CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
HÃY THUẬT LẠI NHỮNG GÌ ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ NGHE – Chú giải của Fiches Dominicales 14
HÃY VUI LÊN(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 23
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG – A.. 34
ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ GẦN ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 34
CHỨNG TỪ CỦA CHÚA GIÊSU– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt 46
DUNG MẠO ĐỨC KITÔ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 60
THI HÀNH SỨ VỤ TIỀN SỨ NHƯ GIOAN TẨY GIẢ – Lm. Đan Vinh HHTM 66
NIỀM TIN ĐI VÀO CUỘC SỐNG – Lm. Đinh Viết Tiên OP.. 86
TRỌNG HƠN GIOAN TẨY GIẢ- Lm. Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh 90
CHÚA ĐÃ, ĐANG VÀ SẼ ĐẾN- Lm. Micae Võ Thành Nhân.. 101
NIỀM VUI TRONG MÙA VỌNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC 106
VỮNG TÂM- Lm. Trần Việt Hùng.. 110
NHẪN NẠI ĐÓN CHỜ CHÚA ĐẾN- Lm. GB. Hoàng văn Khanh.. 116
NGÀI LÀ AI?- Lm. Phaolô Nguyễn Văn Đông.. 122
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ chúng tôi”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng, và khen ngợi rằng: Ðã ban cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Carmel và Saron. Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa, và huy hoàng của Thiên Chúa chúng ta.
Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm cho tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Lạy Chúa, xin đến cứu độ chúng con (x. Is 35, 4).
Xướng: Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. – Ðáp.
Xướng: Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù; Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục. Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.
Xướng: Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.
Bài Ðọc II: Gc 5, 7-10
“Hãy vững lòng, vì Chúa gần đến”.
Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu. Vậy anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa. Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Is 61, 1 (x. Lc 4, 12)
Alleluia, alleluia! – Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 2-11
“Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: “Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?” Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Khi những người được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: “Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: “Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con”. Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông”.
Ðó là lời Chúa.
AI CAO TRỌNG HƠN ÔNG(*)- Chú giải của Noel Quession
Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm.
Trong diễn biến của Tin Mừng của ông, Matthêu bốn lần nói về Gioan Tẩy Giả… và luôn có liên quan với Đức Giêsu.
Mt 3,1-7 Gioan Tẩy Giả rao giảng “Nước Thiên Chúa” và làm phép rửa cho Đức Giêsu …
Mt 4,12 Việc bắt giữ Gioan Tẩy Giả, người định đoạt cho Đức Giêsu “khởi đầu”…
Mt 11,2-18 Gioan từ trong ngục, đặt những câu hỏi về Đức Giêsu và Đức Giêsu đặt những câu hỏi về Gioan cho đám đông. Đó là đoạn chúng ta đọc hôm nay:
Mt 14,1-13 Cái chết của Gioan, loan báo phần thứ hai của sứ vụ của Đức Kitô.
Ông liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
Chính với lòng nhiệt thành mà Gioan trông đợi Đấng Mêsia. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy sự sôi sục của quần chúng đã được khơi dậy do tiếng “kêu’ của ông, do “Tin Mừng” của ông: “Nước Trời đã gần kề!”.
Thế mà này đây là Gioan, bây giờ do dự, nao núng. Có lẽ ông ta sẽ không lầm lẫn chăng? Cái “hoài nghi” này có gây xúc động như thế ư? Và chúng ta cố đặt vào địa vị của Gioan. ông đang ở trong ngục, trong cái chiến lũy Macheronte, một cái pháo đài, khiếp đảm và kiên cố của Hêrôđê xây dựng chắc chắn vào một mỏm núi đá của hoang mạc Mô-áp, phía đông Biển Chết. ông ta có giờ để suy nghĩ. Đó là một tù nhân bị giam trong bốn bức tường. Đây là cái thử thách khủng khiếp nhất: “đức tin” bị nao núng… Một thứ tiếng kêu phá hoại khơi gợi ông ta: “tất cả chuyện gì anh tin cho tôi giờ, đều sai lầm cả… Giêsu của anh đâu phải Đấng Mêsia, ông ta không có khả năng giải thoát mi ra khỏi ngục.
Vâng, Gioan Tẩy Giả, vừa nghĩ đến những dòng dõi cứu thế thời mình, vữa chờ một Mêsia chiến chúng: một Đức Ki tô của dòng Đa-vít, Đấng được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng có lẽ giải phóng Do Thái khỏi tay quân thù… một Đức Kitô siêu việt, Con người mà Đanien loan báo, đến từ đám mây trời để phán xét tất cả những kẻ dữ của hơi thở từ miệng người”. Và dó chính lâ Mêsia mà Gioa đã loan báo những đám người ở hoang mạc: viên quan xét đã có sẵn chiếc rìu trong tay để chặt hết tất cả cây nào không sinh trái, người xay lúa cầm sẵn cái nia để rê trấu khỏi lúa mì.
Sự thất vọng? Đức Giêsu đang làm thất vọng. Thiên Chúa đang làm thất vọng.
Thiên Chúa cũng hay làm thất vọng chúng ta. Người không phải như chúng ta tưởng tượng. Thiên Chúa làm cho Người ta chưng bứng. Và như Gioan Tẩy Giả, chúng ta cứ tiếp tục mong ước rằng Thiên Chúa làm theo “ý muốn của chúng ta” và giống như hình ảnh mà chúng ta tạo ra về Người. Bạn hãy nói cho tôi biết tại sao Thiên Chúa lại để cho vị tiên báo của Người vào tù? Tại sao Thiên Chúa không bênh vực các bạn hữu của Người? Tại sao Thiên Chúa lại, không giải thoát cho không người bị tù tội vì Người? Tại sao dường như Thiên Chúa luôn luôn bị những kẻ thù của mình chiến thắng? Tại sao, Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Thiên Chúa lại bị Hêrôđê khóa miệng lại? Tại sao Lời Chúa lại “quá lặng lẽ thế?
Tại sao Chúa ơi, Chúa yên lặng, khi có biết bao người đang cáo giác người? Tại sao có biết bao điều xấu, biết bao đau khổ, biết bao chết chóc trong vạn vật thụ tạo? Lạy Chúa, hôm nay, xin Chúa trả lời cho chúng con hay Chúa có phải là Đấng đem đến cho chúng coi mềm vui, sự sống và hạnh phúc không hay chúng con lại phải đợi một người khác?
Chúng con có phải tiếp tục tin vào Chúa không, hay chúng con phải khước từ Chúa để chúng con hiến mình cho những người khác? Khủng hoảng đức tin. Những nhà lao tối tăm ở Macheronte. Đêm tăm tối của Gioan Tây Giả.
Đức Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.
Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi đặt ra. Người không nói “Tôi là Người phải đến”. Người không cho một giải pháp có sẵn. Người gợi cho người chất vấn phải tự mình tìm câu trả lời cho vấn đề mình đặt ra.
Đức Giêsu, Đấng Mêsia làm cho người ta chưng hửng, dẫn lại những đoạn Kinh Thánh, lấy trong ngôn sứ Isaia (Is 26,19; 29,18; 35,5; 61,1). Khi đắn đo kể những đoạn này, hơn là các đoạn khác, Đức Giêsu cho thấy Người đã chọn là “loại Mêsia nào”: Thiên Chúa Đấng đã sai Người đến không tỏ mình ra qua những cử chỉ của quan xét và của người hiếu thắng, nhưng bằng những cử chỉ tốt lành đối với những người thất thế và người đau khổ: mù lòa, què quặt, phong cùi, điếc lác… Và ý nghĩa sâu xa của hành động chữa lành này được thấy rõ trong hai việc lành sau cùng được nói lên: ‘cái chết’ bị đánh bại… người nghèo được rao giảng Tin Mừng… Đấy chính là niềm vui mới!
Những câu hỏi mà chúng ta đặt ra về Gioan Tẩy Giả, những hoài nghi mà chúng ta có về Chúa, thì bây giờ chính chúng tại đem ta trở lại với “chính ta”: bạn đã cáo giác Chúa, bạn làm gì trên thế gian này để giúp đỡ những người đau khổ, để giải phóng những người bị đè nén, để làm cho số phận của các anh chị em ta trở nên tốt hơn?
Dấu hiệu đích thực là Thiên Chúa ở đó, và Nước Người đã bắt đầu, chính khi có tình yêu! Chúng ta ‘không phải đợi một ai khác nữa’.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho Gioan Tẩy Giả phải trở nên một câu hỏi khẩn thiết đối với mỗi Ki tô hữu, và đối với Giáo Hội nói chung: Giáo Hội hôm nay, Người có là cộng đoàn tình yêu của Đức Giêsu và của “Tin Mừng của Người cho người nghèo không hay chúng tôi phải chờ đợi một Giáo Hội khác nữa? Và bạn, bạn có tự hiến thân cho những người thấy bạn sống những dấu chỉ của Đức Giêsu không? Đón tiếp, ủi an, cứu vớt, yêu thương.
Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi
Bản văn Hy Lạp nói ở đây: “Phúc cho ai không bị làm gương mù vì tôi”. Tiếng “skandalon” là hình ảnh gợi ra viên đá trên đường mà người nào cũng dẵm lên. Đức Giêsu, nhờ những dấu chỉ bất ngờ Người đưa ra, có thể trở nên một cơ hội “vấp ngã” đối với chính Gioan Tẩy Giả. Điều nghịch lý. Người rao giảng, hôm Chúa nhật trước, đã mời các đám đông người sám hối ở trên bờ sông Giođan, bây giờ được mời để tự Sám hối. Vâng, Gioan Tẩy Gỉa được mời đi tới một đức tin sâu xa hơn. Vị tiền hô được mời để tin vào Thiên Chúa, ngay trong cảnh tù đầy, bằng cách chấp nhận như một lối thoát khỏi cảnh tù đày này mà không phải là sự cứu thoát bởi một Thiên Chúa toàn năng… những cái chết của mình, hiệp thông với cái chết, chẳng bao lâu nữa, của Đấng Mêsia trên thập giá. Lòng tin của chúng ta cũng thế, không phải là một “sự vật” chiếm hữu lấy một lần thay cho tất cả. Thật là tốt cho chúng ta biết mấy khi thấy một người khổ tu, một vị thánh, “ngôn sứ vĩ đại nhất”… được mời để làm cho đức tin lớn lên, được mời để không bị “vấp phạm” vì Đức Giêsu.
Họ đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.
Đức Giêsu bây giờ khen ngợi Gioan Tẩy Giả.
“Giêsu, ông là ai? Đức Giêsu hỏi đám đông. Đám đông không trả lời chi cả. Yên lặng. Dẫu vậy câu hỏi của Đức Giêsu trở nên sống động, tiến lên từng nấc, nhắc lại ba lần: một cây sậy? một ông hoàng? một ngôn sứ? A không! Người không phải là cây sậy bị cơn gió nào cũng làm lung lay, người đàn ông chốn hoang địa này đáng phải vào tù vì thái độ cương nghị của ông: đó là một người can đảm (Gr 1,10-17). A, không, ông không phải là người tinh tế, có khả năng sống trong sự dễ dãi, người đàn ông này mặc áo da súc vật như Êlia (2 V 1,8). Đức Giêsu nói: Đó là một ngôn sứ, và còn hơn là một ngôn sứ.
Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến
Như trong phần thứ nhất, để xác định căn tính của Đấng Mêsia ở đây Đức Giêsu dẫn một lời Kinh Thánh để xác định căn tính của Gioan. Và đó là đoạn sách Malakhi (3,1). Nhưng Đức Giêsu đã sửa nguyên văn của Cựu ước, và điều này rất có ý nghĩa Malakhi đã viết: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta”. Trong đoạn này chỉ có hai nhân vật: Thiên Chúa và sứ giả của Người.
Đức Giêsu -khi giải thích đoạn trích dẫn, đặt vấn đề ba nhân vật: Thiên Chúa, sứ giả đi dọn đường, và Đấng sẽ đến”; tức là Đấng mà Thiên Chúa xưng là cha con: “trước mặt Con!”. Khi Đức Giêsu dẫn Kinh Thánh, người cho mình như Đấng Mêsia đã được loan báo. Và vì thế, Người đi dọn chỗ dùng kỹ xảo với nguyên bản: Malakhi tập trung vào người sứ giả Đức Kitô chú trọng đến “Đấng chuẩn bị sứ giả”. Như thế bằng cách bày tỏ cho đám đông hiểu căn tính sâu xa của Gioan Tẩy Giả, thì Đức Giêsu còn tỏ cả căn tính của mình.
Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
Chúng ta lặn ngụp, một lần nữa, vào trong ý thứ mà Đức Giêsu có về bản thể sâu xa, và vai trò của Người trong lịch sử Đức Giêsu có ý thức khơi động một thay đổi lịch sử thật sự. Có “trước” người và “sau’ người. Lịch sử thế giới đang ở một bước ngoặt. Nếu Đức Giêsu Nagiarét này chỉ là một anh dân làng nhỏ bé kiêu kỳ, thì cuộc phiêu lưu của Người sẽ không kéo dài. Điều đó có lẽ không đúng, nhưng cuộc phiêu lưu lại kéo dài liên miên. Đức Giêsu đã dứt khoát và thực sự chia cắt lịch sử làm hai. Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với Người. Và Đức Giêsu có thể nói thực sự rằng con người thánh thiện nhất, vĩ đại nhất của Cựu ước, còn là người bé nhỏ hơn người Kitô hữu hèn mọn nhất của kỷ nguyên mới bắt đầu… Một cách nghịch lý chúng ta đi vào thời đại của “những người bé mọn”: tự khi Thiên Chúa nhập thể làm “đầy tớ”, thì sự vĩ đại quyền lực, chính là trở nên “bé mọn”. Trong khi chịu thử thách, Gioan đã học được điều đó.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG – C
HÃY THUẬT LẠI NHỮNG GÌ ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ NGHE – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1/. Vào một khúc quanh quyết định, một cuộc đối thoại kỳ lạ:
Phúc âm Chúa nhặt vừa qua trích dẫn thời gian đầu của sứ vụ của Gioan Tiền Hô, chương thứ bốn Phúc âm thánh Matthêu. Ông loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần. Đấng đến sau tôi thì quyển thế hơn tôi. Đốt giai đoạn, sách bài đọc hôm nay đưa chúng ta đến chương thứ 11 của thánh Matthêu, nơi diễn ra cuộc đối thoại kỳ lạ giữa vị tiên tri vùng hoang địa và Đức Giêsu. -Thực ra Gioan đang ở trong tù (xem 4,12). Trong khi chờ đợi trả giá sự can đảm bằng chính mạng sống mình, ông đành mất tự do vì đã tố cáo phẩm hạnh xấu của Hêrôđê Antipas, con của Hêrôđê Cả (ông ta sống với nàng Hêrôđiađê, là vợ của Philipphe, anh ông ta: 14,4-5). Về phương diện thể xác, ông từ từ tự xoá mình đi trước Đấng mà ông đã nhận lãnh sứ mạng loan báo đang đến. Còn Đức Giêsu, sau nhiệt tình ban đầu của cuộc đời công khai, Ngài đã có kinh nghiệm đau đớn về tính hay thay đổi của những đám đông xứ Galilê. Lời giảng dạy của Ngài, thôi thúc thính giả phải chọn lựa, phải quyết định, đã gây chia rẽ về con người của Ngài. “những công trình” của Ngài không phải là những việc mà cách chung người ta chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế! Và sự đối lập căng thẳng sẽ buộc Ngài phải khôn ngoan rút lui. Chính ở khúc ngoặt quyết định này, đối với Đức Giêsu, cũng như với Gioan Tiền Hô, mà tác giả Phúc âm đã đặt cuộc đối thoại kỳ lạ, qua trung gian những người được sai đến.
2/. Câu hỏi của một tiên tri bị hoang mang:
Như chúng ta thấy trong Chúa nhật vừa qua, Gioan Tiền Hô không ngừng loan báo việc Đấng Cứu Thế sẽ đến, “sức mạnh của Ngài giáng xuống” như sấm sét. Nhưng thái độ của Đức Giêsu rất không phù hợp với những lời khuyên bảo nghiêm khắc của ông. Không hề có ý định tiêu diệt những người tội lỗi, Ngài đi từ làng này sang làng khác, mở rộng đôi tay đón nhận tất cả những cảnh khốn khổ cùng quẫn của con người, chữa lành bệnh nhân (8 và 9), tha thứ tội lỗi (9,l-8), kêu gọi một người thu thuế bước theo Ngài (9,9), đồng bàn với những người tội lỗi (9,10). Khác xa với vị quan toà đáng sợ mà Gioan đã loan báo, Đức Giêsu xuất hiện như người tôi tớ kín đáo, người ta không nghe tiếng Ngài trên quảng trường, Ngài không bẻ gãy cây sậy bị giập nát và không làm tắt tim đèn còn bốc khói (12,19-20). Ở đây Gioan đối đầu với cớ vấp phạm (scadale), nghĩa là đối đầu với một chướng ngại có nguy cơ làm ông sụp ngả. Một Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, khiêm nhường và đau khổ, khác xa với Đấng mà ông đã loan báo. Đó là thử thách đức tin của ông: đang chờ đợi một sự biểu lộ công bình, thì ông lại gặp lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế, từ trong tù ngục Machéronte, từ đáy sâu suy tư mà hoàn cảnh đã nhận chìm ông vào, Gioan, vị tiên tri bị hoang mang, đã sai các môn đệ đến đặt cho Đức Giêsu câu hỏi từ lâu thiêu đốt tâm hồn và môi miệng ông: ông có phải là Đấng phải đến (một sự chỉ định Kitô-giáo về Đấng Cứu Thế, lấy từ Thánh vịnh 118,26), hay chúng tôi còn phải chờ đợi “một Đấng khác?”
3/. Câu trả lời của một Đấng Cứu Thế gây hoang mang.
Đức Giêsu trả lời trong hai hồi. Trước hết là nói với chính Gioan. Sau đó, là nói về Gioan. Trong hồi thứ nhất, Đức Giêsu gởi gắm một sứ điệp cho những người được Gioan phái đến: “Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được loan báo Tin mừng. Một sứ điệp diễn tả những hoạt động từ thiện của Đức Giêsu ưu ái dành cho đám đông. Một sứ điệp thực sự đưa Gioan Tiền Hô về lại với những lời loan báo tiên tri của sách Isaia; đặc biệt là Is.35 của bài đọc thứ nhất Chúa nhật hôm nay: “Bấy giờ “mắt người mù sẽ mở ra và tai người điếc…, và Is.61: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi Ngài sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó”. Như A.Marchadour giải thích điều đó rõ ràng trong một tác phẩm mới xuất bản: “Trong kinh nghiệm của dân Israel, phép lạ được định vị chủ yếu trong thời gian cuộc Xuất Hành… Dân Israel hy vọng rằng, những dấu lạ này sẽ lại đến trong thời gian sau hết, khi Thiên Chúa còn gần gũi với dân Ngài và sẽ bày tỏ điều đó ra bằng những dấu chỉ: “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra, và tai người điếc sẽ nghe được. Bấy giờ người què sẽ nhảy lên như nai, và lưỡi người câm sẽ kêu lên vui mừng! Bởi vì, nước sẽ chảy vọt ra trong hoang địa và thác sẽ trào dâng trong thảo nguyên (Is 35,5-6). Đó là điều mà Đức Giêsu và Giáo Hội kế tiếp Ngài sẽ hiểu (xem 7,18,23). Chỗ đứng quan trọng của các phép lạ thời Đức Giêsu (và cũng một phần trong thời Giáo Hội sơ khai) là sự hoàn thành của thời gian sau hết (Les Evangiles au feu de la critique”, Bayard Editions, Centurion 1995, trang 120-121).
Như vậy thời gian viên mãn đã đến; Đấng Cứu Thế được mong đợi đã đến. Nhưng còn phải phân định những dấu chỉ của sự hiện diện của vương quốc, và, như vậy là, như J.Radermarkers dã viết: chấp nhận được kể vào số những người mù được nhìn thấy, người câm điếc được nghe, người nghèo được Phúc âm hoá (‘Au fil de l’évangile selon saint Mathieu’ trang 154). Sau cùng, Đức Giêsu nói với Gioan: “Phúc cho ai không vấp phạm vì Ta. Nói khác đi, phúc cho ai sẽ vượt qua chướng ngại, sẽ phá vỡ cạm bẫy được giương ra, sẽ không vấp ngã? Ngoài Gioan, một thứ phúc thật có thể được áp dụng cho tất cả các tín hữu, cho mỗi người chúng ta.
– Sau khi các sứ giả trở về trại giam (pháo đài) Machéronte, sang hồi thứ hai, Đức Giêsu, đối chiếu sứ vụ của Gioan với sự vụ của mình, đã khen ngợi Gioan Tẩy giả. Nếu những nhân chứng tuốn về phía con người của sa mạc.
+ Không phải là đến để xem “cây sậy phất phơ trước gió” trên bờ sông Giođan, một con người nhu nhược ngả nghiêng trước gió: can đảm trong việc giảng thuyết, Gioan đã tỏ ra không nao núng trong nghịch cảnh và cơn bách hại.
+ Cũng không phải là để đi xem. “một người mặc y phục sang trọng”, một nhân vật trần thế: nhà khổ hạnh của sa mạc mặc y phục của tiên tri Êlia, vị tiên tri được mong đợi trong thời sau hết, kẻ phải đến trước Đấng Cứu Thế;
+ Chính là để đi đến với “một vị tiên tri”, và Đức Giêsu khẳng định: “còn hơn một vị tiên tri nữa”: ông là “vị sứ giả” cuối cùng, được tiên tri Malachia loan báo (3,1), “kẻ dọn đường”, Đấng tiền hô. Theo nghĩa đó, ông là vi tiên tri lớn nhất trong các tiên tri, bởi vì ở nơi ông, tất cả sự trông đợi được diễn tả qua truyền thống các tiên tri đã đạt đến đích điểm: Đức Giêsu long trọng tuyên bố: “Giữa con cái loài người, không ai lớn hơn Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, ngay lập tức Ngài nói thêm một cách ngược đời: “người nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn ông ta”. Cl. Tassin diễn giải: “Theo lịch sử nhân loại, không có ai lớn hơn ông. Thế nhưng, người bé nhỏ nhất, trong các Kitô hữu lại vượt qua ông trong phẩm cách, với tư cách là thành viên của một vương quốc đảo ngược những tiêu chuẩn nhân loại và ưu đãi những người bé mọn” (“L’evangile de Matthieu, Centurion, trang l22).
BÀI ĐỌC THÊM
1/.”Những dấu chỉ của sự hiện diện nước Thiên Chúa không có ly kỳ”
Người ta chờ đợi một người làm sáng tỏ công lý không biết thương xót và ở đây lại là một vị chuyên chữa thân xác, một lương y của các tâm hồn. Người ta đã loan báo sự báo oán của Thiên Chúa, thế mà ở đây lại là lòng thương xót được trao ban với sự dịu hiền và khiêm nhường. Một nhà giải phóng kỳ lạ và rất khác biệt với dung mạo được tiên báo!… “ông có phải là Đấng phải đến hay là chúng tôi còn phải đợi một người khác. Đấng tiền hô sẽ thoả mãn với những dấu chỉ và bằng chứng. Thế nhưng ở đây, không phải là vinh quang rực rỡ, cũng không phải là sự báo oán thẳng tay. Cũng không là một lời giải đáp cho những hy vọng chính trị, tôn giáo, ái quốc của một số đông. Đấng Cứu Thế đang ở đó sự giải phóng đã bắt đầu. Nước Thiên Chúa đã khai mào. Một cách khác. Bất thình lình. Không ngờ. Đức Kitô thực sự không đáp ứng dễ dàng những tiêu chuẩn tự nhiên, những cái nhìn quá chật hẹp và quá khô cứng bởi những lợi lộc vật chất trần tục của chúng ta. Nếu Gioan đã có thể hồ nghi, điều này cũng dễ hiểu, thì những người khác đã hiểu ngay tức khắc, dù Thiên Chúa thinh lặng: những người được chữa lành, những người được thanh tẩy, những người được biến đổi và đám đông những người nghèo hèn này sau cùng được nhìn với sự yêu thương, được xem như là những con người được hoàn toàn ưu ái, con cái của vương quốc, những người thừa kế thực sự. Có thể là họ không biết tất cả những sắc thái của các lời tiên tri, không biết đến cả ngàn thứ quy định của Lề Luật, dù là thuộc về giáo thuyết phụng vụ hay luân lý. Họ không có kiến thức khoa học, không quyền bính, không tiền bạc và không cả sự kính trọng. Phúc cho “những con người bé nhỏ này”, nghèo túng rất nhiều thứ, nhưng lại giàu sự hiểu biết của con tim. Họ hiểu biết mà không xét nét, và đã trở nên bằng chứng sống động của sự thâm nhập của một thế giới khác. Những nhân chứng đầu tiên còn lớn hơn cả Đấng tiền hô nữa.
Những dấu chỉ sự hiện diện của Nước Thiên Chúa và của Đấng Cứu Tinh không cố gì là ly kỳ cả. Trái lại, kín đáo và ẩn giấu trong khối bột của đời sống thường ngày, chúng dễ dàng lướt qua, không ai để ý. Những bằng chứng về tính đích thực không bị đông cứng lại trong những tuyên bố những nguyên tắc, những đe doạ và những vạ tuyệt thông ầm ĩ, cũng không có trong sự rõ ràng của những tín điều được công bố. Chính Đức Giêsu từ chối trả lời cho đấng tiền hô qua việc giới thiệu những danh hiệu của Ngài, cho những thái độ khiêu khích gây kinh ngạc, đụng chạm và chia rẽ của Ngài. Những bằng chứng ư? Những cử chỉ yêu thương và tha thứ, bằng chứng của một tinh thần rộng mở và luôn luôn niềm nở, một trái tim không biên giới, một sự hoàn toàn kính trọng tất cả mọi người, một sự say mê chân lý và công bình, một sự trung thành không ngừng bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa và của con người. Thiên Chúa và con người không thể tách rời nhau.
2/. “Mở mắt mở tai… tâm hồn”
Tìm kiếm sự phi thường, kỳ diệu luôn luôn là một cám dỗ; còn tế nhị hơn nữa, tìm kiếm sự thành công, sự kính trọng, lòng khao khát lôi cuốn sự chú ý, thủ đắc uy tín xã hội cho chúng ta hay cho Giáo Hội. Chúng ta muốn gây một ấn tượng tốt, nếu có thể gây nên cảm giác, muốn giới thiệu nhưng dấu chỉ như là những thư giới thiệu. Thế nhưng, những dấu chỉ đích thực của Đấng Thiên Sai lại chiếu cố đến những người bé mọn, những người bệnh tật, nhưng người nghèo. Vì thế, dấu chỉ của ơn cứu độ thường được giấu kín, không hiểu thấu được. Để có thể thấy được, phải tìm kiếm, phải chú ý, lắng nghe và nhìn xem: “Hãy đi báo cho Gioan những gì các ông nghe và thấy”. Đang ở trong tù, Gioan vẫn theo dõi những gì người ta nói về Đức Giêsu: ông sai các môn đệ đến với Đức Giêsu để phỏng vấn Ngài: Cũng phải mở rộng con tim để hiểu: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”. Chính những dấu chỉ phải đương đầu với sự mâu thuẫn. Quả thật người ta có thể bỏ qua, quả thật người ta có thể thấy chúng “không có gì đáng kể”, hay người ta có thể lầm lạc khi tìm kiếm những việc phi thường. Để nhận ra Đức Kitô, phải mở mắt, mở tai… và mở con tim nữa.
3/. “Phép lạ, dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người”
“Không được cô lập phép lạ ra khỏi toàn bộ Phúc âm. Đó là phần chính yếu của sứ mạng Đức Giêsu. Có nghĩa là, ơn cứu độ do Đức Giêsu đem đến không phải chỉ là Tin Mừng suông, một sự hiểu biết giúp thoát khỏi sự tối tăm ngu dốt, và chuyền thông một kiến thức mới về Thiên Chúa; nhưng đó cũng là một sự giải phóng thân xác, một sự khôi phục toàn diện cho những người què quặt cho những người sống bên lề, cho những người bị đánh mất chính mình (bị ám ảnh bởi một người khác), cho những ngườibị loại trừ ra khỏi xã hội. Phép lạ tượng trưng cho một chương trình cứu độ, chịu trách nhiệm về những thực tại thân xác, vật lý, thiêng liêng và xã hội của con người. Phép lạ luôn luôn xuất hiện như một sự phản kháng, chống lại một trạng thái nào đó của những sự vật một sự từ chối chống lại tai ương, dù là sinh vật học, thiên nhiên hay xã hội. Người có ơn đoàn sủng là người vượt qua những ranh giới và giúp cho người khác vượt qua những ranh giới đó. Có thể chúng ta chạm ngón tay vào một nét lớn của phép lạ, là phải nắm giừ lại khi chúng ta tự hỏi về tính thời sự của phép lạ. Ngày nay, chúng ta ít thấy những phép lạ thuộc loại sinh vật học; tuy nhiên, phải tự hỏi về những vươn lên, những vượt qua các giới hạn mà chúng ta được mời gọi. Phép lạ giả thuyết hai người nghèo túng: người thứ nhất là Đức Giêsu, “Ngài là Đấng vốn giàu có đã tự trở nên nghèo hèn vì anh em” (2Cr 8,9). Người thứ hai là người đón nhận dấu chỉ của Đức Giêsu, là người khốn quẫn đến nỗi đã để cho sức mạnh của Đức Giêsu hành động trên chính mình và qua chính mình”.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- A
HÃY VUI LÊN(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Hằng năm vào Chúa Nhật III Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi người Ki tô hữu hãy vui lên vì đại lễ Giáng Sinh sắp đến gần rồi.
Is 35: 1-10
Bài đọc I, trích sách I-sai-a, mô tả trước niềm hân hoan mà những tù nhân Ba-by-lon cảm thấy giờ giải thoát của họ sắp đến. Cùng chung niềm vui với họ, thiên nhiên và sa mạc, nơi bước chân của họ đi qua, sẽ tưng bừng nở hoa.
Gc 5: 7-10
Trong Thư gởi cho các tín hữu đang phải chịu những thử thách trăm chiều, thánh Gia-cô-bê khuyên họ hãy kiên nhẫn, thậm chí hãy vui lên, “vì Chúa sắp đến rồi”.
Mt 11: 2-11
Tin Mừng thuật lại việc Gioan Tẩy Giả trong cảnh tù ngục đã sai các môn đệ của mình đến hỏi Chúa Giê-su có phải là Đấng Mê-si-a hay không. Chúa Giê-su đáp lại bằng cách nhấn mạnh rằng Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo hèn và bất hạnh: người mù được thấy, người điếc được nghe, người phong hủi được chữa lành. Chúa Giê-su khai mạc triều đại tình yêu và tha thứ.
BÀI ĐỌC I (Is 35: 1-10)
Như chúng ta đã biết, tác phẩm I-sai-a không là tác phẩm của một tác giả, nhưng công trình sưu tập ba tác phẩm của ba tác giả thuộc ba thời kỳ khác nhau: trước hết, tác phẩm thứ nhất, từ chương 1 đến chương 39, là tác phẩm của chính vị ngôn sứ I-sai-a, vị ngôn sứ tiền lưu đày vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên; tiếp đó, tác phẩm thứ hai, từ chương 40 đến chương 55, là tác phẩm của một vị ngôn sứ thời lưu đày, biệt danh là ngôn sứ I-sai đệ nhị; sau cùng, tác phẩm thứ ba, từ chương 56 đến chương 66, là tác phẩm của vị ngôn sứ hậu lưu đày, biệt danh ngôn sứ I-sai-a đệ tam.
Tuy nhiên, chương 35 thì ngoại lệ: chương này có thời biểu muộn thời hơn và qua chủ đề và cung giọng của nó gần với tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hơn, vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, ông an ủi đồng bào của ông và báo trước cho họ biết cuộc giải phóng gần kề (giữa năm 550 và 540 trước Công Nguyên). Chính xác đây là chủ đề của đoạn văn mà Phụng Vụ Chúa Nhật III Mùa Vọng mời gọi chúng ta suy gẫm hôm nay. Bị giam cầm gần một nữa thế kỷ đã qua ở Ba-by-lon, những người lưu đày cứ ngở rằng mình sẽ gởi nấm xương tàn ở đất khách quê người. Ấy vậy, vị ngôn sứ loan tin rằng Đức Chúa sắp giải thoát họ và dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.
1/. Những viễn cảnh diệu kỳ:
Để từ Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem, những người lưu đày sẽ phải băng qua sa mạc Sy-ri. Đức Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu thuận tiện cho cuộc xuất hành mới này, vì “sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội”. Qua bài thi ca, theo văn phong phóng dụ, đầy những hình ảnh thi vị, vị ngôn sứ mô tả sa mạc không còn là vùng đất hoang vu khô cằn nắng cháy, nhưng tưng bừng nở hoa, rợp bóng mát của những cây cối tốt tươi như rừng Li-băng, và phản chiếu vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron (đồng bằng Pa-lét-tin vốn nổi tiếng là phì nhiêu và nhiều hoa hồng tuyệt đẹp). Cuộc hồi hương trở về Thành Thánh quá phấn khởi đến mức người mù sẽ thấy được, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ kêu lên trong niềm vui vỡ òa.
2/. Dấu chỉ của việc Thiên Chúa thứ tha:
Trước tiên, chúng ta nhận ra chủ đề Kinh Thánh về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh con người. Mặt đất liên kết mình với niềm hoan hĩ của đoàn người hồi hương. Ngoài ra, những tật nguyền thể lý sẽ biến mất. Chúng ta biết rằng vào thời xa xưa này – thậm chí vào thời Chúa Giê-su (Ga 9: 1-3) – những tật nguyền thể lý được xem như những án phạt của tội lỗi. Nếu những người mù thấy lại ánh sáng, người điếc nghe được tiếng cười vui và người què nhảy nhót như nai, chắc chắn đây là cách diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày gặp lại quê cha đất tổ của mình, nhưng nguyên do còn sâu xa hơn: những tội lỗi của dân đã được Thiên Chúa tha thứ.
Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương: “Chính Người sẽ đến cứu chuộc anh em”. Ngài sẽ cứu chuộc dân Ngài như một người thân chuộc lại bà con họ hàng của mình lâm vào cảnh đời nô lệ vì nợ nần và đưa họ trở lại gia tộc của mình. Theo tập tục vào thời đó, ai không thể trả nợ bị người chủ nợ bắt làm nô lệ. Người thân gần nhất đứng ra chuộc lại mà ngôn ngữ Hy bá gọi là “goèl”. Chính người này cũng đảm nhận trách nhiệm báo thù cho những oan ức mà người ấy phải chịu.
Bản văn này minh họa một khái niệm căn bản của Cựu Ước: mối liên hệ giữa ý tưởng Tạo Dựng và ý tưởng Cứu Chuộc. Chính vì Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo nên Ngài cũng là Đấng Cứu Chuộc, vì sự tha thứ tội lỗi là một công trình sáng tạo mới. Ở đây, trong đoạn văn này, mối liên hệ này rất minh nhiên. Thiên Chúa sáng tạo khi biến đổi sa mạc, Thiên Chúa sáng tạo khi phục hồi những kẻ tật nguyền. Chính sự tha thứ của Ngài là nguồn mạch của cuộc sáng tạo mới này, sự tha thứ của Ngài hoàn lại sự sống.
Cảnh tù đày ở Ba-by-lon (như cảnh đời nô lệ ở bên Ai-cập) là hình ảnh về cảnh đời nô lệ của tội lỗi. Cuộc giải phóng mà vị ngôn sứ loan báo tiên trưng cuộc giải phóng triệt để hơn, vĩnh viễn hơn, đó là cuộc giải phóng mà Đức Ki-tô mang đến, “việc chuộc lại” này mà chúng ta gọi “Ơn Cứu Chuộc”, không có nghĩa gì khác hơn là “tái tạo chúng ta”. Vào những ngày gần đến lễ Giáng Sinh, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên qua nhiều thế kỷ: “Thiên Chúa đích thân ngự đến và sắp cứu chuộc chúng ta”.
BÀI ĐỌC II (Gc 5: 7-10)
Thánh Gia-cô-bê mời gọi các tín hữu hãy kiên nhẫn. Bản văn này có chủ ý đặt vào giữa hai thời điểm: những người lưu đày nóng lòng được trở về quê cha đất tổ (bài đọc I) và Gioan Tẩy Giả) mong chờ Đấng Mê-si-a sớm thực hiện sứ mạng “thưởng công phạt tội” của Ngài (đoạn Tin Mừng hôm nay).
1/. Tác giả và tác phẩm:
Bức thư này được gán cho thánh Gia-cô-bê, anh em họ của Chúa Giê-su, vị lãnh tụ cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi, bị ném đá chết vào năm 62 sau Công Nguyên do sự xúi dục của vị thượng tế thời đó. Vì thế, thánh nhân không là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, hai con của ông An-phê, được phúc tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại ngay từ đầu thư, thánh nhân tự giới thiệu mình không là Tông Đồ mà là: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô”. Để phân biệt hai vị thánh trùng tên này, người ta gọi thánh Gia-cô-bê Tông Đồ là thánh Gia-cô-bê Tiền và thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giê-su, là thánh Gia-cô-bê Hậu. Chính thánh Gia-cô-bê Hậu này mà, theo thánh Phao-lô, Chúa Giê-su hiện ra sau khi Ngài sống lại (1Cr 15: 6-7).
Thư này được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, phân tán khắp thế giới La-Hy. Sống ở giữa những anh em Do thái vẫn một mực trung thành lề luật Mô-sê. Những người Ki tô hữu gốc Do thái này gặp phải biết bao khó khăn trong việc thực hành đức tin của mình và là đối tượng của những quấy nhiễu. Vì thế, ngay từ đầu thư thánh Gia-cô-bê an ủi họ:“Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1: 2-4).
2/. Vị Thẩm Phán đang đứng ở ngoài cửa:
Đoạn trích Thư chúng ta đọc hôm nay thuộc vào những lời khuyên bảo sau cùng của thánh nhân: thực hành đức kiên nhẫn trong thinh lặng, đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, ngay cả những người bách hại mình; có như vậy, anh em mới “khỏi bị xét xử”, hàm ý quy chiếu đến lời của Chúa Giê-su: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6: 37). Lý do được nêu lên: “Vì Chúa sắp đến gần rồi”. Thế hệ Ki tô hữu đầu tiên đã sống trong niềm hy vọng này: “Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa”. Vào thời xưa, người ta xử án ở ngoài cổng thành. Ở đây, thánh Gia-cô-bê chuyển dời hình ảnh này sang lãnh vực tinh thần và muốn nói rằng vị Thẩm Phán đang đứng ngoài ngưỡng cửa nhà chúng ta, Ngài sẵn sàng bước vào (x. Mt 24: 33; Mc 13: 29). Thậm chí sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh này, nhưng không còn trong viễn cảnh của ngày chung thẩm, mà là trong viễn cảnh của mối thân tình: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3: 20). Chúng ta có thể nói thêm mà không sợ ngược lại tư tưởng của tác giả: “Hãy kiên nhẫn, vì anh em không biết ngày nào giờ nào”. Chữ “kiên nhẫn”, theo nghĩa mạnh của từ, có nghĩa là biết chịu đựng những gian khổ như các ngôn sứ đã từng chịu.
3/. Noi gương các ngôn sứ:
“Về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ, là những vị đã nói nhân danh Chúa”. Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ I-sai-a bị xử tử, ngôn sứ Mi-kha bị lăng nhục, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua A-kháp và vua Giô-a-kim, và cũng có thể dưới triều đại vua Ma-na-sê vô đạo. Lời khóc thương thành Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su chứng thực sự kiện này: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được được sai đến cùng ngươi!” (Lc 13: 34). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc sau cùng kết thúc với việc nêu lên những bách hại mà các ngôn sứ phải chịu:“Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa…Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế”(Mt 5: 11-12).
Rõ ràng thánh Gia-cô-bê thấm nhuần giáo huấn của các Mối Phúc Thật. Phúc thay những người nghèo và những người bị bách hại, được lập đi lập lại trong Thư của thánh nhân như một điệp khúc. Việc thánh nhân ám chỉ đến số phận của các ngôn sứ, dù rất ngắn, dẫn đưa chúng ta vào bản văn Tin Mừng: thánh Gioan Tẩy Giả bị tống giam vào ngục.
TIN MỪNG (Mt 11: 2-11)
Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị Hê-rô-đê An-ti-pát tống giam vào ngục. Vị tiểu vương cai trị miền Ga-li-lê này là một trong những con của vua Hê-rô-đê Cả. Vị Tiền Hô đã cực lực tố cáo nhân vật quyền cao chức trọng này mà không một chút e dè sợ hãi, vì vị tiểu vương này đã muốn lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh mình là tiểu vương Phi-líp-phê. Như vậy, thánh nhân đã chịu bạo lực như Chúa Giê-su đã loan báo cho các môn đệ Ngài (10: 16-25).
Trong tù, thánh Gioan nghe nói về những việc Chúa Giê-su làm và ông đâm lòng ngờ vực. Chính thánh Gioan đã loan báo rằng thời Chúa Giê-su, thời xét xử đã đến, lúa tốt thì thu vào kho lẫm, còn lúa xấu thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt. Ấy vậy, Chúa Giê-su công bố rằng mùa thu hoạch, nghĩa là ngày Thiên Chúa thưởng công báo oán, chưa đến.
1/. Câu hỏi của thánh Gioan Tẩy Giả:
Thánh Gioan là một người rất nhạy bén trước tội lỗi, ông không thể chịu đựng tội lỗi, ông đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, bất chấp hậu quả mà mình phải gánh chịu. Ấy vậy, ông nghe tường thuật rằng Đức Giê-su giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà của họ, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Vì thế, thánh nhân sai các môn đệ của mình đến hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.
2/. Câu trả lời của Chúa Giê-su:
Chúa Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn I-sai-a đều có hậu cảnh Mê-si-a: trước hết, Is 29: 17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; tiếp đó, Is 26: 19: người chết sống lại; sau cùng, Is 61: 1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Câu trích dẫn sau cùng là rõ ràng nhất, vì được đặt lại vào trong mạch văn của nó, đoạn văn này hình thành nên một sứ điệp mà Chúa Giê-su nhắn gởi cho thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật, lời loan báo đầy đủ của I-sai-a như sau: “Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn”. Vì thế, Chúa Giê-su đồng hóa mình với Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, tức Đấng Mê-si-a. Còn đối với lời loan báo của I-sai-a tiếp theo sau: “băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân”, Chúa Giê-su có chủ ý không trích dẫn. Việc bỏ rơi này cũng có ý nghĩa. Gioan Tẩy Giả không thể không hiểu: thánh nhân phải đảm nhận sự thử thách của mình.
Những ám chỉ Kinh Thánh này nhắc nhở cho vị Tiền Hô rằng kỷ nguyên Mê-si-a phải được thiết lập, nhưng không bằng bạo lực mà bằng những ân phúc, Kinh Thánh đã thấy trước cách thức hành động này của Đấng Mê-si-a. Nhiều vị thánh đã kinh qua những giai đoạn nghi nan ngờ vực, đêm tăm tối của đức tin. Hơn nữa, cuộc đời của Gioan Tẩy Giả báo trước nhiều điểm cuộc đời của Chúa Ki-tô. Chúa Giê-su cũng đã cảm thấy chơ vơ cô quạnh trong viễn cảnh của cuộc khổ nạn sắp đến. Thánh Thần, Đấng đã hằng nâng đỡ Ngài, dường như đã bỏ rơi mình.
3/. Chúa Giê-su ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả:
Sau khi các môn đệ của Gioan ra đi, Chúa Giê-su ngỏ lời với đám đông, Ngài hết lời ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả. Đức Giê-su ca ngợi đức công minh chính trực của thánh nhân: không khuất phục trước bạo quyền và cách sống đạm bạc của thánh nhân. Chính qua cung cách sống của mình, thánh nhân hiện thân một vị ngôn sứ, tức là người nói nhân danh Thiên Chúa, thế vì Thiên Chúa. Nhưng thánh nhân còn cao trọng hơn các ngôn sứ trước ông, bởi vì các ngôn sứ chỉ loan báo Đấng Mê-si-a, trong khi thánh Gioan không chỉ loan báo mà còn đích thân gặp gỡ Đấng Mê-si-a và chỉ cho người ta thấy Đấng Mê-si-a nữa.
Bất ngờ cung giọng thay đổi, Chúa Giê-su công bố những lời gây bối rối cho người nghe:“Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời con cao trọng hơn ông”. Ở đây, Chúa Giê-su không nhắm đến công đức cho bằng hai thời kỳ, thời Cựu Ước và thời Tân Ước, và những người được dự phần vào hai thời kỳ ấy. Thời kỳ mà Chúa Giê-su khai mạc là thời kỳ Tân Ước, tức là thời kỳ thực hiện và hoàn tất, vì thế trổi vượt hơn nhiều thời kỳ Cựu Ước, tức là thời kỳ loan báo và chuẩn bị mà thánh Gioan, một trong các ngôn sứ, vẫn còn thuộc về thời kỳ Cựu Ước ấy. Lúc đó, phản đề nhắm đến hai trật tự vĩ đại: cái vĩ đại của Gioan Tẩy Giả được xem như ngôn sứ và vị Tiền Hô trực tiếp của Đấng Mê-si-a và cái vĩ đại khôn sánh của những những người thuộc về thời đại của Đấng Mê-si-a, thời Tân Ước, như sau này Chúa Giê-su nói rõ với các môn đệ Ngài: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc, vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thạt anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13: 16-17).
Trong một bối cảnh khác, Chúa Giê-su sử dụng lập luận tương tự: trong đám đông có một phụ nữ lên tiếng: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giê-su đáp lại: “Phúc thay kẻ lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Chúa Giê-su không muốn giảm thiểu sự cao cả của Mẹ Ngài một chút nào, rõ ràng Mẹ Ngài là mẫu gương của những ai lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa, nhưng nhằm mở rộng “mối phúc này” cho hết mọi người. Ở đây cũng vậy, Chúa Giê-su không tìm cách giảm thiểu Gioan Tẩy Giả, nhưng nhằm đảm bảo với thính giả của Ngài: Nước Thiên Chúa không chỉ được dành riêng cho các ngôn sứ, nhưng cho hết mọi người; ai cũng đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa mà Ngài khai mạc.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ GẦN ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Trong Mùa Vọng, lễ phục của chủ tế màu tím. Nhưng hôm nay chủ tế mặc lễ phục màu hồng, màu vui mừng! Bởi vì hôm nay Lời Chúa loan báo cho chúng ta một tin hết sức vui mừng: Chúa sắp đến viếng thăm chúng ta!
Nhưng không phải là Chúa đã đến ở Bêlem cách nay khoảng 2000 năm hay sao? Tại sao lại nói là Chúa sắp đến? Thưa quả thực ở Bêlem Chúa đã đến với trần gian, nhưng chưa đến với tâm hồn mọi người. Mà điều Chúa thiết tha mong muốn không phải là đến một nơi nhưng là đến với con người.
Chỉ còn hơn một tuần lễ nữa thôi là chúng ta lại mừng lễ Giáng sinh, kỷ niệm lần đầu tiên Ngôi Hai Thiên Chúa đến trần gian. Nhưng phải chăng một lần nữa Chúa chỉ đến trong hang đá lạnh lẽo, mà không đến được với tâm hồn mỗi người chúng ta?
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy chúng ta phải làm gì để Chúa có thể đến tận tâm hồn chúng ta.
- GỢI Ý SÁM HỐI
- Ðã bao nhiêu lần Chúa muốn đến thăm viếng tâm hồn chúng ta, nhưng bấy nhiêu lần Ngài đều không đến được vì cánh cửa tâm hồn chúng ta đã khóa chặt.
- Chúng ta mong chờ biết bao người đến thăm chúng ta, như những người thân, những người mang lại lợi lộc vật chất. Nhưng rất ít khi chúng ta mong chờ Chúa đến.
- Thậm chí nhiều lần chúng ta còn xua đuổi Chúa.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc I (Is 35,1-6a):
Nhìn chung quanh mình, ngôn sứ Isaia thấy những cảnh bất hạnh: nhiều người mệt mỏi chán chường với “những bàn tay rời rã, những đầu gối mỏi mòn”; nhiều người khác bi quan sợ hãi trước những áp bức, bất công; nhiều người khác nữa đau buồn rên siết trong biển khổ cuộc đời…
Ngôn sứ Isaia an ủi và khích lệ họ: mọi bất hạnh sẽ biến mất khi Thiên Chúa đến: “Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi”
- Ðáp ca (Tv 145):
Lời cầu nguyện của Tv 145 này biểu lộ niềm tin tưởng vào lời Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia. Tác giả tin rằng khi Thiên Chúa đến, Ngài sẽ minh oan cho người bị áp bức, nâng đỡ những người yếu đuối, chở che những người cô thế cô thân… Bởi thế, tác giả cất tiếng nài van “Lạy Chúa, xin đến cứu thoát chúng tôi”.
- Tin Mừng (Mt 11,2-11):
Cũng như mọi người khác đương thời, Gioan Tẩy Giả nôn nóng chờ Ðấng Messia của Thiên Chúa đến. Gioan cũng đoán rằng Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia ấy. Chỉ có điều Gioan lại quan niệm rằng Ðấng Messia là một vị Thẩm phán nghiêm minh. Ngài đến để trừng trị những người gian ác. Vì thế khi thấy Ðức Giêsu chưa làm gì để trừng trị kẻ ác, thậm chí bản thân Gioan đang bị kẻ ác giam giữ trong ngục mà Ngài cũng chưa ra tay. Gioan đâm ra hoang mang, ông sai môn đệ đến thưa Người rằng: “Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng?”
Ðức Giêsu không trả lời trực tiếp. Ngài bảo các môn đệ của Gioan về thuật lại cho thầy họ tất cả những điều họ thấy Ngài làm: những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được cứu chữa và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo. Ðó là những chi tiết mà ngôn sứ Isaia dùng để mô tả Ðấng Messia, nhưng không phải là một Ðấng Messia thẩm phán, mà là một Ðấng Messia Tôi Tớ.
Như thế, một cách gián tiếp, Ðức Giêsu đã trả lời cho Gioan biết rằng Ngài chính là Ðấng Messia; đồng thời Ngài cũng điều chỉnh lại quan niệm Messia của Gioan: Ðấng Messia đến không phải để trừng trị mà để cứu vớt.
Quan niệm này quả là quá xa lạ với suy nghĩ của Gioan. Vì thế, Ðức Giêsu nhắn với ông “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
- Bài đọc II (Gcb 5,7-10):
Thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu mong chờ Chúa lại đến lần thứ hai. Càng khổ sở vì cuộc sống vất vả, càng cảm thấy yếu thế trước những áp bức bất công, họ càng mong Chúa mau đến. Thế nhưng mong chờ đã lâu mà sao vẫn chưa thấy Chúa đến? Họ bắt đầu nản lòng.
Thánh Giacôbê khuyến khích họ hãy làm như bác nông phu: đã gieo giống rồi thì thế nào cũng tới mùa gặt hái, chỉ cần kiên nhẫn chờ đợi thôi: “Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến”.
- GỢI Ý GIẢNG
- Người ta đang cần Chúa
Nhìn bề ngoài thì xem ra con người thời nay rất đầy đủ. Nhưng nếu đi sâu đến tận đáy lòng, ta mới thấy nhiều khoảng trống mênh mông rất cần được lấp đầy:
– Khoảng trống “siêu vật chất”: Mặc dù tiền bạc, của cải, tiện nghi… – nói chung là vật chất – có rất nhiều, nhưng lòng người vẫn luôn thấy thiếu. Chỗ thiếu vắng này không thế lấy tiền mà mua được, không thể lấy vật chất mà lấp đầy được.
– Khoảng trống “tình yêu”: người ta sống với nhau vì quyền lợi. Ai có lợi cho tôi thì tôi đến; ai không có lợi thì tôi thờ ơ, ai không còn có lợi thì tôi bỏ, ai có hại thì tôi tìm cách diệt trừ… Hình như tình yêu không có chỗ trong lòng người.
– Khoảng trống “vĩnh hằng”: mọi thứ mà người thời nay có đều chỉ là tạm bợ, kéo dài lắm cũng chỉ là “trăm năm trong cõi người ta”. Con người cần cái gì đó dài hơn, lâu hơn, mãi mãi…
Những khoảng trống ấy thật là mênh mông, và không ai ngoài Chúa có thể lấp đầy. Con người thời nay đang rất cần Chúa.
- Ðừng nóng vội
Trước một vấn đề quan trọng cần giải quyết, người ta chia thành hai hạng khác nhau:
- Những người nóng vội: muốn giải quyết ngay tức khắc, bằng cách nào cũng được, kết quả thế nào cũng được.
- Những người kiên nhẫn: tìm hiểu kỹ vấn đề, suy nghĩ cách giải quyết thỏa đáng nhất, chờ có đủ điều kiện thuận lợi nhất.
Phần Thiên Chúa, Ngài không nóng vội nhưng rất kiên nhẫn, bởi vì Ngài muốn cứu chữa tận căn, muốn cải tạo con người, muốn canh tân thế giới.
Phần mỗi người chúng ta, cũng chớ tìm những giải pháp nhanh chóng mà hời hợt, nhưng hãy kiên nhẫn: kiên nhẫn điều trị tận gốc căn bệnh của mình, kiên nhẫn cải tạo từng mặt cuộc sống của mình, và kiên nhẫn góp phần canh tân thế giới.
- “Hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?”
Tuy Gioan là một ngôn sứ và còn là vị Tiền hô, nhưng câu hỏi này của ông lại rất “phàm trần”: Ông nghĩ rằng Ðức Giêsu là Ðấng Messia Thẩm phán. Nhưng khi thấy Ngài chẳng xét xử và trừng trị ai thì ông nghĩ tới “một Ðấng nào khác”.
Nhưng chúng ta còn “phàm trần” hơn Gioan nhiều: Dù đã biết Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia, nhưng chúng ta không đủ tin nơi Ngài, chúng ta hướng về nhiều “messia khác”: messia-tiền-bạc, messia-thế-lực, messia-lạc-thú…
Tuyên ngôn Dominus Jesus khẳng định rằng Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Ðộ duy nhất, ngoài Ngài ra chẳng có đấng messia nào cả. Không hết lòng tin tưởng vào Ðức Giêsu là “vấp ngã”, chạy theo những đấng messia khác cũng là “vấp ngã”. Vì thế Ðức Giêsu đã khuyến cáo: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
- Một cây sậy phất phơ trước gió
Gioan Tẩy giả không phải là một cây sậy phất phơ trước gió, vì Gioan không phải là người yếu đuối nhu nhược dễ uốn mình trước áp lực và dư luận.
Nhưng hình ảnh cậy sậy phất phơ trước gió có thể dạy ta nhiều điều:
- Nó vừa mềm vừa nhẹ nên gió thổi nó nghiêng về hướng nào cũng được.
- Nhưng nó lại rất mạnh: giông to gió lớn có thể xô ngã những cây cổ thụ to lớn, nhưng không thể bứng gốc cây sậy nhỏ bé này.
Lạy Chúa,
- xin dạy chúng con hiểu rằng sức mạnh ở trong sự yếu đuối và dịu dàng
- xin dạy chúng con khôn ngoan biết khi nào phải cong xuống và khi nào phải trụ vững vàng.
- Chuyện minh họa
a/ Ông có phải là Chúa Giêsu không?
Một nhóm thương gia dự một cuộc họp. Người nào cũng báo trước với vợ con là sẽ về nhà đúng giờ ăn bữa tối. Nhưng cuộc họp kéo dài hơn dự định. Tan buổi họp, ai nấy hối hả chạy ra xe buýt. Một người xô phải quầy bán táo của một cậu bé, táo rơi tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu. Rồi mọi người đều lên được xe buýt, thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng ít giây sau, một người trong nhóm cảm thấy bứt rứt về chuyện cậu bé bán táo. Ông xuống xe trở lại chỗ cũ. Ông thấy cậu bé đang vất vả mò tìm từng trái táo để lượm lại. Thì ra cậu bị mù! Tội nghiệp quá, ông giúp cậu lượm lại từng quả cho đến hết. Một số quả đã bị giập. Ông móc túi dúi vào tay cậu bé một món tiền, rồi ra đi. Cậu bé bán táo hỏi với theo “Ông có phải là Giêsu không?”
Theo một nghĩa nào đó, ông ta là Chúa Giêsu. Thời nay đang cần có nhiều Chúa Giêsu như thế.
b/ Ðối phó với Ðấng Messia
Ngày kia đang lúc trời mưa như trút nước, một người chủ nông trại giàu có từ đồng trở về nhà và than phiền với giọng đầy lo lắng:
– Rebecca, nghe đâu trong thành người ta đang kể một câu chuyện kinh khủng lắm: Ðấng Messia đã đến giữa chúng ta!
Người vợ hỏi:
– Có gì mà kinh khủng hả? Tôi tưởng đó là chuyện tuyệt vời chứ. Sao mà ông hoảng hốt vậy?
Người chồng lớn tiếng than:
– Tôi hoảng hốt ư? Sao biết bao năm trời vất vả lao nhọc, chúng ta mới được giàu có với bầy súc vật hàng ngàn con, với những kho lẫm đầy ắp và cây cối nặng trĩu quả. Thế mà, bà biết không, chúng ta sắp phải bỏ hết để đi theo Ngài.
Bà vợ ôn tồn như muốn an ủi ông:
– Thôi, bình tĩnh đi ông. Chúa là Thiên Chúa nhân lành. Ngài biết rõ người Do Thái chúng ta đã luôn luôn phải chịu đau khổ, chúng ta phải đương đầu với Pharaon, Haman, Hitler… nghĩa là luôn luôn với một kẻ nào đó. Nhưng Thiên Chúa chúng ta đã có cách đối phó với họ mà, phải không? Thế thì Ngài cũng có cách đối phó với Ðấng Messia chứ! (Anthony de Mello, Lời kinh của Con Ếch)
- LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu Kitô, Ngôi hai Thiên Chúa, sắp ngự xuống trần gian. Người sẽ mang đến cho nhân loại đang đau khổ vì chiến tranh ơn hòa bình, đang oằn oại trong tội lỗi ơn giải thoát, đang sống trong bất hạnh được hạnh phúc tràn đầy. Chúng ta cùng chung lời cảm tạ Chúa và tha thiết khẩn cầu:
- Sứ mạng cao cả của Hội Thánh / là rao giảng Tin Mừng cứu độ cho các dân tộc. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh / luôn đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
- Trên thế giới ngày nay / việc phân bố tài nguyên các quốc gia không đồng đều / vì có những nước quá giàu / trong khi đó có những nước quá nghèo. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những nước giàu / biết quan tâm giúp đỡ một cách vô vị lợi / những nước chậm phát triển / cách riêng những nước mà một phần lớn dân chúng sống dưới mức tối thiểu.
- Trong cuộc sống thường ngày / có một số người tôn thờ cá nhân chủ nghĩa / chỉ lo sống hưởng thụ ích kỷ. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người kitô hữu hiểu rằng / không ai sống cho mình / mà là sống cho Chúa và sống vì người khác / vì không ai là một hòn đảo trong đại dương bao la của cuộc đời này.
- Ngày xưa / Ðức Giêsu đã chinh phục người khác bằng tình thương hy sinh / bằng việc phục vụ hết lòng. / Ngày nay / Người đòi hỏi các kitô hữu cũng phải sống như Người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho mọi người trong giáo xứ chúng ta / biết yêu thương / tôn trọng / và giúp đỡ những người chung quanh mình / nhất là những ai đói nghèo / túng thiếu và đang gặp đau khổ.
CT: Lạy Chúa là Cha từ bi nhân hậu, xin cho chúng con biết kiên trì tỉnh thức mà chờ đợi Ngôi Hai Con Chúa giáng trần, và biết cầm đèn cháy sáng trong tay mà hăm hở đón Người đang ngự đến. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
- TRONG THÁNH LỄ
– Kinh Tiền Tụng: nên dùng Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng II vì nó nhấn mạnh đến vai trò của Gioan Tẩy Giả và diễn tả niềm vui của tín hữu đang khi chờ đợi lễ Giáng sinh.
– Kinh Nguyện Thánh Thể: nên dùng KNTT 4, nhấn mạnh một số nơi:
. (Cuối đoạn 3): “… Người đã loan Tin Mừng cứu độ cho người nghèo khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ tù đày, đem lại niềm vui cho những ai sầu khổ.”
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy tha thiết dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha, xin cho Nước Ngài mau trị đến, để lấp đầy những khát vọng của những kẻ nghèo hèn là con cái đích thực của Ngài.
VII. GIẢI TÁN
Ðức Giêsu đã nói với các môn đệ của Thánh Gioan Tẩy giả: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các anh nghe và thấy”. Giờ đây, anh chị em sắp trở về với cuộc sống xã hội, Ðức Giêsu cũng nói với anh chị em: Hãy đi thuật lại cho mọi người những gì mà trong Thánh lễ này Chúa đã cho anh chị em được nghe và được thấy.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- A
CHỨNG TỪ CỦA CHÚA GIÊSU– Chú giải của Giáo hoàng Học viện Đà Lạt
1) Làm sao giải thích câu hỏi của Gioan (11, 2-3)? Gioan đã nghe biết các “việc” gì của Chúa Kitô (11,2)? Phải chăng ông nghi ngờ, và nghi ngờ về điểm nào? Chúa Giêsu đã đưa ra lý chứng ngôn sứ nào để trả lời ông (11, 4-6)?
2) Câu hỏi của Gioan (11,3) được đặt trong thế giới chúng ta và trong Giáo Hội hiện nay như thế nào?
3) Chúa Giêsu đặt Gioan Tẩy Giả trong tương quan thế nào với mình (11,7-15)? Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả liên tục hay đứt đoạn với trào lưu ngôn sứ của Cựu Ước? Sự cao cả của Gioan nằm ở chỗ nào (c. 11)?
*******
1) Các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, vào thời Mt, đã gặp nhiều lôi thôi với đồ đệ của Gioan Tẩy Giả (x. Cv 19,1-7 chẳng hạn), với “người phái Gioan”, những kẻ cứ mải lặp lại câu hỏi của thầy họ: Đấng Thiên Sai mà thầy loan báo có đúng là Chúa Giêsu không? Vấn đề thành ra còn mang tính cách thời sự khi Mt viết Tin Mừng, cũng như đối với chúng ta ngày nay: Phải chăng chúng ta không là người phái Gioan một cách nào đó khi còn mong chờ một Đấng Thiên Sai hùng mạnh khác đến thay đổi thế giới và canh tân mọi cơ cấu, khi chẳng dám tin rằng Chúa Giêsu thật sự đã hoàn tất mọi sự cho chúng ta? Và như vậy là Chúa Giêsu đã bị đặt lại vấn đề, vừa do câu hỏi của Gioan, vừa do thắc mắc của người đời, xưa cũng như nay.
2) Chẳng có người nào được Chúa Giêsu đề cập đến cách tỉ mỉ hơn Gioan Tẩy Giả. Một diễn từ rất sôi nổi, với những câu hỏi ngắn móc nối nhau, tất cả đều cho thấy Gioan là một đại ngôn sứ. Những điều Chúa Giêsu nói không chỉ mặc khải ý nghĩa vai trò của Gioan Tẩy Giả trong diễn tiến lịch sử cứu rỗi, mà còn cho thấy Gioan đã gây ấn tượng sâu xa cho Người đến chừng nào.
3) Câu hỏi mà vị Tẩy Giả nhờ môn đồ đặt ra là một câu hỏi đích thực, trang nghiêm. Mt chứng minh điều đó bằng cách cho biết Gioan hiện bị cầm tù, sống xa cách mọi người trong chốn lao lung. Ông đã nghe nói về các việc Chúa Giêsu làm, nhưng không tài nào giải thích được. Phải chăng ông đã chờ đợi những “việc” thuộc loại khác, như một phong trào quần chúng bột phát, một cuộc phán xét công thẳng trên các kẻ thù của Thiên Chúa chẳng hạn? Thế nhưng cuộc phán xét đầy sóng gió mà chính Gioan đã cảm thấy được vài dấu hiệu đầu tiên (khi Chúa Giêsu chịu phép rửa) lại đã chẳng xảy đến.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp không làm chứng về mình. Tuy nhiên, Người đã có thể đáp lại bằng một tiếng “phải” rõ ràng, đánh tan mọi nghi ngờ, như khi đứng trước vị thượng tế sau này. Song ở đây, Người tránh làm vậy, đồng thời lại chỉ cho Gioan con đường phải theo, con đường của mọi môn đồ: đó là biết nhìn các dấu hiệu và biết giải thích, biết nhận ra chúng như là “công việc” của Đấng Thiên Sai. Đấy là con đường của đức tin, khởi hành từ những hậu quả hữu hình để đi đến chỗ khám phá Chúa Giêsu. Đó là con đường đi từ tối tăm đến ánh sáng, từ dấu chỉ đến thực tại.
Nếu biết nhìn các công việc của Chúa Giêsu, nhất là nếu có khả năng liên kết chúng, ta sẽ chẳng chút nghi ngờ. Chính Chúa Giêsu đã chỉ con đường đức tin bằng một câu tuyên bố lấy lại một đoạn ngôn sứ Isaia: “Người mù được thấy” (Is 35, 5-6; 61,1). Thần Khí xức dầu cho Đấng Được Chọn đã ban cho Người khả năng thực hiện mọi kỳ công đó. Nhưng ta không được dừng lại nơi một trong các việc ấy, chỉ nhìn phép lạ này mà không thấy phép lạ kia, chỉ lắng nghe lời nói mà chẳng quan tâm đến việc làm. Không, tất cả đều bộc lộ khuôn mặt đích thực của Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu không chỉ là một nhà giảng thuyết lôi cuốn được quần chúng hay một tay chuyên làm phép lạ. Người đã chẳng chữa lành như một y sĩ mà thôi, song còn phục sinh được kẻ chết. Chính loàn thể công việc mới cho phép ta quyết đoán chắc chắn Người là Đấng Được Xức Dầu của Thiên Chúa đang hiện diện và hành động, Đấng mà Isaia đã từng loan báo.
4) Mới thoạt nghe, câu trả lời của Chúa Giêsu làm ta thất vọng, vì hình như nó chẳng trực tiếp mặc khải con người của Người. Thật ra nó bắt Gioan nhìn vào chính Chúa Giêsu: “Phúc cho người không phải vấp ngã vì Ta” (11,6) vì đã mách cho vị Tẩy giả biết một “chân phúc” mà ông sẽ khám phá ra ý nghĩa qua chính cuộc đời của ông. Tin rằng các dấu hiệu thiên sai vừa được nhắc lại cho ông (11, 5) đã thật sự được hoàn tất trong con người tầm thường, khiêm tốn của Chúa Giêsu, điều đó đòi hỏi một sự từ bỏ bản thân hoàn toàn, từ bỏ cho đến chết. Và đấy là điều mà Gioan thấy mình đang được kêu mời thực hiện.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Bấy giờ Gioan, đang ở trong tù… “: Gioan đã chẳng sợ phê bình hạnh kiểm của Hêrôđê Antipas, kẻ đang sống với chị dâu. Để khóa miệng ông, vị tiểu vương đã giam ông trong pháo lũy Makêron (lời chứng của F.Josèphe, Ant. Jud. XVIII, 5,2) nằm trên bờ đông Từ Hải. Tuy nhiên nhà vua vẫn đối xử tử tế với tù nhân và cho phép ông gặp môn đồ. Chính Gioan đã nhờ họ đi hỏi Chúa Giêsu.
“Ngài có phải là Đấng sẽ đến hay không?”: Khi nghe câu hỏi ấy, độc giả Tin Mừng không thể không nhớ lại lời Gioan đã nói về Chúa Giêsu: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi” (3, 11). Câu nói này là âm vang của Is 40, sấm ngôn mà Gioan cho là lời định nghĩa về sứ mạng riêng của mình: “Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa cho thẳng lối Thiên Chúa ta” (Is 40, 3; x. Mt 3, 3); phần tiếp trong sấm ngôn ấy có loan báo: “Này đây Chúa đến với uy hùng dũng lực và cánh tay Ngài sẽ thống trị” (c.10). Như thế sức mạnh là đặc điểm của “Đấng sẽ đến”.
Về tính chất của sức mạnh sắp biểu dương ấy, Gioan đã có những ý tưởng rất chính xác. Trước tiên ông so sánh nó với sức mạnh của người nông phu cầm rìu đốn ngã thân cây không sinh trái và ném vào lửa (3, 10). Ông cũng minh giải nó bằng hình ảnh người nông phu quét sạch sân lúa, thiêu đốt những gì không phải là giống tốt (c.12). Gioan kêu mời các tội nhân hối cải và ban cho họ phép rửa tha tội, mà họ phải mau mấn chịu lấy trước khi xuất hiện Đấng sẽ làm phép rửa bằng Thần Khí và lửa, một phép rửa hủy diệt (c. 11). Nói cách khác, Gioan thấy “Đấng sẽ đến” như là một Thẩm phán đáng sợ lấy lửa chẳng hề tắt mà tiêu trừ mọi tội nhân không ăn năn hối cải.
Ta cũng đi đến một kết luận như vậy khi khởi từ Ml 3, 1, một bản văn cũng được dùng để định nghĩa sứ mệnh Gioan (x Mt 11, 10): “Này Ta sai sứ giả Ta, và nó sẽ dọn đường trước mặt Ta”. Tiếp theo sứ giả, Chúa sẽ thân hành đến: “Ai chịu đựng nổi ngày Người đến? Ai đứng vững được khi Người hiện ra? Vì người đến như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của người giặt ủi người sẽ ngự mà luyện kim, mà lọc bạc; Người sẽ thanh luyện con cái Lêvi…” (Ml 3, 2-3). Hình ảnh có thay đổi đấy nhưng bao giờ cũng vẫn là cuộc phán xét thanh luyện sẽ xô nhào tội nhân vào lửa.
Vì thế Gioan tự coi mình như có trách nhiệm chuẩn bị Israel đón chờ cuộc phán xét khủng khiếp; gương sáng và lời nói của ông chỉ muốn đưa tội nhân hối cải và thoát khỏi hình phạt đời đời đang đe dọa họ. Một khi “Đấng phải đến” xuất hiện, thì không còn giờ tránh thoát sức mạnh hủy diệt của Người. Đàng khác, Gioan cũng ý thức vai trò phụ tá của mình đối với Chúa Giêsu. Song những gì ông biết về cách thức Chúa Giêsu thi hành sứ vụ Người hoàn toàn không tương ứng với ý tưởng ông có về cuộc phán xét sẽ phải xảy ra. Do đó mà câu hỏi của ông đầy vẻ ngạc nhiên.
Hơn nữa, có một tương quan hiện sinh giữa câu hỏi của vị Tẩy Giả và thân phận tù đày của ông: Đấng Thiên Sai mong chờ sẽ giải cứu những tù nhân, nhất là các tù nhân đức tin (Lc 4, 18; Is 61, 1); phải chăng ông không là người đầu tiên được giải cứu?
“Các ông hãy đi tin lại cho Gioan mọi điều tai nghe mắt thấy”: Gioan biết các phép lạ Chúa Giêsu làm (c.2). Và Chúa Giêsu bảo ông hãy nhìn vào phép lạ. Đâu là sức mạnh của lập luận? Theo quan niệm bấy giờ, dựa trên các sách ngoại thư và truyền thống giáo sĩ Do Thái, thì ơn làm phép lạ tự nó không phải là một trong những đặc điểm của Đấng Thiên Sai. Như thế Gioan có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu không đóng vai trò và nhiệm vụ Đấng ấy. Thế nhưng Chúa Giêsu kêu mời Gioan suy nghĩ về những phép lạ đó bằng cách thu gộp chúng trong những từ ngữ gợi lại các sấm ngôn thiên sai. Nên Người đã chu toàn ít ra là một phần phận sự của Đấng Thiên Sai vậy.
Chúa Giêsu không phán trực tiếp và với uy quyền: “Ta là Đấng Thiên Sai”, song kêu mời Gioan hãy cứu xét những gì mà các sứ giả của ông có thể thấy và nghe, tức là công việc và lời nói của Chúa Giêsu: đấy là con đường duy nhất để đi tới đức tin. Thành ra những kẻ không tin và người mù và điếc (23, 16), chẳng có khả năng giải thích các dấu hiệu Chúa Giêsu ban ra (13, 13). Bởi vậy Chúa Giêsu có thể bảo với những ai theo Người: “Mắt các ngươi có phúc vì thấy, tai các ngươi có phúc vì nghe” (13, 16).
“Người mù xem thấy…”: Câu Chúa Giêsu trả lời không quy chiếu một bản văn nào nhất định (trừ Is 61,1) cho bằng quy chiếu toàn bộ các lời tuyên sấm mà sách Isaia đã dùng để mô tả các việc thiện của thời thiên sai… hơn là các hình phạt tiên báo. Gioan sẽ nhận ra lối ám chỉ đó. Ông sẽ hiểu rằng Chúa Giêsu không chỉ muốn quả quyết Người là Đấng Thiên Sai song còn đưa ra bằng chứng: hành động hào hiệp của Người thực hiện những gì mà Isaia đã loan báo về thời thiên sai. Nhưng đồng thời – và đây hẳn là cao điểm của câu trả lời – Chúa Giêsu kín đáo kêu mời Gioan quan niệm vai trò Đấng Thiên Sai dưới một khía cạnh hơi khác khía cạnh mà ông đã lưu tâm. Khía cạnh mới này thiếu hẳn tính chất uy hùng đến nỗi trở thành một cơ hội nghi ngờ cũng như tin tưởng. Đấy là điều mà câu tiếp minh nhiên khẳng định.
“Phúc cho ngươi không phải vấp phạm vì Ta”. Theo nghĩa đầu tiên, “cớ vấp phạm” trong Hy ngữ ám chỉ việc giăng bẫy, rồi được áp dụng cho chính cái bẫy, theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Trong bản Kinh Thánh Hy Lạp, nghĩa của nó còn rộng hơn nữa, và được dùng để nói về bất cứ chướng ngại nào trên đường, đặc biệt hòn đá vấp chân. Vậy “cớ vấp phạm” là tất cả những gì có thể gây ra một sự vấp ngã, và nói theo ẩn dụ, là nguyên nhân của một sa ngã luân lý hay tôn giáo. Trong Tin Mừng, thường có đối ngẫu giữa “vấp phạm” và “tin”: kẻ không chấp nhận tin hoặc suy yếu đức tin sẽ phải “vấp phạm”. Chúa Giêsu phát biểu cách tổng quát: “Phúc cho người không phải vấp phạm vì Ta”. Người chẳng nhắm Gioan trực tiếp, nhưng rõ ràng là lời ấy nhắc nhở ông vì nằm trong sứ điệp dành cho ông. Người tiên đoán câu Người trả lời cho Gioan có thể làm ông thất vọng. Giữa quan niệm của Gioan về Đấng Thiên Sai và quan niệm của Người, đối nghịch không phải nhỏ! Gioan có đi đến chỗ chấp nhận được mặc khải về tình yêu bày tỏ trong khiêm cung và yếu đuối chăng? Ta đừng ngạc nhiên về thử thách đang chờ đợi ông. Hãy nhớ lại phản ứng của Phêrô tại Césarée Philipphê (16, 22-23) hoặc phản ứng của Giona khi Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).
“Các người đi ra sa mạc để coi cái gì? cây sậy rung trước gió ư”. Ba lần, Chúa Giêsu hỏi tại sao thiên hạ đi ra sa mạc? Việc chỉ nơi chốn có vẻ mơ hồ. Nói đến sông Giođanô không rõ hơn. Nhưng việc nhắc đến sa mạc dễ gợi lên ngay hình ảnh con người xuất hiện như “tiếng kêu trong sa mạc” (3,3). Chính Gioan mà người ta nghĩ tới ngay từ đầu; con người của ông làm nổi bật các câu hỏi liên hệ tới ông.
Thiên hạ không đi vào sa mạc để nhìn xem một cây sậy phất phơ trước gió. Chắc hẳn Chúa Giêsu muốn đặt đối nghịch cây sậy với sự kiên cố bất lay chuyển của Gioan. Đức tính này làm cho Gioan gần giống với ngôn sứ Giêrêmia (Gr 1, 17-19), một con người bất khuất trước mọi sự nhờ luôn ý thức sứ mệnh thần linh của mình và nhờ được sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa nâng đỡ. Tính bất khuất ấy của Gioan là nơi đầu tiên nâng ông vượt trên thiên hạ và đặc trưng sự cao cả của ông.
“Để thấy một ngôn sứ ư? Phải! Ta bảo các người…”. Dòng dõi đứt đoạn của các ngôn sứ (1 Mcb 9, 27; Tv 74,9) đã được nối lại với Gioan Tẩy Giả. Và xét cho cùng, đó chính là cái lôi kéo mọi người đến với ông: Thiên Chúa lại bắt đầu phán bằng lời ngôn sứ, như Ngài đã từng làm trong bao thế kỷ qua tất cả lịch sử Israel. Những kẻ nghe Chúa Giêsu đều biết mọi điều ấy; lời của Người hẳn âm vang sâu xa trong tâm hồn họ. Nhưng Người còn nói hơn thế nữa.
“Và còn hơn ngôn sứ nữa”. Dân chúng đã nhận ra Gioan là một ngôn sứ; nhiều người còn coi ông hơn cả một ngôn sứ, nghĩa là chính Đấng Thiên Sai (Lc 3, 15; Ga 1, 20; Cv 13, 25); dĩ nhiên, ông lớn hơn một ngôn sứ, nhưng theo ý nghĩa khác: ông là vị Tiền Hô. Đấng mà mọi ngôn sứ trước đây loan báo, thì Gioan đã thấy và đã chỉ cho biết: ông vừa đứng ở tận điểm và cao điểm thời kỳ đoan hứa, vừa đứng nơi ngưỡng của thời đại mới, thời đại Nước Trời.
“Kẻ nhỏ nhất trong Nước trời lại lớn hơn ông”: Một câu khó hiểu từng phát sinh nhiều lối giải thích khác nhau. Một số nhà chú giải, trong đó có các Giáo phụ, cho rằng “kẻ nhỏ nhất” là chính Chúa Giêsu. Văn mạch quả thật có trình bày Chúa Giêsu như là “bạn của người thu thuế và tội lỗi ” (c. 19), Người có được đồng hóa một cách nào đó với các “kẻ nhỏ” ấy và nhờ vậy khác với Gioan (F.Dibelius, F.Hanck, W.Grundmann…). Nhưng lối giải thích này vấp phải nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất là ta không thấy làm sao, mặc dầu đã cố ý tự hạ, Chúa Giêsu lại có thể tuyên bố mình là “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”. Thật vậy, Chúa Giêsu không đi vào trong một Nước Trời đã được thành hình, nhưng là loan báo và thiết lập Nước ấy trong chính con người của mình.
Đúng ra, có lẽ không nên đem Chúa Giêsu vào mà so sánh. “Kẻ nhỏ nhất trong nước Trời” chỉ một trong những kẻ đã chấp nhận sứ điệp của Người. Tuy nhiên cần phải lưu ý. Khó mà cho rằng kẻ kém nhất trong họ về sự thánh thiện lại trổi vượt Gioan trong phương diện ấy: như thế là bảo Chúa Giêsu đã phân biệt sự cao cả của sứ mệnh thần linh (loan báo Đấng Thiên sai) và sự toàn thiện của người được trao sứ mệnh (sự thánh thiện riêng của Gioan), một lối phân biệt chẳng phù hợp tí nào với tư tướng Kinh Thánh: cao cả nhờ sứ mệnh được ủy thác, Gioan không thể bị xem như thua kém người môn đồ tồi nhất của Chúa Kitô về phương diện trung thành được. Thật ra ở đây không cố ý nói đến sự thánh thiện cá nhân, nhưng, như văn mạch cho thấy, là nói đến hai trật tự, hai kinh nghiệm, hai thiên chức. Gioan đã xuất hiện như một ngôn sứ cao cả vào lúc kết thúc thời gian hứa hẹn và chờ đợi, song ông vẫn chỉ là một tiền hô; sau ông, khi Chúa Giêsu xuất hiện, là bắt đầu thời đại cứu rỗi thiên sai mới mẻ và chung cục. Thuộc vào thời đại ấy là một số phận may mắn, vượt xa những gì đi trước. Thành ra, kẻ trông nhỏ nhất giữa các phần tử Nước Trời lại được cao cả hơn những ai thuộc về các thời trước vậy.
KẾT LUẬN
Tư tưởng thần học của đoạn văn này không dừng lại nơi Gioan Tẩy Giả song còn đi xa hơn. Đi xa hơn trước tiên bằng cách đối chọi sự cao cả trần gian với sự cao cả của Nước Trời sẽ đến. Sau đó bằng cách cho thấy: vai trò của vị Tiền Hô được soi chiếu nhờ phẩm cách thần linh của Chúa Giêsu, Đấng mà ông đi trước dọn đường. Phận sự của Gioan, và của các thánh nói chung, không phải là làm người ta chú ý đến mình, nhưng là dẫn đưa tới Chúa, Đấng họ đang làm chứng giữa loài người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Câu hỏi môn đồ Gioan đặt ra cũng thượng được đặt do mọi thế hệ muốn đi tìm một thứ thiên sai chủ nghĩa mới, có tính cách triết học, chính trị hoặc xã hội. Đó là câu hỏi đặt ra do những ai mà đức tin trở nên do dự, mỏng dòn, do những ai thỉnh thoảng đi tìm trong các khuynh hướng tôn giáo khác (chiêu hồn, dị đoan, giáo phái) một câu trả lời cho bao mối lo âu của họ. Câu trả lời duy nhất nằm trong mặc khải về một Thiên Chúa nhân từ hằng ngỏ lời cách riêng với những kẻ nghèo nàn, khốn khổ để mang lại cho họ Tin Mừng cứu rỗi.
2) “Người què được đi”: Chúa Giêsu đem lại cho người lảo đảo sự vững lòng và sức mạnh, đặt họ lại trên con đường ngay chính. Giáo Hội cũng không ngừng trả lại cho con người khả năng bước đi trong con đường của Chúa Kitô để tiến đến sự sống sung mãn.
3) “Người mù được thấy”, họ không còn phải tìm một Thiên Chúa vô danh cách mò mẫm trong bóng tối nữa (Cv 17, 23- 28). Những kẻ sống nhờ Chúa Kitô là những người “nhìn thấy ánh sáng chan hòa” (Mt 4, 16) sau khi đã bước đi trong u tối.
4) “Kẻ phong cùi được sạch, người chết sống lại”: Không ai bị loại ra khỏi Nước Trời: cho dù bị tội ác và thất vọng bôi bẩn hay giết chết, người ta vẫn có thể sống lại nhờ đức tin vào Đức Kitô, Đấng nâng dậy và tha thứ, chữa lành và tác sinh.
5) Sứ mạng của Kitô hữu giống với sứ mạng của vị Tiền hô: chuẩn bị các tâm hồn sẵn sàng đón Chúa Kitô. Và như Gioan Tẩy giả, Kitô hữu sẽ được kêu mời chịu đau khổ vì đức tin.
6) Giáo Hội tiếp tục công việc của Chúa Giêsu. Nhờ Giáo Hội, “kẻ nghèo, tức chúng ta, “kẻ nghèo của Đức Giavê, được nghe loan báo Tin Mừng”, được phụng vụ Lời Chúa, bài giảng, giáo lý và giáo huấn của các vị lãnh đạo Giáo hội dạy dỗ cho. Chính Giáo Hội cũng chữa lành các tâm hồn và không ngừng bao bọc nỗi khổ thể xác của con cái mình bằng việc thực thi bác ái, giáng phúc thi ân.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG -A
DUNG MẠO ĐỨC KITÔ– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan Tiền Hô là một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền. Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte. Khi bị giam trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của Chúa Giêsu. Hôm nay thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?”.
Thật lạ lùng đến khó hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin nửa ngờ.
Sự hoang mang của thánh Gioan Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:
1) Nguyên nhân thứ nhất: Chúa Giêsu có những việc làm khác với lời Gioan loan báo.
Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Phúc Âm tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế mà khi Chúa Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.
2) Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù.
Ông bị ngược đãi, tất nhiên. Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết rồi những sứ điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của Ngài mòn mỏi trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm của Isaia còn rành rành: “Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù nhân”. Thế mà sao chờ đợi hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không phải là Đấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng khác?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.
Trước câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật cho Gioan những việc Ngài làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.
Đấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh.
Đấng Cứu Thế không phải là vị quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.
Đấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.
Đấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.
Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.
Ta đang chờ đón Chúa đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ nên dung mạo của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa trong Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đức Thánh Cha đã khiêm nhường xin lỗi Trung Quốc. Bạn nghĩ sao về cử chỉ này? Cử chỉ của Đức Thánh Cha có làm tổn thương đến uy tín của Giáo Hội không?
2) Bạn muốn một Giáo Hội yêu thương phục vụ hay một Giáo Hội cai trị quyền uy?
3) Bạn nghĩ gì về những lầm lỗi trong Giáo Hội?
4) Bạn phải làm gì để làm chứng cho Chúa. Bằng những việc lớn lao hay bằng những việc nhỏ bé hằng ngày?
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- A
THI HÀNH SỨ VỤ TIỀN SỨ NHƯ GIOAN TẨY GIẢ – Lm. Đan Vinh HHTM
(2) Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng : (3) “Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ? (4) Đức Giê-su trả lời : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe : (5) Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng. (6) Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. (7) Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng : “Anh em ra xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng ? (8) Thế thì anh em xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. (9) Thế thì anh em ra làm gì ? Để xem một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó. Mà tôi nói cho anh em biết : Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. (10) Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng : “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con. Người sẽ dọn đường cho Con đến”. (11) Tôi nói thật với anh em : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”.
- Ý CHÍNH :
Bài Tin Mừng nhằm giới thiệu Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và đề cao Tân Ước trổi vượt hơn Cựu Ước. Khi Gio-an trong tù nghe biết hoạt động của Đức Giê-su, liền sai môn đệ đến gặp Người để tìm hiểu rõ hơn về sứ mệnh Thiên Sai của Người. Đức Giê-su đã gián tiếp trả lời bằng các công việc Người đang thực hiện ứng nghiệm lời tuyên sấm của I-sai-a về Đấng Thiên Sai. Người cũng khen ngợi các đức tính của Gio-an và xác nhận vai trò tiền sứ của ông.
- CHÚ THÍCH :
– C 2-6 : + Gio-an lúc ấy đang ngồi tù… : Gio-an đã bị vua Hê-rô-đê bắt giam về tội dám ngăn cản nhà vua lấy bà chị dâu là Hê-rô-đi-a-đê vợ của ông hoàng Phi-líp-phê làm vợ của mình (x. Mt 14,3). + Liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng : Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác ? : Gio-an rất vui khi nghe môn đồ thuật lại những việc Đức Giê-su làm (x. Ga 3,28-30). Ông đã được chứng kiến cuộc thần hiện cho thấy sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su khi ông làm phép rửa cho Người tại sông Gio-đan, đang khi các môn đệ của ông lại tỏ thái độ ganh tị khi thấy Đức Giê-su thành công hơn thày mình (x. Ga 3,26). Giờ đây Gio-an sai môn đệ đến gặp Đức Giê-su, để họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai. Tuy nhiên, chính Gio-an cũng thắc mắc tại sao Đức Giê-su không hành xử công thẳng như Đấng Mê-si-a thẩm phán, mà ông đã rao giảng cho dân chúng trước đó (x. Mt 3,10.12). + Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe : Khi các môn đệ của Gio-an tới thì gặp lúc Đức Giê-su đang chữa nhiều bệnh hoạn tật nguyền trong dân, xua trừ ma quỷ (x. Lc 7,21). Đức Giê-su đã gián tiếp trả lời cho Gio-an về sứ mệnh Thiên Sai của Người khi cho thấy các việc Người đang làm ứng nghiệm các sấm ngôn về Đấng Thiên Sai (x. Is 26,19). + Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi : Đức Giê-su cũng cảnh báo: Cần loại bỏ quan niệm về một Đấng Thiên Sai hành xử công thẳng và thiết lập một Nước Trời mang tính thế tục.
– C 7-9 : + Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về Gio-an rằng : Đức Giê-su đã hết lời khen ngợi Gio-an để đánh tan hiểu lầm của dân chúng cho rằng ông đã bị thất bại và bị Thiên Chúa bỏ rơi khi để mặc ông cho vua Hê-rô-đê bắt bớ. + Anh em ra xem gì ở hoang địa… : Gio-an cao trọng vì đức tính can đảm bất khuất, không chịu luồn cúi trước bạo lực. + Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? : Gio-an không sống giàu sang buông thả nhưng có nếp sống đơn giản khổ hạnh. + Để xem một vị Ngôn sứ chăng… : Gio-an chính là một Ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến.
– C 10-11 : + Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng : “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Đây là lời tuyên sấm của Ngôn sứ Ma-la-khi về một vị tiền hô đi trước dọn đường cho Chúa ngự đến (x Ml 3,1) đã được ứng nghiệm nơi Gio-an là vị tiền hô có sứ mệnh đi trước để dọn đường cho Đức Giê-su. + Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông : Gio-an tuy là ngôn sứ cao trọng nhất trong thời Cựu Ước, nhưng ông vẫn không thể sánh được với Đức Giê-su trong thời Tân Ước.
- CÂU HỎI :
1) Tại sao Gio-an bị vua Hê-rô-đê bắt giam vào tù ? 2) Gio-an có tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai hay không ? Tại sao ? 3) Lý do nào khiến ông phải sai môn đệ đến hỏi Đức Giê-su về vai trò Thiên Sai của Người ? 4) Đức Giê-su đã làm gì để chứng tỏ Người là Đấng Thiên Sai ? 5) Đức Giê-su khen ngợi Gio-an về những điều gì ? 6) Sứ vụ của Gio-an đã được Ngôn sứ nào tiên báo ? 7) Tại sao nói Gio-an cao trọng nhất mà vẫn thua người nhỏ nhất trong Nước Trời ?
- SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA : Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng : “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con. Người sẽ dọn đường cho Con đến” (Mt 11,10).
- CÂU CHUYỆN :
1) LÀM TIỀN SỨ BẰNG GƯƠNG SÁNG TIN YÊU PHÓ THÁC :
Có một cô bé mới chỉ bốn tuổi mà đã có thể yêu cầu được ba của em làm dấu đọc kinh trước bữa ăn. Trưa hôm đó, khi đang chơi đồ hàng ngoài sân, thì cô chị ra kêu vào nhà ăn cơm. Ngồi vào bàn, em nhìn ba và khẽ nói :
– Ba à, Ma-sơ bảo phải đọc kinh trước khi ăn cơm.
Lúc đó người cha chỉ còn cách làm dấu và đọc kinh Lạy Cha, một thói quen mà ông đã bỏ từ lâu.
Câu chuyện thứ hai : Một bác sĩ giải phẫu đã được ơn trở lại tin yêu Chúa nhờ gương sáng của một bệnh nhân là một bé trai 5 tuổi. Em bị đau bụng dữ dội được đưa đến bệnh viện cấp cứu. Sau khi siêu âm và chụp X quang ổ bụng, bác sĩ khẳng định em bị khối u trong dạ dày cần được phẫu thuật. Về sau bác sĩ giải phẫu đã kể lại câu chuyện mổ cho em như sau :
“Hôm đó, em bé được đưa vào phòng mổ và trước khi gây mê, tôi nói với em rằng :
– Bác sĩ sắp sửa giúp con khỏi bệnh. Nhưng trước hết con cần phải qua một giấc ngủ nhé”. Nghe nói sắp đi ngủ, em bé được mẹ dạy thói quen cầu nguyện trước khi đi ngủ đã nói :
– Vậy xin bác sĩ cho con cầu nguyện trước khi đi ngủ.
Nói đoạn em quỳ xuống bên cạnh bàn mổ, hai tay chắp lại, đôi mắt ngước lên cao, em khẽ đọc một kinh lạy cha. Nhìn thấy cảnh em cầu nguyện, vị bác sĩ và mấy y tá đều cảm động rưng rưng nước mắt. Vị bác sĩ kể tiếp : Sau đó, tôi tự nhiên cảm thấy lương tâm cắn rứt, nên đã đi xưng tội sau 20 năm, và từ đó mỗi buổi tối, tôi không bao giờ đi ngủ mà không cầu nguyện”.
Thánh Gioan Tẩy Giả cũng được trao sứ vụ làm tiền sứ của Đấng Thiên Sai như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm : “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con” (Mc 1,2). Mỗi người chúng ta đều được mời gọi để làm tiền sứ cho Chúa, giúp tha nhân tin yêu Chúa bằng một lối sống tin yêu phó thác như em bé trong câu chuyện trên.
2) LÀM TIỀN SỨ BẰNG LỐI SỐNG YÊU THƯƠNG CHIA SẺ :
Một nhóm thương gia dự một cuộc họp. Người nào cũng báo trước với vợ con là sẽ về nhà đúng giờ ăn bữa tối với gia đình. Nhưng cuộc họp kéo dài hơn dự định. Tan buổi họp, ai nấy hối hả chạy ra xe buýt. Một người chẳng may xô phải quầy bán táo của một cậu bé, táo rơi tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu. Rồi mọi người vội lên ngồi trên xe buýt và thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng ít giây sau, một người trong nhóm cảm thấy bứt rứt về chuyện cậu bé bán táo. Ông xuống xe trở lại chỗ cũ và thấy cậu bé đang vất vả đi mò tìm từng trái táo lượm lại. Thì ra cậu bé bị mù! Tội nghiệp quá, ông giúp cậu lượm lại từng quả cho đến hết. Một số quả đã bị giập. Ông móc túi dúi vào tay cậu bé một món tiền, rồi ra đi. Cậu bé bán táo liền hỏi với theo “Ông có phải là Chúa Giê-su không ?”
Quả thật, theo một nghĩa nào đó, ông thương gia kia chính là Chúa Giê-su hiện thân. Ngày nay Hội Thánh cũng rất cần có những Chúa Giê-su như thế.
3) LÀM TIỀN SỨ BẰNG THÁI ĐỘ KHIÊM TỐN HÒA ĐỒNG VỚI THA NHÂN :
Vào một buổi chiều, sau ngày lên ngôi vị Giáo Chủ, Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an 23 ra khu vườn của điện Va-ti-can đi bách bộ để tìm thư giãn sau một ngày làm việc căng thẳng. Ngài thấy một người đang làm vườn, bên mình bác ta có đeo một chai rượu. Vị Giáo chủ khả ái tiến lại gần hỏi chuyện và không chút ngần ngại, ngài đã ngồi xuống đất uống rượu chung với bác ta. Vì chưa biết mặt vị tân Giáo chủ, nên trước vẻ xuề xòa của ngài, bác làm vườn nghĩ ngài cũng chỉ là một viên chức cao cấp trong giáo triều, nên bác hết lời ca ngợi vị tân Giáo chủ dựa theo dư luận mà bác đã nghe biết về ngài. Sau khi đã uống cạn bình rượu với bác làm vườn, trước khi từ giã, Đức Gio-an 23 mới hỏi rằng : “Này bác, bác chưa bao giờ thấy mặt vị Giáo chủ phải không ?” Bác ta trả lời : “Thưa chưa ạ”. Bấy giờ Đức Gio-an 23 mới ôn tồn nói : “Thế là hôm nay bác đã thấy rõ rồi nhé. Giáo chủ mới chính là người đã ngồi uống rượu với bác từ nãy đến giờ đó !”.
Thái độ khiêm tốn hòa đồng, sẵn sàng ngồi xuống đất nói chuyện và chia sẻ một ly rượu tầm thường với người giúp việc cho thấy: sự thánh thiện không hệ tại phải làm việc lớn lao, nhưng qua thái độ khiêm hạ đến với mọi người, sẵn sàng sống chan hòa yêu thương với những người đang sống bên cạnh mình.
4) LÀM TIỀN SỨ BẰNG MỘT ĐỜI SỐNG CÔNG MINH CHÍNH TRỰC :
Tể tướng lưng gù là một câu chuyện huyền thoại về một vị tể tướng có thể hình dị dạng với cái lưng bị gù, nhưng lại rất anh minh trong công việc trị nước.
Chuyện xảy ra vào đời nhà Thanh : Lưu Dung là con của một thầy giáo, sở học và thú đánh cờ đều giỏi như nhau. Tiểu thư Hà là con gái của vị tể tướng trong triều vừa xinh đẹp, vừa là cao thủ cờ tướng, được rất nhiều người yêu mến, trong đó có cả nhà vua. Tiểu thư lá ngọc cành vàng ấy tuyên bố chỉ lấy làm chồng người nào vô địch trong cuộc tỉ thí cờ do cô tổ chức. Đúng lúc Lưu Dung về kinh đi thi trạng nguyên và chàng đã lấy được người đẹp. Sau đó lại thi đỗ trạng nguyên rồi còn được làm tể tướng triều đình.
Tuy hình thù dị dạng nhưng tể tướng họ Lưu là một người coi trọng công bằng và chính nghĩa. Ông đã lật tẩy nhiều thói hư tật xấu của bọn tham quan, hương lý. Ông trở thành đại ân nhân của lớp dân đen bị quan lại hà hiếp đàn áp bóc lột. Tuy là tể tướng đầy quyền uy, nhưng ông lại chọn lối ứng xử khôn khéo mưu lược hơn là dùng vũ lực, nên rất được dân chúng tin yêu.
5) LÀM TIỀN SỨ BẰNG LỐI SỐNG SIÊU THOÁT TIỀN BẠC VẬT CHẤT :
Thánh Phan-xi-cô thành Át-si-si khi còn là một thanh niên đã đến viếng thăm thủ đô Rô-ma nước Ý, quì gối cầu nguyện trước mộ thánh Phê-rô. Để tỏ lòng biết ơn đối với thánh cả, Phan-xi-cô đã bỏ vài đồng tiền kẽm vào thùng công đức. Nhưng khi vừa bước ra tới đường lộ, Phan-xi-cô gặp một người ăn xin nghèo khó. Với tâm trạng hưng phấn, Phan-xi-cô đã yêu cầu người ăn xin đổi chiếc áo choàng cũ rách của anh ta lấy chiếc áo choàng đắt tiền quý giá của mình. Người ăn xin rất sung sướng, và còn sướng hơn nữa khi ông ta phát hiện ra những đồng tiền cắc còn sót lại trong túi áo mới đổi được. Rồi sau đó, Phan-xi-cô cũng tập làm nghề ăn xin: Anh ngồi ở góc đường, mở miệng xin những người qua lại bên đường giúp đỡ. Nhưng dù trong hoàn cảnh nghèo khó ấy, Phan-xi-cô lại cảm nghiệm thấy trong lòng một niềm vui khôn tả. Chính nguồn vui ấy đã gợi hứng cho Phan-xi-cô sau này thiết lập một trong những dòng tu lớn nhất của Hội Thánh Công Giáo là dòng “Anh em hèn mọn”.
Mùa đông năm 1206, Phan-xi-cô Át-si-si, đã công khai từ bỏ cha ruột của mình để thuộc trọn về Chúa Cha trên trời. Ngài từ bỏ những cuộc vui chơi tiệc tùng với bạn bè để đi giúp những người phung cùi, những kẻ vô gia cư và những người bị xã hội khai trừ. Hai năm tiếp đó, ngài đi hành khất, sống ẩn dật và sửa sang ba nhà thờ đổ nát trong miền Át-si-si.
Lối sống siêu thoát của Phan-xi-cô đã thu hút được nhiều người đi theo : trước tiên là 12 “người đền tội” và lữ hành, không nhà cửa hoặc nơi cư trú cố định, sống theo Luật Dòng Anh em Hèn mọn. Phan-xi-cô đã cử các tu sĩ thừa sai đi khắp nơi để loan báo một Đức Ki-tô nghèo khó, khiêm hạ và chịu đóng đinh, hầu mang lại sự hòa giải và bình an cho mọi người như lời cầu trong “kinh Hòa Bình”. Căn tính của phong trào Phan sinh là sống siêu thoát noi gương Chúa Giê-su theo luật dòng được Hội Thánh chấp nhận, để rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.
6) LÀM TIỀN SỨ BẰNG VIỆC GIỚI THIỆU CHÚA CHO THA NHÂN :
Vào một ngày đẹp trời, có một ông cụ ngồi trên ghế xích đu vẻ đăm chiêu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ một bé gái tung banh rơi vào sân nhà ông. Cô bé chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen : “Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên ghế này, ông đang đợi ai vậy?” Ông nói: “Cháu còn quá nhỏ làm sao hiểu được điều ông mong đợi.” “Ông à, mẹ cháu nói rằng nếu có điều gì trong lòng, thì hãy nói ra mới hiểu rõ hơn.” Nghe cô bé nói thế, ông liền thổ lộ tâm tình : “Ông đang chờ đợi Chúa đến.” Cô bé kinh ngạc, ông già giải thích : “Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa hiện hữu. Ông cần một dấu hiệu, cháu à.” Bấy giờ cô bé lên tiếng : “Ông chờ một dấu hiệu hả? Thưa ông, Chúa đã cho ông nhiều dấu hiệu rồi : Mỗi khi ông hít thở không khí, nghe tiếng chim hót, nhìn hạt mưa rơi… Chúa cho ông dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ và trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu. Chúa luôn hiện diện ở khắp mọi nơi và trong mọi người.”
- SUY NIỆM :
1) THẦY CÓ ĐÚNG LÀ ĐẤNG PHẢI ĐẾN KHÔNG ?
– Dù bị Hê-rô-đê bắt giam vào tù, nhưng Gio-an vẫn được các môn đệ cho biết về các hoạt động của Đức Giê-su. Khi thấy Người không hành xử cách công thẳng là trừng phạt tội nhân (x. Mt 3,10-12), ông bị hoang mang, nên sai môn đệ đến gặp Người và nêu thắc mắc về sứ mệnh Thiên Sai của Người. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp, mà yêu cầu các môn đệ Gio-an trở về thuật những việc Người làm : “Cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi lành sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe rao giảng Tin Mừng”.
– Với câu trả lời ấy, Chúa Giê-su nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của I-sai-a về Đấng Cứu Thế, (Is 35,5-6a) và thanh luyện cái nhìn của ông về sứ mệnh của Đấng Thiên Sai : Người không phải là ông Vua oai phong từ trời ngự xuống, mà chỉ là một hài nhi bé nhỏ xuất hiện giữa loài người. Người không phải là vị Vua sống trong cung điện nguy nga, nhưng như một người lao động nghèo hèn. Người không phải là Quan tòa oai nghiêm trừng phạt tội nhân, mà là một lương y hiền hòa, đến để chữa lành những thương tích, an ủi những kẻ ưu sầu, nâng đỡ những người yếu đuối, tha thứ những tội nhân. Người không đến trong chiến thắng vinh quang, mà âm thầm như một người bạn thân thiết của mọi người. Người không đến như một người quý tộc cao xa, nhưng sẵn sàng sống hòa đồng với mọi kẻ khó nghèo, những người thu thuế và tội lỗi bị xã hội khinh thường loại bỏ…
– Ngoài ra, Đức Giê-su còn muốn Gio-an đổi mới cái nhìn về Đấng Thiên Sai, để tránh khỏi vấp ngã (x. Mt 11,6), như Phê-rô đã từng bị vấp ngã khi khuyên Đức Giê-su đừng đi theo con đường đau khổ thập giá như ý Chúa Cha (x. Mt 16,22-23).
2) “ANH EM RA XEM GÌ TRONG HOANG ĐỊA ?” :
Đức Giê-su ba lần đặt câu hỏi này với thính giả về vai trò của ông Gio-an Tẩy Giả.
– Ông được Người khen là một người dũng cảm cương nghị chứ không luồn cúi hèn hạ như lau sậy phất phơ trước gió (x. Mt 11,7).
– Ông sống đơn sơ khổ hạnh chứ không ham gấm vóc lụa là trong đền vua (x. Mt 11,8).
– Ông không những là một ngôn sứ, mà còn hơn thế nữa, vì có sứ mệnh làm tiền sứ, đi trước dọn đường giúp người đời đón Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Mt 11,10).
Sau khi làm phép rửa cho Đức Giê-su ở sông Gio-đan và được chứng kiến cuộc thần hiện xảy ra, Gio-an đã tin Người chính là Đấng Thiên Sai. Ông đã giới thiệu Người là “Con Chiên Thiên Chúa” với hai môn đệ và khuyến khích họ bỏ ông để theo làm môn đệ Người (x. Ga 1,36-37). Gio-an đã khiêm tốn thừa nhận vai trò thấp kém của mình “không đáng cởi quai dép cho Người” (x. Lc 3,16) và khẳng định sự lệ thuộc của mình: “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn”. Cuối cùng ông còn khiêm tốn tuyên bố như sau: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,29-30).
3) “KẺ NHỎ NHẤT TRONG NƯỚC TRỜI CÒN CAO TRỌNG HƠN ÔNG” :
Gio-an đã được Đức Giê-su khen là người cao trọng nhất trong con cái loài người: “Tôi nói thật với anh em : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Vậy Đức Giê-su muốn dạy gì khi nói : “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” ?
– Đức Giê-su đến thiết lập Nước Trời ban ơn cứu độ, mà Gioan có sứ mạng đi trước dọn đường cho Người. Nước Trời là một gia đình của Thiên Chúa, trong đó chỉ có một Thiên Chúa là Cha, chỉ có Đức Giê-su là Thầy và là người chỉ đạo, còn hết mọi người đều là anh em với nhau (x. Mt 23,8-10). Đây là một xã hội lý tưởng, trong đó mọi người có bổn phận yêu thương nhau và nhờ đó họ sẽ được sống trong niềm vui hạnh phúc. Hiện nay, trên thế giới vẫn có nhiều tiêu cực, đau khổ là do người ta thiếu tình thương với nhau. Đức Giê-su có sứ mạng đem đến cho thế giới một tinh thần mới, một lề luật mới xây dựng trên tình yêu thương. Từ nay tiêu chuẩn mới của sự công chính là tình yêu, khác với tiêu chuẩn cũ là lề luật như lời thánh Phao-lô : “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” (Rm 3,28).
– Sống khiêm nhường như Gio-an : Sự khiêm nhường chính là điều cần thực hiện trong mùa Vọng này, bởi vì chỉ những người khiêm nhường mới gặp được Chúa như lời Người phán : “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người phận nhỏ”. Kinh nghiệm cho thấy : Một người yếu đức tin mà có lòng kiêu căng tự mãn sẽ khó quay về với Chúa, hơn một kẻ dù mê đắm xác thịt mà có lòng tin vào Chúa. Bởi vì người sa ngã nếu có đức tin sẽ sớm nhận ra thân phận yếu hèn của mình để quay về giao hòa với Chúa. Ngày kia, một du khách đang đứng chiêm ngắm bức tượng Chúa chịu nạn thời danh của THOR-WALD-SEN. Nhưng ông ta nhìn ngắm hồi lâu mà chẳng khám phá ra một vẻ đẹp nào như lời đồn đại. Bỗng ông ta nghe thấy có tiếng người thì thầm bên tai : “Phải quì xuống ông mới có thể nhìn thấy khuôn mặt từ ái của Chúa”. Ông ta làm theo và bấy giờ ông đã khám phá ra vẻ đẹp tuyệt vời của bức tượng. Về phần chúng ta trong những ngày này, nếu biết khiêm hạ quì xuống trước nhan Chúa, thì chúng ta mới có thể gặp được lòng thương xót của Người.
4) CHU TOÀN SỨ MỆNH TIỀN SỨ BẰNG LỐI SỐNG VUI TƯƠI, KHIÊM TỐN VÀ PHỤC VỤ :
– Mùa Vọng là thời gian các tín hữu chúng ta mong chờ Chúa đến. Trong khi người Do thái mong Đấng Thiên Sai đến trong uy quyền vinh quang thì Chúa lại chọn đến trong khiêm hạ khó nghèo và âm thầm không ai hay biết. Trong khi người đời mong Chúa đến ban ơn cứu độ bằng con đường rộng rãi, thì Chúa lại chọn đi con đường thánh giá chật hẹp leo dốc và ít người dám đi. Ngày nay để nhận được ơn cứu độ là được vào Nước Trời, đòi người tín hữu phải tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, lắng nghe Lời Người và thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Mt 7,21-23). Đức Giê-su cũng dạy : đến ngày phán xét, chỉ những ai phục vụ Người hiện thân trong những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi mới được vào Thiên Đàng (x. Mt 25,34-36).
– Ngoài ra, chúng ta cũng cần làm các việc đạo đức và bác ái chia sẻ với lòng mến Chúa. Muốn biết việc cầu nguyện dâng lễ của mình có đẹp lòng Chúa không, thì cần phải nhìn vào hiệu quả : Nếu việc cầu nguyện dâng lễ làm cho tâm hồn chúng ta được bình an, thêm niềm vui và phấn khởi hiến thân phục vụ Chúa và tha nhân hơn… là dấu chúng ta đã làm các việc đạo đức theo thánh ý Thiên Chúa. Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Chúa cho thấy Ngài “chán ngán những buổi cầu nguyện, những nghi thức tôn giáo rỗng tuếch vì thiếu tình yêu” (x. Is 1,11-17). Ấy thế mà rất nhiều Ki-tô hữu hiện nay vẫn đang cầu nguyện dâng lễ theo luật nhưng lại thiếu lòng yêu mến như thế, hoặc đang làm các việc bác ái để tìm tiếng khen hay chỉ mong được thưởng công sau này (x. Mt 6,1-6). Vậy trong những ngày Mùa Vọng này, mỗi người chúng ta cần thực hành các việc đạo đức với tâm tình nào để chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến ?
– Trong Mục Vụ Gia đình, các bậc làm cha mẹ được mời gọi sống vui tươi trong bổn phận vợ chồng với nhau và cha mẹ đối với con cái. Nhiều gia đình ngày nay đã trở nên buồn bã thiếu sinh lực. Để có thể tìm lại niềm vui cho gia đình, các bậc cha mẹ cần sống vui tươi, và làm cho niềm vui lan tỏa trong gia đình mình. Hãy vui vì chúng ta được làm con Thiên Chúa, hãy đem Chúa vào trong đời sống của gia đình mình nhờ các giờ kinh gia đình, cầu nguyện trước mỗi bữa ăn… Các bạn trẻ đừng tìm vui trong men rượu, đừng giải sầu trong bài bạc, trong các quán hát ka-ra-ô-kê hay những quán cà-phê đèn mờ để tìm hưởng lạc thú bất chính… vì những thứ đó chỉ đem đến bệnh tật, gia đình bất hòa và ly tán, chứ không mang lại niềm vui và bình an thực sự. Hãy tìm kiếm niềm vui thực sự nơi Đức Giê-su, bằng cách gặp Ngài qua việc học Lời Chúa và cầu nguyện để được Ngài lấp đầy sự trống rỗng của chúng ta.
– Nhưng quan trọng hơn cả : Chúng ta chỉ có thể vui mừng và được bình an khi tâm hồn chúng ta sạch tội, không bị đam mê dục vọng bủa vây, không bị lương tâm dày vò, nhờ sám hối và đến với bí tích giải tội, năng dự lễ để rước Chúa vào lòng. Dù bên ngoài chúng ta có gặp phải các điều trái ý cực lòng, nhưng chúng ta vẫn có được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn. Bấy giờ chúng ta mới có thể sống hòa thuận với tha nhân với lòng tin yêu Chúa, thay vì thái độ xung đột, giận hờn mang lại bất hạnh.
- THẢO LUẬN : Noi gương Đức Giê-su cứu thế bằng con đường khiêm tốn yêu thương và phục vụ (x. Mt 11,5), bạn sẽ làm gì để nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su trước mặt người lương ?
- NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xưa Chúa đã dùng hành động cứu nhân độ thế để làm chứng về sứ mệnh Thiên Sai. Xin cho chúng con hôm nay biết làm chứng cho Chúa bằng việc hăng say phục vụ những người bệnh tật đau khổ, đồng thời luôn xét đoán ý tốt, nói tốt và phục vụ tha nhân vô vụ lợi. Nhờ đó chúng con chu toàn được sứ mệnh làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.- AMEN.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- A
NIỀM TIN ĐI VÀO CUỘC SỐNG – Lm. Đinh Viết Tiên OP
Thánh Gioan Tiền hô là sứ giả là chứng nhân. Đức Kitô là Đấng Thiên sai, Đấng đem lại Niềm Vui cho người khác. Ai dám nói là thánh Gioan không bị thử thách. Ngày xưa, các nhà thuyết giảng vẫn bình luận: thánh Gioan dù trong hoàn cảnh nào, ngài vẫn đóng vai trò chứng nhân. Đang trong vòng tù tội, ngài vẫn muốn cho các môn đệ học bài học chứng nghiệm: xem tận mắt, nghe tận tai… về Đấng Cứu Thế. Trước bao thử thách, ngài vẫn vững như bàn thạch.
Ngày nay, lại có ý kiến đặt ngược lại: Rất có thd thánh Gioan cũng bị thử thách. Trong tối tăm của ngục tù, tuy chân mang xiềng xích, Gioan cũng bị giao động: lạ thật, nếu là Đấng Thiên sai thì mình phải được giải oan chứ (xc Is 61:1-2 và Lc 4:18-20). Sao không thấy trả tự do cho người tù tội…
Còn Đức Kitô lại nhân cơ hội này, Ngài muốn tái khẳng định chương trình Cứu thế được ngôn sứ Isaia loan báo vẫn đang được họa lại từng nét.
An tâm đi,
Người mù được sáng
Người què chạy nhảy như hươu nai
Kẻ cùi hủi được lành sạch
Người chết sống lại
Và nhấg là kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.
Vậy thì thầy trò các anh cứ yên trí lớn. Các anh vẫn có quyền Vui Mừng và Hy Vọng, vì Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.
Đức Giêsu vẫn như vậy đó.
Hôm qua, hôm nay, và ngày mai, mãi mãi vẫn như vậy đó: Thương Yêu, Nhân Hậu với tất cả mọi người đặc biệt là với những người khổ đau.
Bạn có tin vào Ngài không?
Niềm tin phải đi vào cuộc sống. Đức tin không việc làm là đức tin chết (Gc 2:17). Thánh Gioan đã không bỏ lỡ cơ hội nào mà không làm chứng. Dù thuận tiện hay không thuận tiện, Lời Chúa vẫn được rao giảng. Chính đời sống chúng ta là một lời loan báo, một cách rao giảng có sức thuyết phục nhất.
Chỉ có loài thú mới làm ngơ trước những nỗi đau của người khác. Trong một đất nước còn nghèo đói, chúng ta không thể không bức xúc trong việc xây dựng quê hương (dĩ nhiên trong khả năng của mình). Còn bao nhiêu trẻ em nghèo không được đến trường. Còn bao nhiêu người bệnh tật già nua, neo đơn…không ai chăm sóc? Còn bao nhiêu… vẫn còn bao nhiêu thứ phải làm trong cõi đời nhân thế này?
Lạy Đức Giêsu là Cứu Chúa của con.
Là Đấng muôn dân mong đợi.
Ngài đã đến và đã ở cùng chúng con.
Ngài đã chia sẻ đến tận cùng của kiếp sống.
Ngài đã thi ân và đem lại niềm vui cho cõi sống nhân gian.
Xin cho con được trở nên giống Chúa, Đấng cư ngụ ở giữa cộng đồng nhân loại chúng con. Xin cho con biết xắn tay áo để hàn gắn thế giới và quê hương còn quá nhiều thương đau. Và xin cho con nên chứng nhân giữa lòng đời và chứng ta cho Tình Thương của Chúa.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- A
TRỌNG HƠN GIOAN TẨY GIẢ- Lm. Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh
“Không ai bởi nữ nhân sinh ra trọng hơn Gioan Tẩy Giả”
Bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu của Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng Năm A hôm nay có hai phần rõ rệt, phần thứ nhất Chúa Giêsu làm chứng về mình, và phần thứ hai Chúa Giêsu làm chứng về Gioan Tẩy Giả. Tuy phần Phúc Âm hôm nay nói về những lời Chúa Giêsu làm chứng về mình hơi có vẻ lạc đề với ý nghĩa của Mùa Vọng là thời điểm trông đợi Người đến như một Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Tinh dân Do Thái cũng là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, nghĩa là thời điểm Chúa Giêsu chưa giáng sinh, chưa “đến trong thế gian để làm chứng cho chân lý” (Jn 18:37) là chính Người, nhưng phần thứ nhất này cần phải có và không thể thiếu để làm nổi bật phần thứ hai. Tại sao? Theo tôi, tại vì mối liên quan mật thiết giữa Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả là Tiền Hô của Người, một mối liên hệ đã được tiên tri Isaia loan báo từ trước và cũng đã được chính Chúa Giêsu trích lại trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là: “Thánh Kinh đã viết về con người này như sau: “Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con để dọn đường lối cho Con sẵn sàng””. Như thế, mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả đây là mối liên hệ của một kẻ đi trước với vai trò “sứ giả” để làm công việc “dọn đường” cho một “Đấng đến sau”. Đúng thế, sứ mệnh của Gioan Tẩy Giả với biệt hiệu Tiền Hô chính là sứ mệnh của một “sứ giả” loan báo “Đấng đến sau” mình cho dân Yến Duyên biết, để sửa dọn lòng dân chúng, nhờ đó họ có thể nhận biết và chấp nhận Đấng “quyền năng hơn” (Mt 3:11) ngài, khi Đấng ấy “tỏ mình ra cho Yến Duyên” (Jn 1:31) “vào thời sau hết” (Heb 1:2). Sứ mệnh này của Gioan Tẩy Giả đã được chính thân phụ của thánh nhân là tư tế Giacaria bật miệng nói trước từ khi thánh nhân mới lọt lòng mẹ, như Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở đoạn 1 câu 76 và 77 như sau: “Hỡi con, con sẽ được gọi là tiên tri của Đấng Tối Cao. Vì con sẽ đi trước Chúa để dọn đường lối ngay thẳng cho Ngài, ở chỗ tỏ cho dân chúng biết về việc họ được cứu thoát khỏi tội lỗi”.
Đến đây, vấn đề đã được sáng tỏ, đó là, nếu Dân Ngoại muốn nhận biết “Đấng Cứu Tinh Nhân Trần” Redemptor Hominis, họ cần phải chấp nhận chứng tá liên quan đến Người là chính lời rao giảng về Người cũng như chứng nhân thừa sai của Người thế nào, đối với trường hợp dân Do Thái cũng thế, để có thể nhận biết Đấng Thiên Sai, Đấng họ đợi trông như đã được tiên báo trong Thánh Kinh của họ, họ cần phải chấp nhận những lời tiên tri nói về Người, và để có thể chấp nhận những lời tiên tri liên quan đến Đấng Thiên Sai ấy, họ còn phải chấp nhận cả con người của vị tiên tri ấy nữa, bằng không, những lời tiên tri của các vị ấy về Đấng Thiên Sai đối với họ chỉ là giả tạo. Không biết có phải nhận thấy rằng thành phần môn đồ của mình không tin vào lời chứng của mình về “Đấng đến sau”, mà, như phần đầu của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, Gioan Tẩy Giả ở trong tù mới sai họ trực tiếp đến với Đấng ấy để họ có thể nghe tận tai và thấy tận mắt những gì thánh nhân đã nói là sự thực, chứ tự mình, thánh nhân hoàn toàn không có vấn đề về những gì ngài tin vào Đấng ấy. Nếu quả thực đúng như vậy, thì việc sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “”Có phải “Ngài là Đấng phải đến chăng” hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?” trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan Tẩy Giả như âm thầm muốn nhắn nhủ với các môn đồ của ngài rằng: “Đấy, nếu các con không tin thày, thì các con hãy tự mình đi mà coi sẽ biết. Phần thày, thày không cần phải làm như thế. Bằng không, khi thày chưa bị ngục tù thày đã đến quan sát xem Ngài có thật là Đấng phải đến hay không rồi. Thày đã thấy Ngài và biết rằng Ngài là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, Đấng “uy quyền hơn” thày, thế thôi. Các con đã quên lời thày khẳng định với các con khi các con có lần báo cho thày biết về việc dân chúng kéo đến xin Người làm phép rửa cho đông hơn thày rồi sao. Thày đã nói với các con lúc ấy rằng: “Không ai có thể làm gì nếu không được từ trên ban cho” (Jn 3:27)”.
Thật vậy, để trả lời cho vấn nạn của môn đồ Gioan Tẩy Giả về nguồn gốc của mình, Chúa Giêsu đã nói đến “uy quyền” của Người, một “quyền uy” được thể hiện qua lời nói và việc làm của Người, tức Người muốn nói đến những gì Gioan Tẩy Giả thày của họ không làm được như Người (chẳng hạn các phép lạ) hay không làm được bằng Người (chẳng hạn về nội dung và tác dụng của lời Người rao giảng): “Các người hãy về thuật lại cho Gioan những gì các người đã nghe và đã thấy (chắc có thể trước khi lên tiếng hỏi Chúa Giêsu, thành phần môn đồ của Gioan Tẩy Giả đã âm thầm nghe lời Người nói và đã thấy việc Người làm rồi), đó là kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, và kẻ nghèo được nghe rao giảng tin mừng”. Câu Chúa Giêsu trả lời cho thành phần môn đồ của Gioan Tẩy Giả chẳng khác gì như Người có ý xác nhận với họ rằng: “Điều thày của các người làm chứng về Tôi rất là chính xác, như những gì các ngươi đã nghe và đã thấy đấy”. Như thế, khi Chúa Giêsu tự làm chứng về mình thì đồng thời Người cũng làm chứng cả cho Gioan Tẩy Giả nữa. Tuy nhiên, với thành phần môn đồ của Gioan Tẩy Giả thì Người làm chứng về Gioan Tẩy Giả một cách gián tiếp như vậy, một việc làm chứng trực tiếp căn cứ vào lời của Gioan làm chứng về Người, còn đối với chung dân chúng ở lại sau khi các môn đồ của Gioan “đi khỏi”, Người lại làm chứng cho Gioan Tẩy Giả một cách trực tiếp, liên quan đến chính bản thân và sứ vụ của thánh nhân, khi Người cho họ biết rằng thánh nhân thực sự là vị tiên tri Tiền Hô của Đấng Thiên Sai được Thánh Kinh nhắc đến trong Sách Tiên Tri Isaia, và Người kết luận: “Tôi bảo thật cho các người biết, trong lịch sử không hề có một người nào do phụ nữ sinh ra lại cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”. Vấn đề được đặt ra ở đây là, chẳng lẽ thánh nhân lại cao trọng hơn cả Mẹ Maria, một nhân vật cũng do phụ nữ sinh ra, song lại là một đệ nhất tạo vật về ân sủng, thậm chí hơn cả Chúa Giêsu hay sao, vì Người cũng là người thật, cũng được sinh ra bởi một người nữ? Nếu quả thực như vậy thì, theo ý của Chúa Giêsu ở đây, thánh nhân cao trọng nhất trong cả loài người đây phải hiểu như thế nào?
Đúng thế, trong cả loài người không có một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả theo lời mạc khải và tuyên bố của Chúa Giêsu ở đây, theo tôi, có thể hiểu về vai trò Tiền Hô của thánh nhân. Là một Tiền Hô, thánh nhân không phải chỉ thực hiện việc rao giảng về Đấng Thiên Sai, như những vị tiên tri cũng thuộc thời Cựu Ước trước ngài, mà còn tự mình nhận diện Người, và nhất là chẳng những điểm mặt Người cho dân Do Thái thấy, mà còn giới thiệu Người cho dân Tân Ước nữa. Thánh nhân vừa tự nhận diện vừa điểm mặt Đấng Thiên Sai cho dân Do Thái, khi thánh nhân tuyên bố trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 1 câu 34: “Giờ đây chính tôi đã thấy và làm chứng: “Đó là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn””. Cũng trong Phúc Âm Thánh Gioan câu 35 ngay sau đó, thánh nhân còn giới thiệu Đấng Thiên Sai cho cả dân Tân Ước như sau: “Ngày hôm sau Gioan lại ở đó với hai môn đồ của mình. Khi thấy Chúa Giêsu đi ngang qua thì nói: “Kìa! Chiên Thiên Chúa đó!””. Thành phần dân Tân Ước đây, như Phúc Âm Thánh Gioan ghi nhận tiếp ở câu 27, đó là: “Hai môn đệ nghe ngài nói thế thì đã đi theo Chúa Giêsu”. Phải, Cựu Ước và Tân Ước gặp nhau chính vào lúc này, cách nhau giữa ngày hôm trước và “ngày hôm sau”. Giao điểm giữa Cựu Ước và Tân Ước cũng chính là ở chỗ này, ở địa điểm “Chúa Giêsu đi ngang qua” ấy. Bởi vì, sau khi hai môn đệ của thánh nhân đã “đến mà xem chỗ Người ở và đã ở lại với Người hôm đó”, như Phúc Âm Thánh Gioan tiếp tục cho biết ở câu 39, và kể tiếp ở các câu 40-42 như sau: “Một trong hai người môn đồ đã nghe Gioan mà theo Người này là Anrê anh em của Simon Phêrô. Việc đầu tiên của Anrê là đi tìm người anh em của mình là Simon mà nói rằng: “Chúng tôi đã gặp Đấng Thiên Sai!”. Anh đã dẫn người anh em của mình đến với Chúa Giêsu, Đấng đã nhìn người anh em ấy mà phán: “Con là Simon, con Gioan; tên của con sẽ được gọi là Kêpha (tức là Đá)”.
Việc giới thiệu Đấng Thiên Sai cho dân Tân Ước như thế hết sức quan trọng. Ở chỗ, nếu giới thiệu sai, nghĩa là nếu Đấng Thiên Sai ấy là một kitô giả, thì Giáo Hội Kitô giáo bây giờ cũng chỉ là một tôn giáo nhân bản, đạo bởi người, hơn là một thiên đạo, đạo bởi trời. Mà nếu Đấng Thiên Sai là một kitô giả thì ơn cứu chuộc cũng là giả, vì Đấng Thiên Sai ấy không phải là Đấng Cứu Thế, “vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1Tim 2:5). Về phần dân Do Thái, chính vì họ không chấp nhận chứng của Gioan (xem Gioan 5:35-36) nên họ mới tiếp tục chờ Đấng Thiên Sai của họ cho tới nay. Bởi thế, nếu trong Dự An của Thiên Chúa, chỉ có một nhân vật được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa là Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc, thì cũng chỉ có một nhân vật duy nhất được tuyển chọn làm tiền hô cho Thiên Chúa Làm Người, và nếu vai trò tiền hô là một vai trò độc nhất vô nhị vô cùng quan trọng đến đức tin và phần rỗi đời đời của loài người như thế, thì thân phận của con người tiền hô Gioan Tẩy Giả quả thực là một con người “cao trọng” nhất vậy. Thậm chí, có thể nói, nếu về nhân tính Đấng Thiên Sai là con của Trinh Nữ Maria thế nào, thì về thời điểm, Gioan Tẩy Giả cũng “cao trọng” hơn cả “Con Người Giêsu Kitô” (1Tim 2:5) lúc Người đến để được thánh nhân làm phép rửa cho, cũng như để nhờ phép rửa của thánh nhân mà, như thánh nhân tuyên bố ở Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 1 câu 31: “Người có thể tỏ mình ra cho dân Yến Duyên”. Nếu Gioan Tẩy Giả, khi làm phép rửa cho Đấng Thiên Sai, đã đóng vai trò như thể “cha thiêng liêng” của Người, nghĩa là về vai vế “cao trọng” hơn Người, như trong liên hệ huyết tộc thánh nhân là anh họ của Người, mà còn ai “cao trọng” hơn Đấng Thiên Sai, thì quả thực, đúng như lời Chúa Giêsu mạc khải và tuyên bố về con người vị tiền hô của Người trên đây: “Tôi bảo thật cho các người biết, trong lịch sử không hề có một người nào do phụ nữ sinh ra lại cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”, kể cả Mẹ Maria.
Cho dù Giáo Hội Công Giáo Rôma vẫn mừng Lễ Sinh Nhật của Mẹ Maria ở bậc lễ kính, còn của Thánh Gioan Tẩy Giả ở bậc lễ trọng, thế nhưng, về lãnh vực ân sủng, như Chúa Giêsu khẳng định trong cùng một câu Người tuyên nhận tính chất “cao trọng” nơi tác vụ của Gioan Tẩy Giả, đó là: “Tuy nhiên, một kẻ nhỏ mọn nhất trong vương quốc của Thiên Chúa còn cao trọng hơn ngài”. Bởi vì, như Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 5 cau 35, “ngài là một cây đèn chiếu sáng” mà thôi, nghĩa là, theo Thánh Ký Gioan cắt nghĩa ở đoạn 1 câu 6-8: “ngài đến như một chứng nhân làm chứng cho ánh sáng, để nhờ ngài tất cả mọi người có thể tin tưởng, nhưng ngài chỉ làm chứng cho ánh sáng thôi, chứ chính ngài không phải là ánh sáng”. Trong khi đó, Kitô hữu nói chung, và các tông đồ ngày xưa ở Bài Giảng Trên Núi nói riêng, bao gồm cả Anrê, người môn đệ của Gioan Tẩy Giả, người đã nghe thánh nhân giới thiệu Đấng Thiên Sai, đã đi theo Người, ở với Người, nhận ra Người và rủ anh em mình đến cùng Người, thành phần môn đệ theo lời Chúa Giêsu mạc khải và khẳng định về họ, được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi nhận ở đoạn 5 câu 14: “Các con là ánh sáng thế gian”, một thứ ánh sáng không phải tự họ mà có, song phản chiếu Đấng tuyên bố cũng trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 8 câu 12: “Tôi là ánh sáng thế gian”. Như thế, sở dĩ “một kẻ nhỏ mọn nhất trong vương quốc của Thiên Chúa còn cao trọng hơn ngài”, hơn Gioan Tẩy Giả là con người “cao trọng” nhất trong thành phần được phụ nữ sinh ra, là vì họ được hiệp thông với Con Thiên Chúa Làm Người, một trạng thái hiệp thông bí tích khiến cho họ có thể phản ảnh Người về phương diện chứng nhân tông đồ. Chính vì ở trong trạng thái hiệp thông ân sủng thần linh này mà Giáo Hội mới là hiền thê, là nhiệm thể (bên trong hay thuộc về) Chúa Kitô, và Kitô hữu mới là chi thể của Người, trong khi đó, Gioan Tẩy Giả chỉ đóng vai trò phù rể (bên cạnh hay sát cạnh) trong tiệc cưới Nước Trời, trong Mầu Nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa Làm Người mà thôi, như chính ngài tự nhận ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 29: “Chính chàng rể mới là người lấy cô dâu. Người phù rể đợi ở đó nghe chàng rể và hân hoan nghe thấy tiếng của chàng. Đó là niềm vui của tôi, và là một niềm vui trọn vẹn”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Thánh Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho Chúa Kitô, một “Đấng đến sau” thánh nhân; Giáo Hội Kitô giáo chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng đã đến: “triều đại Thiên Chúa đã đến” (Mt 3:2). Bởi thế, thánh Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho Chúa Kitô như một vị tiên tri Tiền Hô, còn Dân Tân Ước làm chứng cho Người như một chứng nhân Tông Đồ. Mà đã nói đến chứng nhân là phải nói đến Thánh Thần, như lời Chúa Giêsu đề cập tới ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 26-27: “Thần Chân Lý đến từ Cha… sẽ làm chứng về Thày. Các con cũng phải làm chứng nữa”, hay như lời Người báo cho các môn đệ biết trước khi Người thăng thiên về trời ở Sách Tông Vụ đoạn 1 câu 8: “Các con sẽ nhận được quyền năng khi Thánh Thần xuống trên các con; rồi các con sẽ là những chứng nhân của Thày…”. Vậy Thánh Thần nơi Gioan Tẩy Giả với Thánh Thần nơi Các Tông Đồ nói riêng, cũng như thành phần Kitô hữu nói chung, có khác nhau không? Nếu cũng chỉ là một Thánh Thần thì tại sao Chúa Giêsu chưa sống lại, tức chưa đến lúc thông Thánh Thần của Người ra cho các Tông Đồ, như Phúc Âm Thánh Gioan ghi nhận ở đoạn 20 câu 22 cũng như ở đoạn 7 câu 39, Thánh Gioan Tiền Hô đã có thể làm chứng về Người? Phải chăng không có Thánh Thần không ai có thể cảm nhận được Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa Làm Người như dân Do Thái vẫn mong đợi, cũng là Vị Thiên Chúa “hiện có, đã đến, và sẽ đến” (Rev 1:4), như ý nghĩa làm nên Mùa Vọng chúng ta đang cử hành đây?
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG-A
CHÚA ĐÃ, ĐANG VÀ SẼ ĐẾN- Lm. Micae Võ Thành Nhân
Thánh Gioan Tẩy Giả là một mẫu gương để chúng ta noi theo trong việc chờ đợi Chúa đến trong Mùa Vọng.
Ngài trở thành gương mẫu cho chúng ta, trước hết là do chính Chúa đã yêu thương, đề cao, khen tặng ngài: “ Thật Ta bảo các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả “ ( Mt 11, 11 ).
Chúa khen ngài vì Chúa biết rõ ngài. Ngài là anh họ của Chúa. Ngài có một lối sống khiêm nhường thẩm sâu. Chính vì thế mà ngài đã làm đẹp lòng Chúa: “ Người phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại “ ( Ga 3, 30 ).
Chúa biết ngài, còn ngài có biết Chúa và biết đến mức độ nào thì chúng ta chưa hiểu rõ cho lắm, nhưng chúng ta có thể hiểu được phần nào ý nghĩa của việc ngài sai các môn đệ của ngài đến gặp Chúa trong lúc ngài ở trong tù ngục:
-Có thể thánh Gioan biết mình chẳng còn sống được bao lâu trên trần gian này nữa, cho nên ngài đã sai các môn đệ của ngài đến gặp Chúa và hỏi Chúa: “ Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác ? “ ( Mt 11, 3 ). Dường như ngài có ý muốn giới thiệu Chúa cho các môn đệ của ngài để họ theo Chúa, vì Chúa là Đấng Cứu Thế mà muôn dân đang trông đợi: “ Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian “ ( Ga 1, 29 ).
-Cũng có thể Ngài chưa biết Chúa nhiều, cho nên ngài nhờ các môn đệ của ngài đến gặp Chúa để rồi qua đó ngài xác tín niềm tin vào Chúa nhiều hơn nữa.
Chúa không trả lời trực tiếp cho các môn đệ của thánh Gioan được ngài sai đến là có phải hay không phải Chúa là Đấng phải đến, mà Chúa lại nói cho họ biết rằng hãy nghe, hãy nhìn qua lời rao giảng và các việc làm của Chúa: “ Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: Người mù được thấy, người què được đi, người phong hủi được sạch, người điếc được nghe, người chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta “ ( Mt 11, 5 ).
Chúa nói như thế là vì Chúa muốn cho các môn đệ của thánh Gioan hãy biết quan sát thời cuộc để nhận ra được Chúa đang hiện diện ở đây. Đàng khác, khi các môn đệ của ngài biết Chúa là Đấng Cứu Thế và theo Chúa rồi thì ngài sẽ rất vui mừng và thêm xác tín vào Chúa hơn. Còn riêng bản thân ngài thì ngài biết đây là sứ mạng cao cả nên ngài đã ở trong sa mạc để cầu nguyện, chay tịnh. Người ta có thể nghĩ ngài vì chay tịnh và cầu nguyện nên ngài ốm yếu suy dinh dưỡng giống như cây lau sậy phất phơ trước gió không có sức sống. Nhưng không, ngài mạnh mẽ và quyết liệt trong tinh thần và thể xác để rồi ngài đi khắp nơi rao giảng cho dân chúng sự ăn năn sám hối mà chờ Chúa đến. Người ta cũng không tìm thấy nơi ngài cuộc sống sa hoa, giàu có, sang trọng, ăn mặc lả lướt, óng ả. Những thứ này hãy vào trong cung điện vua chúa, quan quyền thì thấy rõ ràng. Ngài khiêm nhường cho nên không có kiểu cách sống này. Ngài ăn châu chấu, uống mật ong, thắt lưng bằng dây da thú. Ngài là tiên tri và còn hơn một tiên tri nữa, vậy mà ngài nói: “ Ngài không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Chúa “ ( Lc 3, 16b ).
Chúa yêu thương ngài và đó là nguồn động lực để giúp ngài đi khắp vùng rao giảng sự sám hối chờ Chúa đến và cũng giúp ngài dám hy sinh mạng sống để là chứng cho Chúa, cho sự thật.
Mùa vọng là mùa Chúa thể hiện tình yêu của Chúa nơi mỗi người chúng ta. Tình yêu của Chúa là động lực là nguồn hy vọng giúp chúng ta chờ Chúa đến. Chúng ta chờ đợi trong hy vọng. Chúa không bao giờ để chúng ta thất vọng. Nhưng nhiều lúc chờ Chúa lâu quá chúng ta có thể rơi vào tình trạng chùng chân mõi gối. Thánh Giacôbê trong bài đọc hai hôm nay khuyên chúng ta hãy kiên nhẫn đợi chờ Chúa đến như người nông phu kiên nhẫn trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu.
Trong khi chờ Chúa đến, chúng ta hãy nâng đỡ nhau: “ Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm tăng sức những đầu gối mõi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi “ ( Is 35, 3 ). Chúng ta nâng đỡ và giúp nhau sống đạo tốt để khi Chúa đến, chúng ta sẽ vui mừng, hoan hỷ, không còn đau buồn, rên xiết nữa.
Lạy Chúa, hôm nay là Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng, Chúa nhật màu hồng, Chúa nhật của niềm vui và hy vọng. Chúa gần đến rồi, và chúng con sẽ gặp được Chúa. Chúa đến đem ơn cứu độ cho chúng con. Chúng con vui mừng và loan báo cho mọi người khắp nơi trên thế giới biết Chúa chính là Đấng Cứu Độ mọi người để họ tin Chúa và sống theo Lời Chúa dạy mà được hạnh phúc đời sau mà còn cả đời này nữa.
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin mà đợi chờ ngày lễ sinh nhật Đấng Cứu Thế, xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả, để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới và họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Amen.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- A
NIỀM VUI TRONG MÙA VỌNG- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Chúa nhật III mùa vọng được gọi là Chúa nhật hồng. Hồng là bởi vì phụng vụ thánh lễ hôm nay từ lời nguyện cho đến các bài thánh ca, nhất là ba bài đọc Lời Chúa làm nổi bậc lên bầu khí vui tươi.
Bài đọc 1: gợi lại hình ảnh dân Israel đang sống trong cảnh lưu đầy khốn khổ. Đêm ngày họ khao khát Đấng cứu độ đến. Lúc bấy giờ Chúa sai ngôn sứ Isaia loan báo cho họ về viễn cảnh tương lai sắp đến, là hãy can đảm và vui tươi, vì: “Thiên Chúa anh em đây rồi; Chính Người sẽ đến cứu anh em”. “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo. Họ sẽ hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất”.
Sang bài đọc II: thánh Giacôbê nhấn mạnh khía cạnh kiên nhẫn đợi chờ. Sự kiên nhẫn này được ví như người nông dân trồng lúa, phải vất vả chăm bón và chờ đợi ngày đơm bông kết hạt. Như vậy, để niềm vui được trọn vẹn, thánh nhân đã khuyên bảo tín hữu hãy sống hòa thuận trong vui tươi.
Còn bài Tin Mừng: thánh sử Mátthêu kể lại việc ông Gioan Tẩy Giả sai các môn đệ đến gặp Đức Giêsu và hỏi xem: “Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác”?
Các nhà chú giải Thánh kinh giải thích rằng: Khi sai môn đệ đi hỏi như thế, không phải Gioan không biết Đấng Cứu Thế. Thế nhưng, ông muốn cho các môn đệ của mình gặp được niềm vui trọn vẹn, bởi vì vai trò của ông chỉ là người đưa đường, chỉ lối, còn Đức Giêsu mới là con đường, là đích điểm. Chính vì vậy, các môn đệ của ông sẽ không thể có được niềm vui trọn vẹn nếu cứ bám theo ông. Niềm vui của họ chỉ có thể tràn đầy khi gặp trực tiếp Đức Giêsu và chứng kiến những việc Ngài làm qua các dấu chỉ như: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, đúng như lời tiên tri Isaia đã báo trước về vai trò Đấng Thiên Sai.
Trong niềm vui này, Mẹ Maria là người diễm phúc đón nhận đầu tiên, khi tổng sứ thần Gabriel loan báo trong buổi truyền tin: “Mừng vui lên! Hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Khi được cưu mang niềm vui Giêsu trong lòng, Mẹ Maria không giữ riêng cho mình, nhưng vội vả lên đường mang niềm vui đó đi chia sẻ cho người chị họ là bà Êlisabeth. Tại nơi đây, Mẹ Maria cất lên lời ngợi khen” Tâm hồn tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi”.
Tiếp đến, Gioan tẩy giả đã nhảy mừng ngay từ trong lòng mẹ trước Đấng cứu độ. Ông vui vì được làm tiền hô cho Đấng Cứu thế. Ông vui được làm người đi trước dọn đường để Đức Giêsu là đấng cứu độ.
Và đỉnh cao của niềm vui này, chính là trong đêm Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, ca đoàn các thiên thần từ trời xuống hát mừng và báo tin vui cho các Mục đồng: “Đây ta báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho cả toàn dân, đêm nay Đấng cứu độ đã giáng sinh cho chúng ta”.
Như vậy, Đức Giêsu chính là niềm vui mà Thiên Chúa Cha đã ban cho nhân loại. Niềm vui của một vị Thiên Chúa vì xót thương nhân loại, nên đã hạ cố xuống trong lòng nhân thế, tên Ngài là Emmanuel.
Anh chị em thân mến,
Người ta nói rằng: nỗi buồn chia sẻ nỗi buồn vơi, nhưng niềm vui chia sẻ niềm vui tăng.
Thực vậy, khi được cưu mang niềm vui Giêsu trong lòng, Mẹ Maria không giữ riêng cho mình, nhưng vội vả lên đường mang niềm vui đó đi chia sẻ cho người khác.
Khi Gioan tẩy giả cảm nghiệm được niềm vui Giêsu do Mẹ Maria đến, ông cũng không giữ riêng cho mình, nhưng ra đi rao giảng sự sám hối, chuẩn bị cho dân chúng đón nhận niềm vui Giêsu.
Các Mục đồng khi đến máng cỏ Bêlem gặp thấy Hài Nhi Giêsu, họ trở về chia sẻ bằng việc tung hô ca ngợi Chúa, về tất cả những gì họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Chúng ta cũng vậy, mỗi khi rước lấy Chúa Giêsu Thánh Thể trong lòng, noi gương Mẹ Maria; bắt chước Gioan Tẩy giả và các chú Mục đồng, là hãy mang niềm vui Giêsu, đi chia sẻ cho những người chúng ta gặp gỡ.
Xin cho niềm vui mừng ngày đại lễ Chúa Giáng Sinh sắp tới, không dừng lại ở việc trang trí hang đó bề ngoài, nhưng là niềm vui sâu thẳm bên trong tâm hồn, để mỗi người nhận ra sự hiện diện của Chúa, nghe được tiếng Chúa và mở cửa ra, mời Chúa bước vào tâm hồn cũng như gia đình mình. Chúa chính là thượng khách đem lại bình an và niềm vui cho tâm hồn và gia đình chúng ta. Amen.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- A
VỮNG TÂM- Lm. Trần Việt Hùng
Vào một ngày đẹp trời, có một ông cụ ngồi trên ghế xích đu vẻ đăm chiêu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ một bé gái tung banh rơi vào sân nhà ông. Cô bé chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen: “Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên ghế này, ông đang chờ đợi ai vậy?” Ông nói: “Cháu còn quá nhỏ làm sao hiểu được điều ông mong đợi.” “Ông à, mẹ cháu nói rằng nếu có điều gì trong lòng, thì hãy nói ra mới hiểu rõ hơn.” Nghe cô bé nói thế, ông liền thổ lộ tâm tình: “Ông đang chờ đợi Chúa đến.” Cô bé kinh ngạc, ông già giải thích: “Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa hiện hữu. Ông cần một dấu hiệu, cháu à.” Bấy giờ cô bé lên tiếng: “Ông chờ một dấu hiệu hả? Thưa ông, Chúa đã cho ông dấu hiệu rồi: Mỗi khi ông hít thở không khí, nghe tiếng chim hót, nhìn hạt mưa rơi… Chúa cho ông dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ và trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu. Chúa luôn hiện diện nơi đây.”
Thiên Chúa vô hình hiện diện mọi nơi và trong mọi lúc. Thiên Chúa luôn đồng hành với dân Ngài đã chọn để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Mầu nhiệm về Thiên Chúa Ngôi Hai được hé mở từng bước. Trải qua lịch sử cứu độ, dân chúng luôn khao khát mong chờ một chung cục được tự do giải thoát. Qua từng giai đọan, Thiên Chúa đã sai các tiên tri đến kêu gọi lòng trung tín, sự phấn chấn và khuyến khích hướng dẫn dân chúng. Tiên tri Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng: “Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan.” (Is 35,1). Hình ảnh cảnh hoang địa trơ trọi, khô cằn và cạn nguồn mong đợi suối nguồn sự sống. Isaia khơi lên tia hy vọng của sự vui mừng và hân hoan. Dân Chúa phải trải nghiệm nhiều thăng trầm khổ ải qua các thế hệ để mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Isaia loan báo: “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi.” (Is 35,4).
Trong bất cứ một dự kiến nào muốn đạt kết quả tốt, chúng ta đều phải kiên nhẫn đợi chờ mọi sự diễn tiến. Vấn đề niềm tin sống đạo cũng thế, chúng ta không thể cắt bớt thời gian. Sự gì đến ắt sẽ đến. Thánh Giacôbê nhắc nhở các tín hữu: “Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu.” (Gc 5,7). Hình ảnh của bác nông phu nơi ruộng rãy cày bừa và trồng trọt là hình ảnh rất đẹp và chính xác. Chính xác cả về phẩm lẫn lượng, cả về thời gian và không gian. Kiên nhẫn đợi chờ là một đức tính tốt trong đời sống đạo. Mọi sinh họat của đời sống Giáo Hội trên trần thế cần phải được thử thách, tôi luyện để phát triển và trưởng thành. Thời gian là của Chúa. Mầu nhiệm ơn cứu độ được lồng vào đời sống của con người theo sự phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Chúng ta không thể đi những bước nhảy vọt trong cuộc sống đạo nhưng phải kiên trì phấn đấu từng bước.
Sự kiên tâm sống đạo đòi hỏi mỗi tín hữu phải cố gắng không ngừng. Mời gọi tu tâm luyện tính và tập tành các nhân đức trong đời sống hằng ngày. Đời sống đạo, nếu chúng ta không gieo, lấy gì mà gặt. Trong Giáo Hội có biết bao nhiêu dòng tu, tu hội và hội đoàn, các tu sĩ nam nữ miệt mài thanh luyện đời sống trong cầu nguyện và tu thân để nên trọn lành. Là người tín hữu cũng thế, chúng ta cần trải nghiệm những thử thách, phấn đấu, kiên trì sống đạo và hành đạo. Không hy sinh khổ luyện, làm sao có thể vững bước trên đường nhân đức. Chúng ta đừng nhẹ dạ để rơi vào những hình thức kéo lôi phù phiếm và cảm xúc nhất thời. Muốn được lãnh nhận ân sủng của Chúa, chúng ta cần chuẩn bị tâm hồn thanh sạch, sống đời ngay thẳng và thực hành tin yêu. Nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào những nghi thức bề ngoài thì không thể sinh hiệu quả biến đổi nội tâm. Trong hiện tại có nhiều khuynh hướng hành đạo giống như kiểu ‘mì ăn liền’. Họ nghĩ rằng cứ thực hành đủ các thủ tục nghi thức là đương nhiên sẽ nhận ân sủng nhãn tiền. Sự kiên trì tin đạo, sống đạo và hành đạo trưởng thành đòi hỏi niềm tin và cam kết nhiệt thành. Chúng ta cần vun xới và củng cố lòng tin qua mọi biến cố cuộc đời.
Ông Gioan Tẩy Giả đang bị giam giữ cũng nóng lòng muốn biết Chúa Giêsu có chính thật là Đấng Cứu Thế hay không. Ông sai môn đệ đến thưa Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?” (Mt 11,2). Ông Gioan muốn các môn đệ của mình nhận biết Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa không chỉ cho riêng ông Gioan, nhưng cho các môn đệ của ông. Các ông đã an tâm nhận diện ra sứ mệnh và vai trò của Chúa Giêsu trong công cuộc cứu độ qua các dấu chỉ: Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó.” (Mt 11,4-5). Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời mà các tiên tri đã loan báo về Ngài.
Các dấu hiệu từ trời cao với quyền năng của Chúa đã đem lại hiệu qủa thực sự biến đổi môi trường và chữa lành toàn diện con người. Suốt dọc lịch sử nhân loại, từ tạo thiên lập địa, ngoài Chúa Giêsu Kitô, không có vị nào có thể trực tiếp thực hiện các phép lạ từ chính sức mạnh nội tâm của mình. Biết rằng đôi khi Thiên Chúa cũng trao ban các đặc sủng cho một số vị tổ phụ và các thánh như Thánh Gioan Vianney, Piô Năm Dấu quê ở Pietrelcina, Antôn Pađua, Vinh Sơn Ferrier…, các ngài có thể thực hiện một số việc lạ lùng trong giới hạn. Các thánh sống là những người có đời sống kết hợp sâu xa, chuyên tâm ăn chay, cầu nguyện và chìm đắm trong ân sủng của Chúa. Những trường hợp có sự lạ ngoại thường này cũng rất hiếm xảy ra trong đời sống Giáo Hội. Các phép lạ của Chúa Giêsu là dấu chỉ của Tin Mừng cứu độ. Tuy nhiên, qua mọi thời, đều có những người tự thần thánh hoá chính mình để chiêu hồn người khác. Họ cũng không khác gì các tiên tri giả và những nhà làm ảo thuật đại tài dùng kỹ xảo để dễ dàng qua mắt mọi người. Chúng ta phải luôn cảnh giác và tỉnh thức học hỏi kỹ lưỡng những hình thức mị dân này. Họ không phải là Chúa có uy quyền biến đổi chữa lành thân xác và linh hồn, mà chỉ có thể tạo gây cảm giác thân, sinh, lý và xúc động tâm linh nhất thời chóng qua.
Chúa Giêsu xác nhận Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô dọn đường: “Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: ‘Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con.’” (Mt 11,10). Gioan được vinh dự giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Biết bao người đã nghe Chúa giảng, gặp gỡ và nhận lãnh các dấu lạ nhưng có mấy người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Trong đám đông theo Chúa, có người chỉ tò mò nhìn xem cho biết, có người chỉ muốn được nhận lãnh ân huệ và có người ùa theo đám đông vì hiếu kỳ. Đâu có mấy người thực sự muốn đi theo Chúa để thực sự đổi đời và canh tân cuộc sống. Xưa cũng như nay, tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì dân Dothái xưa. Chúng ta nghe, đọc, viết và suy gẫm thật nhiều lời của Chúa, các giáo huấn của Giáo Hội và chứng kiến biết bao sự lạ lùng trong cuộc sống nhưng mấy ai tin theo Chúa cho trọn.
Lạy Chúa, đời sống đạo của chúng con hầu như vẫn cứ dậm chân tại chỗ. Tinh thần thì nguội lạnh và mệt mỏi, còn thân xác nặng nề và yếu đuối kéo lôi chúng con lùi bước. Chúng con chỉ tìm kiếm sự hơn thua ở đời trọc này mà quên đi sứ mệnh cao cả là mong tìm ơn cứu độ. Thánh Giacôbê nhắc nhở: “Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa.” (Gc 5,9).
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG-A
NHẪN NẠI ĐÓN CHỜ CHÚA ĐẾN- Lm. GB. Hoàng văn Khanh
- Gioan dọn đường
Bên bờ sông Giođan, Gioan Tẩy Giả xuất hiện, rao giảng và làm phép rửa sám hối để dọn đường cho Đấng Thiên Sai sắp đến, như lời ông tự giới thiệu :“Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối; Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”(Mt 3,11). Sứ điệp của ông về sự hoán cải thật đanh thép và minh bạch: “Lưỡi rìu đặt sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả tốt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10); “Người sẽ cam nia rê lúa, thóc tốt sẽ thu vào kho và lúa lép sẽ quăng vào lửa” (Mt 3,12). Theo ông, Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường sẽ xuất hiện như vị thẩm phán chí công: tiêu diệt sự dữ, trả lại công bình cho những kẻ bị ức hiếp, cứu thoát những ai khốn khổ và khai mở thời cánh chung tràn trề hoan lạc, như Isaia đã từng loan báo (Is 35, 1-6.10). Ông nhiệt thành rao giảng và sung sướng chờ đón ngày ấy chóng đến ! Và này, Chúa Giêsu xuất hiện. Ông đã làm chứng về Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34), là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,36) và chỉ cho mọi người biết đó chính là Đấng mà ông đã loan báo (Ga 1,29). Sau đó, ông bị bỏ tù (Mt 11,2) vì đã can đảm làm chứng cho sự thật khi can ngăn nhà vua Hêrôđê Agrippa không được lấy vợ của anh mình là Philippê (Mt 14,3-12). Sứ vụ dọn đường của Gioan chấm dứt với việc ông vào tù, để bắt đầu sứ vụ của Chúa Giêsu với việc Người chịu phép rửa và được tấn phong Mêsia ngôn sứ và vương đế (x. Lc 3,19.21). Giai đoạn chuẩn bị kết thúc với Gioan Tẩy Giả, mở ra giai đoạn mới: Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng và rao giảng Nước Thiên Chúa.
- Chúa đã đến
Thật khác xa với những gì mà Gioan đã quan niệm vì Chúa Giêsu đến không phải để đoán phạt nhưng để cứu chữa những gì hư mất; Người không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt 9,13). Người chính thật là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã từng loan báo, như chính Người, trong buổi khai mạc sứ vụ tại Hội đường Nadarét, đã áp dụng cho mình sấm ngôn Isaia chỉ về Đấng Thiên Sai(Lc 4,16-21). Người quan tâm và yêu thương hết mọi người, đặc biệt những người khó nghèo và tội lỗi là những hạng người bị xã hội ruồng rẫy và bỏ rơi. Người chữa lành các bệnh nhân; và mỗi khi chữa lành bệnh phần xác, Người quan tâm hơn đến việc chữa trị tâm hồn, nghĩa là giải thoát họ khỏi sự thống trị tội lỗi và đưa vào đời sống ân tình với Thiên Chúa và tha nhân. Người hiền lành, khiêm tốn và hết tình phục vụ: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình”. Mọi người từ khắp nơi tuôn đến để nghe Người giảng dạy và để được Người chữa lành các thứ bệnh tật.
- “Ông có phải là Đấng phải đến…?”
Ngồi trong tù, Gioan vẫn hướng lòng về Đấng Thiên Sai và chờ đợi thời mới. Khi được nghe biết về những hoạt động của Chúa Giêsu, ông cảm thấy băn khoăn và hoang mang. Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường phải là Đấng đến để tiêu diệt sự dữ, tái lập trật tự công lý và khai mở thời cánh chung. Đàng này Chúa Giêsu mà ông đã từng làm chứng và chỉ cho mọi người biết lại cư xử hiền hoà, khiêm tốn, yêu thương và tha thứ. Ông sai các đồ đệ đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng phải đến, hay còn phải đợi một Đấng khác.
Gioan nóng lòng chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng lại là một Mêsia theo quan niệm của các ngôn sứ thời chuẩn bị, đồng thời cũng là quan niệm của người đương thời về một Mêsia chính trị, đến để phục hưng dân tộc. Còn Chúa Giêsu, Người xác nhận mình là một Mêsia mà các ngôn sứ đã từng loan báo: rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành các bệnh tật, xua trừ ma quỷ …., nhưng không phải là một Mêsia theo quan niệm chính trị, mà là một Mêsia đến thiết lập vương quốc sự thật và yêu thương bằng năng lực tình yêu và phục vụ, một Mêsia cứu độ nhân loại bằng con đường đau khổ của người Tôi trung. Và đó chính là điều gây cớ vấp phạm cho nhiều người như ông Simêon đã từng loan báo ngày Đức Maria dâng trẻ Giêsu vào Đền Thờ (Lc 2,34). Cách trả lời gián tiếp của Chúa Giêsu vừa là một trấn an Gioan, đồng thời xác định cho ông biết Chúa Giêsu thực hiện công cuộc cứu độ nhân loại không phải bằng con đường vinh quang, nhưng bằng con đường thương khó và tử nạn như Isaia đã loan báo về người Tôi trung (Is 52,13-53,12). Cần nhìn vào các việc Người đang làm mà coi đó như là những dấu chỉ để có thể nhận ra Người là Đấng Mêsia.
- Nhẫn nại đón chờ Chúa đến
Trong một thời đại mà xem ra sự dữ đang lấn lướt, công lý không được tôn trọng, người công chính thường bị ghét bỏ và thua thiệt. Người tín hữu mong chờ Chúa đến để tiêu diệt sự xấu và kẻ gian ác, thiết lập lại trật tự công bình, và khai trương thời đại mới. Đó cũng chính là điều mà Gioan hằng nóng lòng chờ đợi. Thế nhưng, Thiên Chúa đã mạc khải Ngai là Thiên Chúa hay thương xót, chậm giận và không chấp tội (Xh 34,6-7). Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng yêu thương và tha thứ. Người thiết lập vương quốc tình yêu bằng sự phục vụ và tình yêu tự hiến. Vì thế, Người nhẫn nại chờ mong con người hoán cải để ban ơn tha thứ (Lc 13,6-9). Thánh Phaolô coi sự nhẫn nại là hoa trái của Thần Khí (Gl 5,20). Thánh Giacôbê khuyên dạy tín hữu hãy kiên nhẫn đón chờ ngày Chúa đến, như người nông dân mong chờ mùa gặt (Gc 5,7-10). Sự kiên nhẫn giúp thanh luyện và biểu lộ lòng trung thành, đồng thời tạo điều kiện và thời gian cho kẻ tội lỗi biết hồi tâm sám hối.
- Người nhỏ nhất trong Nước Trời
Chúa Giêsu khen ngợi Gioan: “Trong số những người nam đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”(Mt 11,11). Gioan cao trọng vì ông là vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị cho Đấng Cứu thế, như sấm ngôn Malaki đã loan báo: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1). Không những dọn đường, Gioan còn nhìn thấy, làm chứng và chỉ cho người khác khi Đấng Cứu thế xuất hiện. Gioan đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, chấp nhận cuộc sống khắc khổ trong hoang địa, để chuẩn bị cho sứ vụ và để có thể toàn tâm toàn ý thực hiện sứ mệnh. Gioan đã can đảm làm chứng và sẵn sàng chết để bảo vệ sự thật.
Gioan cao trọng thế đó, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Dù cao trọng, Gioan vẫn còn là người đang đứng bên ngưỡng cửa Nước Trời, như Môsê xưa đứng ở ngưỡng cửa Đất Hứa. Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời cao trọng hơn ông vì được diễm phúc tham dự vào vương quốc do Chúa Giêsu thiết lập. Chỉ nhờ lòng tin mà người ta mới có thể gia nhập Nước Trời và cũng chính đức tin mới làm nên sự cao trọng đó, như bà Elisabeth đã từng khen ngợi Đức Maria: “Bà thật có phúc vì đã tin… ” (Lc 1,45).
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- A
NGÀI LÀ AI?- Lm. Phaolô Nguyễn Văn Đông
Khác hẳn với các xã hội do con người thiết lập, xã hội mới của Thiên Chúa sẽ dành những chỗ nhất cho những người nghèo và khiêm tốn. Còn người lớn nhất sẽ là những người có tâm hồn rộng mở đón nhận tất cả mọi người. Đó là những người đã được thanh luyện qua những đau khổ và thử thách mà họ đã trải qua trong gần hết cuộc đời mình.
Sách Tiên tri Is 35, 1-6a.10
Trong lúc Assyri tàn phá Vương quốc Giu đa và lưu đày Vương quốc Israen, Isaia loan báo rằng một đám đông người bị bỏ rơi, bị khinh dể, bị thương tích sẽ được Thiên Chúa đến Cứu độ. Dân Thiên Chúa sẽ phải trải qua những đau khổ trong một cuộc xuất hành mới trước khi được Thiên Chúa ban cho sự sống phong phú.
Thánh Vịnh 145
Khác với những kẻ nắm quyền hành trên trần gian, Thiên Chúa là nơi nương tựa vững chắc mà tất cả những kẻ bé nhỏ có thể tin cậy
Thư Gia cô bê 5, 7-10
Trong thư, Thánh Gia cô bê mạnh mẽ nhắc lại rằng trong Giáo hội, những kẻ bé nhỏ và những người nghèo hèn không thấp kém hơn những người giàu. Ngài khuyên nhủ phải kiên trì và tin tưởng như người gieo giống.
Tin mừng: Mt 11,2-11
Ngữ cảnh
Trong tù, nghe thuật lại những gì Chúa Giê su đã làm, Gioan hoang mang tự hỏi: Phải nghĩ về Ngài như thế nào? Ngài có thật là Đấng đã được loan báo không? Những nghi vấn đặt ra về Chúa Giê su, một điều không hề có trước đây, đã khởi đầu một khúc quanh trong Tin Mừng Mát thêu. Các chương đi trước trình bày Chúa Giê su đầy quyền năng trong việc giảng dạy (cc.5-7), làm phép lạ (8-9) cũng như trong việc sai các Tông đồ truyền giáo (c.10), thật khác xa với hình ảnh một vị Thẩm phán mà người ta được loan báo (3,101-2). Bây giờ, đã đến lúc đặt vấn đề về căn tính Mê sia của Chúa Giê su. Ngài có thật là đấng Mê sia không?
Có thể đọc đoạn tin mừng nầy theo bố cục sau đây:
– Nhập đề: câu hỏi Gioan đặt ra cho Chúa Giê su (11,2-3)
– Câu trả lời của Chúa Giê su (11,4-6)
– Chúa Giê su ca ngợi Gioan Tẩy giả (11,7-11)
TÌM HIỂU
Ông Gioan đang ngồi tù: Gioan thẳng thắn chỉ trích hành vi của Hêrôđê vì ông ta đang sống bất chính với chị dâu của mình. Và hậu quả là ông đã bị Hêrôđê trả thù, và bị tống giam trong ngục.
Thầy có thật là Đấng phải đến không?: đối với Gioan, đấng phải đến là một đấng đầy quyền uy (x. 3,11: Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi). Một vị Thẩm phán đáng sợ, lấy lửa chẳng hề tắt mà tiêu diệt mọi tội nhân không ăn năn hối cải (x. 3,10-12) đúng theo truyền thống CƯ (x. Ml 3,1-3). Nhưng những gì ông biết về cách thức Chúa Giê su thi hành sứ vụ hoàn toàn không tương ứng với ý tưởng mà ông có về cuộc phán xét sẽ phải xảy ra. Do đó câu hỏi của ông khiến mọi người ngạc nhiên.
Hơn nữa có một tương quan mật thiết giữa câu hỏi của vị Tẩy giả và thân phận tù đầy của ông. Đấng Thiên sai mà người ta mong chờ sẽ đến giải cứu tù nhân, nhất là các tù nhân đức tin (Lc 4,18; Is 61,1), ông chẳng phải là người đầu tiên được cứu thoát sao?
Các anh cứ về thuật lại cho Gioan: thay vì trả lời thẳng cho Gioan, Chúa Giê su mời gọi ông hãy tự mình tìm ra câu trả lời ngang qua những gì những dấu chỉ Ngài đã làm. Đó là con đường đưa con người đến đức tin.
Không vấp ngã vì tôi: dịch sát chữ: “hòn đá hay chướng ngại làm cho ai vấp té” chỉ tất cả những gì khiến cho người ta sa ngã trên con đường luân lí hay đức tin. Chúa Giê su thấy trước rằng cách trả lời của Ngài có thể làm cho Gioan thất vọng, vì hình ảnh của ông về Đấng Mê sia quá khác biệt với những gì Chúa Giê su đã thực hiện.
Về ông Gioan: Chúa Giê su khen ngợi ông Gioan: Ngài coi ông ngang hàng với các Tiên tri lớn nhất thời Cựu Ước và ca ngợi ông đã nghiêm khắc và kiên cường rao giảng Tin mừng. Đồng thời Ngài cũng cho thấy khoảng cách giữa vị Tiền hô và Đấng mà ông chuẩn bị con đường cho Ngài.
SỨ ĐIỆP
“Ngài có phải là đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một đấng khác?”. Đó là câu hỏi đầy khó khăn mà Gioan Tẩy giả đặt ra cho Chúa Giê su sau một thời gian dài nhìn thấy những gì Chúa Giê su đã làm. Thật vậy, khi làm phép rửa cho Ngài ở bờ sông Gio đan, ông đã thực sự xác tín rằng Ngài chính là Đấng Messia. Ông đã lớn tiếng nói cho mọi người biết điều ấy, và đồng thời loan báo rằng Đấng Messia sẽ nghiêm khắc thực hiện phán quyết của Thiên Chúa.
Thế rồi tháng ngày trôi qua, Gioan Tẩy giả đã bị cầm tù. Còn Chúa Giê su rời xa gia đình để bắt đầu sứ vụ. Và không có điều gì xảy ra như ông đã báo trước. Những lời giảng dạy và hành vi của Đức Ki tô không có gì giống với cuộc phán xử chung thẩm. Trái lại, Ngài đã qui tụ một nhóm người chài lưới quê mùa, thất học làm môn đệ; Ngài thường lui tới tiếp xúc với những người tội lỗi và những kẻ tai tiếng. Điều ấy khiến Gioan Tẩy giả tự nhủ: mình có lầm về đấng Messia không? Ngài có phải là Đấng mà thiên hạ đợi trông không? Ông nghi ngờ về chính những gì mình đã loan báo.
Cách thế tốt nhất để biết rõ, là đi hỏi. Ông mong muốn được Chúa Giê su soi sáng, giúp ông thấy rõ hơn về sứ mạng của Ngài. Nên ông quyết định sai một vài môn đệ đến hỏi: “Thầy có phải là đấng phải đến không?”. Thay vì trả lời thẳng cho Gioan, Chúa Giê su mời gọi ông hãy nhìn và hãy tin: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các người đã thấy: Người mù được thấy, người què đi được, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo khổ”.
Tất cả những điều ấy dường như trái ngược hoàn toàn với bài đọc thứ nhất loan báo sự báo oán của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ, thì chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa không báo thù bằng cách tàn sát con cái của Ngài. Thiên Chúa đến là để cứu thoát và nâng con người chỗi dậy. Đó là sự chiến thắng của sự lành trên sự dữ. Đấng Thiên Chúa mà Chúa Giê su loan báo là tình yêu và lòng thương xót. Đó là một tin mừng mà chúng ta tìm thấy trong các sách tin mừng và đem lại cho chúng ta niềm vui và hi vọng.
Rõ ràng Thiên Chúa đến là để cứu độ, nhưng với điều kiện là chúng ta cần đến và tiếp nhận Ngài. Vì thế, những ai cậy dựa vào sức mạnh, quyền thế, kiến thức hay của cải thì không thể tiếp nhận ơn ban giải thoát của Người. Những ai chỉ cậy vào sức riêng mình để tự giải thoát thực sự không cần đến Thiên Chúa. Chính vì thế mà Gioan Tẩy giả đã loan báo cơn thịnh nộ dữ dội của Thiên Chúa dành cho họ. Án phạt sẽ được thi hành ngay tức khắc.Và sám hối là điều cần phải làm ngay.
Chúa Giê su không phủ nhận vai trò của ông Gioan Tẩy giả, trái lại khi đề cập đến ông, Ngài hết lời ca tụng ông. Nhưng vì ông là một tiên tri giao thời giữa Cựu và Tân ước, nên Chúa Giê su kết luận rằng người nhỏ nhất trong Nước Trời lại lớn hơn ông vì thuộc về Giao Ước mới.
Tin mừng mạc khải cho chúng ta một khuôn mặt khác của Thiên Chúa. Quả thật, Người là đấng toàn năng, nhưng đó không phải là sự toàn năng đáng sợ của một người khổng lồ, mà là sức mạnh của một tình yêu không biên giới. Ngài không đến để tiêu diệt, nhưng để ban cho chúng ta cơ hội để sám hối, vì Ngài không muốn một ai phải hư mất. Nước Thiên Chúa mà Ngài vừa loan báo dành cho tất cả mọi người. Đó là ơn ban không tốn phí và không đòi hỏi một công trạng nào về phía chúng ta.
Vì thế, Thiên Chúa báo thù bằng cách sai chính Chúa Giê su đến với chúng ta. Bằng những bước chân êm đềm, nhưng chắc chắn Ngài đến để mạc khải cho chúng ta thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Người ta chỉ có thể nhận ra Ngài nếu biết thay đổi cái nhìn về Ngài. Đó là điều quan trọng, vì Thiên Chúa của chúng ta không tương ứng với hình ảnh mà chúng ta có về Ngài. Chúng ta hình dung Ngài theo cách nghĩ của người thời nay, chỉ biết quan tâm đến những lợi ích cá nhân. Có người chờ đợi một vì Thiên Chúa kiểu ông già Nô ên, để xin ban cho mọi sự được an lành trong đời sống. Có người thì tưởng tượng một vì Thiên Chúa cảnh sát, dùng sức mạnh và áp chế lập lại trật tự trong thế giới đầy ích kỉ nầy, một vì Thiên Chúa sẽ ra tay uy quyền chận đứng mọi chiến tranh và trừng phạt những người từ chối chia sẻ.
Không, Thiên Chúa không phải là một vì Thiên Chúa tháo gỡ các khó khăn thay cho chúng ta và miễn cho chúng ta khỏi trách nhiệm. Một vì Thiên Chúa đích thật thì hoàn toàn khác: trong lễ Giáng sinh, Ngài hiện đến trong vóc dáng của một bé thơ bé bỏng, mềm yếu, một người không có gì để cho. Đôi tay nhỏ bé của Ngài không mang theo gì cả, hoàn toàn tùy thuộc và cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Nhưng khi giúp cho chúng ta ra khỏi chính mình để hướng về phía Ngài, Ngài sẽ biến đổi trái tim chúng ta, giúp chúng ta cảm nghiệm niềm vui và hạnh phúc khi trao ban.
Do đó, sứ điệp lớn nhất của mùa vọng chính là một lời mời gọi đặt chúng ta trong tư thế tiếp nhận: đã đến lúc chúng ta phải ra khỏi giấc ngủ mê. Thiên Chúa không ban tặng chúng ta một Vương Quốc làm sẵn nhưng đang hình thành. Chúng ta phải dọn một con đường cho Chúa đến trong chúng ta. Chúng ta đang sống trong một thế giới mang dấu ấn chiến tranh, hận thù, và thiếu hiểu biết. Và chính trong thế giới đó mà Chúa Giê su muốn gặp chúng ta, vì Ngài mang đến một tin vui: tình yêu của Ngài không ngừng ban tặng cho chúng ta. Ngài là nguồn suối đem lại bình an nội tâm. Nơi Ngài chúng ta học cách sống chung liên đới với nhau như anh chị em một nhà. Như thế mỗi người sẽ được nhìn nhận trong sự khác biệt và sự phong phú, sẽ phục vụ thiện ích cho mọi người.
Xin Chúa Ki tô mở mắt và tai chúng ta, xin Ngài đặt chúng ta trên đường đến với Ngài và đến với tha nhân; ước gì Tin mừng Ngài đã đến mang lại biến đổi thực sự đời sống chúng ta và cho thế giới.
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatiiimuavonga #suyniemloicchuagpbr