. Đạo Công giáo dần dần phục hưng và phát triển trên mảnh đất Bà Rịa. Những năm sau đó, nhiều linh mục, trong đó có các Cha Cố người ngoại quốc, đã lần lượt đến để đồng hành, chăm sóc các tín hữu.
Đặc biệt, Họ Bà Rịa vinh dự được Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (sau này là Giám mục tiên khởi của Giáo hội Việt Nam) coi sóc từ năm 1917 đến 1926. Nhiều họ đạo đã được thiết lập, nhiều nhà thờ và các cơ sở tôn giáo như trường học, đất thánh, lầu chuông, phòng thuốc,…cũng dần xuất hiện. Các cử hành phụng vụ, các sinh hoạt giáo hội tại các họ đạo cũng ngày càng phát triển về quy mô và số lượng. Đặc biệt, ngày càng có nhiều anh chị em lương dân tìm đến với Giáo hội để được học giáo lý và lãnh nhận Bí tích Khai tâm Kitô giáo.