CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỂ ĐI THEO CHÚA – Chú giải của Fiches Dominicales 14
ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông.. 21
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – C.. 37
CÁI GIÁ PHẢI TRẢ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 37
TỐNG KHỨ TẤT CẢ– Chú giải của William Barclay. 54
LÀM MÔN ĐỆ CỦA CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. 60
ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA – Lm. Đan Vinh HHTM.. 63
MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊSU- Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ. 80
ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA- Lm. Micae Võ Thành Nhân 85
TỪ BỎ ĐỂ THEO CHÚA- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC 89
BÀI HỌC CHO NGƯỜI MÔN ĐỆ- Lm. Phêrô Lê Văn Chính.. 93
MỘT SỰ NGHỊCH LÝ- Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan.. 98
CÙNG ĐI VỚI CHÚA GIÊSU- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm.. 103
NIỀM VUI LỚN HƠN- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật OP.. 108
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn”.
Trích sách Khôn Ngoan.
Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những dự định của chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh hồn ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề.
Chúng tôi ước lượng cách khó khăn các việc dưới đất, và khó nhọc tìm thấy những sự trước mắt. Còn những sự trên trời, nào ai khám phá ra được? Ai hiểu thấu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống. Như thế, mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng, và loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa.
Vì, lạy Chúa, những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng: Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến cho con người trở về bụi đất, Ngài phán: “Hãy trở về gốc, hỡi con người”.
Xướng: Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.
Xướng: Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.
Xướng: Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.
Bài Ðọc II: Plm 9b-10. 12-17
“Con hãy tiếp nhận nó không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Philêmon.
Con thân mến, Phaolô già nua, và hiện đang bị cầm tù vì Ðức Giêsu Kitô, cha nài xin con cho Ônêsimô, đứa con cha đã sinh ra trong xiềng xích.
Cha trao nó lại cho con. Phần con, con hãy đón nhận nó như ruột thịt của cha. Cha cũng muốn giữ nó lại để thay con mà giúp đỡ cha trong lúc cha bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng vì chưa biết ý con, nên cha không muốn làm gì, để việc nghĩa con làm là một việc tự ý, chớ không vì ép buộc. Vì biết đâu nó xa con một thời gian để rồi con sẽ tiếp nhận muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng thay vì nô lệ, thì như một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với cha, huống chi là đối với con, về phần xác cũng như trong Chúa. Vậy nếu con nhận cha là bạn hữu, thì xin con hãy đón nhận nó như chính mình cha vậy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 25-33
“Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.
“Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: ‘Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi’.
“Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXIII THƯƠNG NIÊN -C
TỪ BỎ HẾT MỌI SỰ(*)- Chú giải của Noel Quession
Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ
Chúng ta vẫn đang trên con đường lên Giêrusalem, ở đó Luca đã tập hợp các tài liệu gốc mà ngài đã thu thập bởi các nguồn thông tin của riêng ngài. Người ta có thể nói rằng đây không chỉ là một bài tường thuật cụ thể mà hơn thế nữa là lịch sử cao cả của Đức Giêsu Kitô trong mọi thời đại. Những “đám đông người” cùng đi với Đức Giêsu không chỉ là vài trăm người ở Palestine trong thời đại đó, mà là vô số người, đàn ông có, đàn bà có đã bắt đầu đi theo Đức Giêsu qua bao thế kỷ. Vậy ngày hôm nay, Đức Giêsu hướng về phía chúng ta để đặt cho chúng ta một vài câu hỏi: “Anh em nói rằng anh em là những môn đệ của Thầy nhưng anh em có biết điều đó có nghĩa gì không? Anh em có biết đi theo Thầy sẽ dẫn anh em đi tới đâu không?”.
Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được
Yêu sách đầu tiên của Đức Giêsu đúng là làm người ta phải hốt hoảng và nếu cần một lần nữa minh chứng rằng Giêsu Na-da-rét có ý thức Người không phải là “một người bất kỳ nào đó”. Vậy thì Người là ai, nếu không phải là một người điên, lại yêu cầu toàn thể nhân loại phải dứt bỏ tình cảm đến như thế, để gắn bó với bản thân của Người?
Ai có thể hiểu được ngôn ngữ của các vì sao,
Ai có thể nhận ra âm nhạc của các linh hồn,
Ai với trái tim có đủ tự do
Sẽ biết yêu mến Thầy trên hết và đi theo sau Đấng, Lời của sự sống?
Tấm lòng cần phải rất tinh tế để hiểu biết Đức Giêsu.
Dĩ nhiên Đức Giêsu là ngôn sứ của tình yêu chứ không phải của lòng thù hận. Công thức gay gắt của Người không có nghĩa chúng ta bỏ rơi những mối liên hệ gia đình. Không nhằm biện minh cho thói ích kỷ, trái lại Đức Giêsu kêu gọi một sự từ bỏ triệt để bản thân mình. Vả lại, cần phải yêu mến Đức Giêsu hơn cả mạng sống mình. Như thế, thay vì phá vỡ một cách ích kỷ mọi quan hệ nhân bản thiêng liêng nhất của chúng ta (tình yêu phụ tử, hôn nhân, bằng hữu), Đức Kitô mời gọi chúng ta, mỗi người phải làm cho tình cảm ấy được sinh động và xuyên suốt bởi tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa… Và trong trường hợp hạn chế, thật vậy, vẫn phải là: “bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa” (Lc 18,29). Và chính Đức Giêsu đã buộc mình phải dứt bỏ gia đình riêng trước khi yêu cầu điều đó với chúng ta, khi Người hiến dâng cả hồn và xác cho việc rao giảng Tin Mừng (Lc 8,19-21; 11,27-28).
Mỗi Người, tùy theo hoàn cảnh và ơn gọi của mình, phải vui lòng đón nhận yêu sách phi thường ấy trong đời sống cụ thể. Những từ bỏ tuyệt đối nào được đặt ra cho tôi để phục vụ Nước Thiên Chúa?
Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được
Ở đây có hai công thức: Vác thập giá và đi theo Đức Giêsu. Vậy vấn đề trước tiên không phải là từ bỏ mà là tình yêu. Người nào đã thật sự tìm thấy Đức Giêsu, Người ấy đã tìm thấy giá trị phát triển nhất trong mọi trường hợp. Tất cả những gì làm chúng ta đau khổ, có thể trở thành “sự hiệp thông của tình yêu”. Mọi người vác thập giá đi theo Đức Giêsu là đi theo Đấng đã vác thập giá đi đầu. Nếu chúng ta suy nghĩ thấu đáo, khi chúng ta lảo đảo dưới sự thử thách thì Đức Giêsu đã ở đó, kề bên chúng ta, đi trước chúng ta, chính Người cũng đang lảo đảo trên con đường thập giá dẫn Người đến niềm hoan lạc của sự sống lại! Simon, gốc Kyrênê, được đặt thập giá lên vai vác theo sau Đức Giêsu là hình ảnh của người môn đệ chân chính (Lc 23,26). Ai đã khám phá điều đó, đã tìm ta một bí mật; bí mật của một hạnh phúc mà không gì có thể phá hủy được. Không gì. Phúc cho người nào có cái nhìn xuyên thấu điều vô hình để tìm kiếm khuôn mặt của Người!
Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc!”.
Dụ ngôn này là của riêng Thánh Luca: “Bổn phận phải ngồi xuống!” Dụ ngôn này nói lên khó khăn to lớn mà người ta phải chấp nhận khi cồ quyết định bắt đầu đi theo Đức Giêsu. Đây là một cuộc phiêu lưu dài ngày; và phải có thể đi đến cùng!
Đức Giêsu đã không bao giờ tìm cách quảng cáo, khi tạo ra tâm lý thành công giả tạo ở xung quanh Người. Thay vì che giấu những nguy cơ của công việc, Người nhấn mạnh chúng như để làm nản lòng ngay tức khắc những nhiệt tình bồng bột và chóng qua; như thể sự rút lui dọc đường còn tệ hơn là chưa bao giờ khởi sự? Điều này phải làm chúng ta suy nghĩ một cách thật nghiêm túc tính chất trầm trọng của việc từ bỏ đức tin khi việc từ bỏ này cố tình và có ý thức. Thôi không theo “Đức Giêsu nữa, khi người ta đã bắt đầu đi theo Người…” phải chăng trầm trọng hơn việc chưa từng biết Người? Trách nhiệm vô cùng của việc Tuyên xưng Đức Tin là thế. Nếu không nghiêm túc thì đừng làm? Trước khi tuyên hứa phải ngồi xuống, dùng thời gian mà suy nghĩ.
“Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa”.
Hai dụ ngôn này “xây tháp” và “chiến đấu để thắng trận” là thành phần của các bản văn mà Luca đã có chủ ý tập hợp trong “đường lên Giêrusalem”. Hai câu chuyện này đặt song song, dễ nhớ, với văn phong nói và lặp lại. Cùng một bài học được làm nổi rõ, được gấp đôi để không ai quên: Đời sống Kitô hữu chính là “xây dựng” và “chiến đấu”. Hai công việc gian nan đòi hỏi phải suy nghi và kiên trì. Chúng cũng yêu sách sự tiên liệu và tổ chức. Anh em phải ngồi xuống để suy tính!
Một đôi khi tôi có hoàn thành lời yêu cầu này của Đức Giêsu không?
Tôi có dùng thời gian để suy nghĩ cuộc đời tôi về những cam kết của tôi? Chúng ta đều biết làm các bảng tổng kết, tính toán, tiên liệu cho các công việc của con người vậy có khi nào chúng ta dừng lại một mình hay trong nhóm với những người khác để nhận định xem chúng ta đã thật sự sống những công việc của con Người trong đường lối của Đức Kitô? Đó là mục đích của việc “xét lại đời sống”: Hãy nhìn, phán đoán, hành động, cầu nguyện trong ánh sáng của Tin Mừng.
Đi nghỉ hè về, lời mời gọi của Đức Giêsu đến đúng lúc. Một năm mới đây rồi, trước mặt chúng ta. Tất cả sẽ lại tiếp tục: Nghề nghiệp, trường học, tập đoàn, hiệp hội. Để không sống hời hợt với mình và với mọi việc, nguyện gẫm là bí quyết cửa đời sống sâu sắc và thật sự hiệu quả. Ngày hôm nay Đức Giêsu yêu cầu chúng ta không nên sống một cách hời hợt nông cạn.
Lạy Chúa, người nào mà Thần Khí Chúa cư ngụ, người ấy sẽ tiếp nhận những bí mật của Chúa Cha.
Trong ba năm của đời sống hoạt động, Đức Giêsu hầu như đã làm nhiều hơn mọi người hoạt động của thế gian.
Một bà mẹ trẻ trong gia đình, bề bộn công việc, một ngày nọ nói với tôi: “Những ngày nào con càng phải làm nhiều việc thì con càng cảm thấy nhu cầu phải ngừng lại, phải ngồi xuống mười phút để nguyện gẫm: và con được lời thời gian!”
“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
Vậy đây là lần thứ ba trong ít dòng trở lại cùng một điệp khúc sắc bén như dao thái thịt: “Không thể làm môn đệ của tôi được”.
Và đối với Luca, điệp khúc như là kết luận của hai dụ ngôn nói trên. Cũng chính vì thế mà cần phải “ngồi xuống”. Người ta không theo Đức Giêsu trong sự dễ dãi. Ai không sẵn sàng đi đến cùng tốt hơn đừng nên khởi sự: Hãy từ bỏ tìm kiếm chính mình trong tình cảm, từ bỏ đời sống của riêng mình, từ bỏ của cải… bởi tình yêu. Lời mời gọi sự lột bỏ triệt để này, để sống nghèo khó, không phải là một “lời khuyên” dành riêng cho những Kitô hữu thượng hạng, các tu sĩ nam nữ như đôi khi Người ta thường hiểu như thế… Sự từ bỏ chính là điều kiện của mọi đời sống Kitô hữu như Đức Giêsu đã nói. Phải như thế để trở thành một “môn đệ đơn sơ”. “Anh em không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền bạc” (Lc 16,13). Một lần nữa, thay vì phải quan niệm những lời ấy của Đức Ki tô như những lời quá đáng, hãy dùng thời gian để cảm nhận chúng như những lời thật sự giải phóng và làm triển nở. “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà cho em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).
Nhưng để hiểu được điều đó, dĩ nhiên Thiên Chúa phải tràn ngập trong một tâm hồn. Chúng ta có tiếp tục hướng về “cái có” một cách tham lam hay không? Chúng ta có khám phá và nghĩ ra một cách sống sung sướng trong tình bạn, sự chia sẻ và tính đơn sơ không?
“Xã hội tiêu thụ không làm cho con người hạnh phúc”.
Đức Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ ở Công viên các Hoàng Tử. Họ đã vỗ tay tán thưởng. Họ đã đồng ý. Nhưng thế thì sẽ có những kết luận thực hành nào về phương diện mua sắm, nhịp độ của đời sống và sử dụng tiền bạc… để được tự do hơn. Và thật đơn giản, để “đi theo Đức Giêsu”, để giống Người đôi chút.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Anh Nghèo, vinh quang đời đời của Thiên Chúa ở nơi Ngài!
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – C
NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỂ ĐI THEO CHÚA – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1/. Để đi đến cùng.
“Trên đường lên Giêrusalem” (l3,22), bằng một động tác có tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía “đám đông cùng đi đường” với Người, để dạy cho họ bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người.
Chỉ “đến với” Đức Giêsu thôi không đủ. Đi theo Người bao gồm việc phải chấp nhận để chó những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng khuấy động lối sống của chúng ta: cách riêng trong phạm vi những mối liên hệ gia đình và sử dụng của cải vật chất, là đề tài quen thuộc của Luca.
Những “liên hệ gia đình”:
Đức Giêsu tuyên bố không úp mở “ai đến với tôi, mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Ở đây, Luca dùng động từ Hy Lạp có nghĩa “là ghét bỏ” để diễn tả lối nói nguyên thuỷ bằng tiếng Aram, một thứ ngôn ngữ vốn không có từ so sánh. Một kiểu nói mạnh mà soạn giả Tin Mừng dịch là ‘dứt bỏ’ hay “tai ương ít hơn”, “không thương hơn.”: Tất cả những mối liên hệ nhân loại, dù chính đáng và thâm sâu đến đâu ngay cả đến “mạng sống” con người đi nữa, đều phải phụ thuộc vào mối liên hệ của họ với Đức Kitô. N. Quesson giải thích ngay. “Lẽ dĩ nhiên Đức Giêsu là một vị Ngôn sứ của tình thương chứ không phải của thù ghét.
Lối nói thẳng thừng của Người ở đây không có nghĩa là cho chúng ta được phép xem nhẹ những liên hệ gia đình. Thay vì biện minh cho tính ích kỷ Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải có một sự từ bỏ mình triệt để. Hơn nữa, còn phải mến yêu Đức Giêsu hơn cả chính mạng sống mình. Cho nên không hề dạy người ta phải đoạn tuyệt một cách ích kỷ với mọi liên hệ nhân loại thiêng liêng nhất (như lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng, tình bằng hữu…), Đức Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta phải nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm trên xuyên qua tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa. Quả thực, có những trường hợp người ta đành “phải” bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái “vì Nước Thiên Chúa” (Lc 18,29). Đó là sự từ bỏ của Đức Giêsu đối với chính gia đình của Người. Người đã tự nguyện làm thế trước khi đòi hỏi chúng ta, lúc Người hiến trọn thân xác và linh hồn cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. (“Parole de Dieu pour chaque dimanche. Năm C, Droguet Ardant, trg 268).
Ngay sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Vấn đề là người môn đệ phải đi theo con đường của Đức Giêsu, dẫn đến Giêrusalem và dẫn đến thập giá, dù phải bỏ mạng ở đó. Bởi vì điều thiết yếu là phải đồng số phận với Thầy mình. Và đó chính là thân phận của người môn đệ.
Đối với các Kitô hữu thời thánh Luca, cũng như đối với chúng ta hôm nay sau 20 thế kỷ, lời dạy của Đức Giêsu vẫn là tiếng gọi thiết tha hãy đi theo người trên con đường Canvê, hãy đích thân chia sẻ mọi đau đớn, khổ nạn là cái chết của Người (J Seynave, “Assemblées du Seigneur”, số 54, trg 70-71).
Những của cải vật chất:
Đức Giêsu kết luận: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được “. Từ chối không tôn thờ của cải vật chất, bằng cách sẵn sàng chấp nhận mất tất cả để trung thành với đức tin, đó chính là một đòi hỏi của Tin Mừng cho ai muốn đi theo Đức Giêsu.
- Meynet chú thích, “Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trữ bước chân. Chỉ có thập giá là cái phải mang theo để đi theo Người” (L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhétorique”, tập 2, Cerf, trg 157).
2/. Trước tiên phải ngồi xuống tính toán:
Sau đó, để tránh mọi hàm hồ, Đức Giêsu ngỏ với những người đang nghe hai dụ ngôn nhỏ, nhằm cảnh giác họ phải coi chừng một kiểu dấn thân hời hợt: dụ ngôn người đàn ông nọ định xây một cái tháp và dụ ngôn vị vua kia sắp đi giao chiến với một vua khác. Cả hai đều sử dụng dạng câu hỏi: Ai trong anh em muốn xây một cái tháp?… Có vua nào đi giao chiến…?, để kêu gọi người ta phải trước tiên ngồi xuống suy tính đã, rồi mới dấn thân và chấp nhận mạo hiểm bước theo Đức Giêsu.
Theo tạp chí ’Célébrer’ số 251, trang 42, chắc đây là hai dụ ngôn nhỏ vốn nằm riêng rẽ, nay được Luca xếp chung lại với nhau trong bài viết của Ngài. Trong bối cảnh quãng đời công khai của Chúa, cũng giống như một số dụ ngôn khác tương tự có thể gọi chung là “những dụ ngôn về sự quyết định”, chúng là công cụ được Đức Giêsu sử dụng để giúp cho các thính giả của người có dịp suy nghĩ, mời gọi họ cởi mở tâm hồn với Người, sẵn sàng sám hối trở về. Luca đã lấy lại hai dụ ngôn này là hướng ý nghĩa của chúng về mối bận tâm chính của ngài: phải dứt khoát rõ ràng, để làm môn đệ Đức Giêsu ở đây và lúc này. Có hai phạm vị áp dụng chính: tiền bạc và liên hệ gia đình. Cần phải suy tính đo lường giá phải trả, đừng liều lĩnh nhắm mắt đưa chân.
BÀI ĐỌC THÊM
1/. Động lực duy nhất hướng đến sự sống.
“Trước lúc lên đường làm một chuyến leo núi, bạn phải ngồi tính toán xem nên mang theo những gì trong bị: lương khô kẹo bánh, đường,.. Tóm lại, tất cả những gì là cần thiết, tuy nhiên chỉ những gì phải có để leo tới đỉnh núi rồi xuống. Chẳng ai dại gì ôm đồm nhiều cho nặng hay vướng vít khó đi, bỏi vì vấn đề là làm sao đi đến nơi về đến chốn an toàn. Muốn bước theo Đức Giêsu, cũng thế bạn đừng để mình vương vấn bất cứ cái gì? “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa…”. Đúng là một danh sách dài! Chuyện này có khả thi hay không? Lẽ nào Đức Giêsu, một con người rất mực nhân lành, dịu dàng, lại có thể đòi hỏi một chuyện như thế? Ngộ nhận, gây vấp phạm? Không thiếu kẻ đã bị dội trước những lời yêu sách quá đáng này. Một số môn đệ và ngay cả các tông đồ đã không đi theo Người đến tận đỉnh Gôngôtha. Họ run sợ khi thấy chính quyền và dân chúng lồng lên chống lại Người. Họ nhát. Họ chẳng dám liều mạng. Phải chăng họ có lý? Hy sinh, chết để mà chết, có ích gì?
Phải đợi đến sau biến cố Phục sinh họ mới sẵn sàng đón nhận cái chết. Khi đó, họ mới hiểu rõ rằng chết không phải là uổng đời, và cái biện chứng “chết – sống” chính là động lực duy nhất đưa đến sự sống. Sống cho tình yêu phải chăng là chết đi liên lỉ mỗi ngày trong suốt cuộc đời? Yêu mến Đức Giêsu hơn cả cha mẹ, vợ con, đâu phải là chê bỏ lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng? nhưng là yêu thương bằng một tình yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn, nhân danh Đức Giêsu Kitô.
Đi theo Đức Giêsu chính là bước vào quỹ đạo của tình yêu tự trao ban đến cùng”.
2/. Thiên Chúa, Đấng duy nhất tuyệt đối:
Đức Giêsu đã đảo lộn tất cả mọi ý niệm về giá trị và tình cảm của chúng ta khi Người truyền phải yêu mến Người hơn cả cha mẹ, vợ con… Chúng ta vốn nhạy cảm với cái nghĩa thiêng liêng của gia đình nên không dễ gì hiểu ngay được lời mời gọi của Tin Mừng. Đối với chúng ta, cũng như đối với mọi định chế trong xã hội, có gì hiển nhiên cho bằng trước hết phải thương yêu vợ con mình? phải làm tất cả cho người thân trong gia đình mình?
Dường như Đức Giêsu đang có ý thách thức chúng ta. Người đề nghị cho chúng ta một lối đi đầy ngỡ ngàng, đòi phải có niềm tin lẫn quyết tâm. Người như muốn nói với chúng ta rằng chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối mà thôi. Trước đòi hỏi gắt gao của Đức tin, chúng ta thường có xu hướng biện minh: mình phải lo cho gia đình, công việc, cửa nhà, ruộng đất… đã chứ!
Đi theo Đức Giêsu là phải dám đảo lộn lại trật tự mọi sự và mọi việc. Phải có can đảm đặt Thiên Chúa ở hàng đầu, ở trung tâm cuộc sống. Đúng chỗ của Người. Khi đó, chúng ta sẽ thấy mình yêu thương người thân cách chân thực hơn. Chu toàn mọi công việc có kết quả đích thật hơn. Lo lắng cho gia đình đúng nghĩa hơn.
Những gì chúng ta có thể làm cho mái ấm của mình, cho sự tôn trọng quyền con người, cho việc bảo vệ sự sống, cho sự nhìn nhận kẻ khác với lòng bao dung, cho cuộc đấu tranh chống lại mọi hình thức ngược đãi, cho tự do và dân chủ… chúng ta hãy qui tất cả một cách trọn vẹn vào mối tương quan với Thiên Chúa. Trong thái độ của Đức tin, chúng ta đặt Người vào trọng tâm của tất cả, ở nguồn mạch tất cả, nơi tận cùng của tất cả. Như là Đấng Tuyệt đối.
Nhận ra Thiên Chúa là cái “nền” của toàn thể nhân loại, chúng ta mới gặp gỡ được ý định của Người. Khi đó chúng ta mới phục vụ và làm thăng tiến nhân loại.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- C
ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta suy niệm về ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa làm chúng ta đôi phen hụt hẩng, làm đảo lộn mọi kỳ vọng của con người, làm thay đổi những mối quan hệ giữa người với người, tương đối hóa quan niệm của con người về thế giới.
Kn 9: 13-18
Đoạn trích sách Khôn Ngoan gợi lên những giới hạn của những hiểu biết phàm nhân. Với trí tuệ phàm nhân, con người vô phương dò thấu những ý định của Thiên Chúa, nhưng nhờ ánh sáng Mặc Khải và tác động thần khí thánh ở nơi con người mà con người mới có thể đạt được một sự hiểu biết sung mãn.
Plm 9b-10, 12-17
Trong thư gởi cho ông Phi-lê-mon, thánh Phao-lô đưa ra một lời khuyên thật cảm động, được gởi đến cho ông Phi-lê-mon. Thánh nhân thỉnh cầu ông hãy đón nhận người nô lệ trốn chạy khỏi nhà ông và nay đã trở thành Ki-tô hữu, như một người con ruột thịt của thánh nhân và như người anh em rất thân mến trong Đức Ki-tô.
Lc 14: 25-33
Tin Mừng tường thuật cho chúng ta giáo huấn của Đức Giêsu về những yêu sách mà Ngài đòi hỏi các môn đệ Ngài: muốn theo Ngài phải dành quyền ưu tiên cho Ngài, thậm chí trên mọi mối dây ràng buộc trần thế, kể cả những người thân yêu trong gia đình đi nữa.
BÀI ĐỌC I (Kn 9: 13-18)
Chúng ta không biết tác giả sách Khôn Ngoan là ai. Tác phẩm này đã được biên soạn vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, bởi một người Do thái đạo hạnh thành A-lê-xan-ri-a. Tác giả muốn cảnh giác đồng bào của mình trước những sức quyến rũ của nền văn hóa Hy-lạp. Ông đổ hết tâm trí để nhắc lại những giá trị khôn sánh của sự khôn ngoan Do-thái giáo, gia sản của cha ông họ.
1/.Phân đoạn:
Đoạn văn hôm nay được trích từ phần thứ hai của sách Khôn Ngoan. Bằng hư cấu văn chương, tác giả để cho vua Sa-lô-môn, một vị vua nổi tiếng khôn ngoan bậc nhất, ngỏ lời với độc giả. Chương 9 là lời cầu nguyện dài của vua, khai triển lời cầu nguyện mà sách Các Vua quyển thứ nhất đã trích dẫn một cách ngắn gọn (1V 3: 6-10), theo đó, vua Sa-lô-môn chỉ cầu xin Chúa ban cho mình được ơn khôn ngoan. Lời cầu nguyện của vua làm đẹp lòng Chúa. Thiên Chúa chẳng những ban cho vua được ơn khôn ngoan mà còn được muôn vàn những ân phúc khác nữa.
Việc nêu lên lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon như vậy đã trở nên một đề tài kinh điển của các tác phẩm minh triết. Tác giả sách Khôn Ngoan đem lại cho lời cầu nguyện này những dấu ấn riêng nhằm đánh động những người đương thời của ông. Dưới những khía cạnh phi thời gian của sự khôn ngoan, sứ điệp trực tiếp nhắm đến một xã hội phàm trần vào thời đại của tác giả. Sứ điệp này vẫn giữ mãi giá trị trường tồn của nó.
2/.Thành phố A-lê-xan-ri-a vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên:
Hơn hai thế kỷ qua, thành phố A-lê-xan-ri-a là thủ đô trí tuệ của thế giới thời xưa. Vị vua đầu tiên của triều đại nhà Tô-lê-mê (323-285 trước Công Nguyên) đã cho xây cất một Bảo Tàng Viện danh tiếng, tại đó quy tụ các nhà thông thái và những nhà nghiên cứu các môn học thời danh; họ có sẵn một thư viện bao la cũng như phòng thí nghiệm. Những tiến bộ đáng chú ý trong mọi lãnh vực: toán học, thiên văn học, y học, nhất là giải phẩu học, vật lý, địa lý. Về triết học, thành A-lê-xan-ri-a tiếp nối sự nghiệp của thành A-thê-na. Những hệ thống triết học đặt cạnh nhau và giải thích cho nhau. Về tôn giáo, những khuynh hướng tôn giáo hỗn hợp khẳng định điều này. Tóm lại, một thời kỳ huy hoàng nhất đối với trí tuệ con người, con người có thể tự hào về những chinh phục của mình.
3/.Sự yếu đuối của lý trí phàm nhân:
Tác giả sách Khôn Ngoan phản ứng lại những quan điểm trên do từ quan niệm tôn giáo của ông về thế giới. Những hiểu biết phàm nhân, dù đáng chú ý đến mấy đi nữa, chẳng bao giờ hiểu được những ý định của Thiên Chúa:
“Lạy Chúa, nào ai biết được ý định của Thiên Chúa?
Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi?” (9: 13).
Câu hỏi này các văn sĩ Kinh Thánh thường đặt ra để nhắc nhớ tính siêu việt của Thiên Chúa, như Gióp: “Có phải anh đã hiện diện trong triều thần Thiên Chúa, và đã chiếm đoạt được khôn ngoan?” (G 15: 8) hay Giê-rê-mi-a: “Nhưng ai đã được họp bàn với Đức Chúa, để chứng kiến và nghe lời Người?” (Gr 23: 18) hoặc I-sai-a: “Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?” (Is 40: 13). Tác giả sách Khôn Ngoan hỗ trợ đề tài này bằng một tư tưởng không kém phần chứng thực:
“Chúng con vốn là loài phải chết,
tư tưởng không sâu, lý luận không vững” (9: 14).
Tiếp đó là một câu nhuốm màu sắc nhị nguyên của Platon: “Quả vậy, thân xác dể hư nát này khiến linh hồn ra nặng”, nhưng ngay tức khắc lại gắn bó với đề tài Kinh Thánh về con người: “cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề”.
Những suy tư tiếp theo sau có thể mang tính bút chiến; chúng xem ra làm giảm thiểu những nổ lực của các bậc thông thái trong việc giải thích những thực tại trần thế. Thêm nữa, những nổ lực này không thể nào dò thấu những thực tại thiên giới:
“Những gì thuộc hạ giới,
chúng con đã khó mà hình dung nổi,
những điều vừa tầm tay,
đã phải nhọc công mới khám phá được,
thì những gì thuộc thượng giới,
có ai dò thấu nổi hay chăng?” (9: 16).
4/.Lý trí phàm nhân được sự khôn ngoan Thiên Chúa soi sáng:
Những hiểu biết phàm nhân chỉ được sung mãn nhờ Mặc Khải và tác động thần khí thánh ở nơi con người:
“Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời,
chính Người chẳng ban Đức Khôn Ngoan,
chẳng gởi thần khí thánh?” (9: 17).
Vì là một tín đồ Do thái giáo, trung thành với Độc Thần Giáo tuyệt đối: chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và chân thật là Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, khó mà gợi lên trong tâm trí của tác giả một sự biệt phân giữa Đức Chúa và thần khí thánh của Người; nhưng đúng hơn, tác giả đồng hóa Đức Khôn Ngoan của Đức Chúa với thần trí của Người. Tuy nhiên, thật chính đáng để đọc thấy ở đây một sự linh cảm nào đó về sự khác nhau ở lòng cuộc sống nội tại của Thiên Chúa.
“Chính vì thế mà đường lối người phàm
được sửa lại cho thẳng,
cũng vì thế mà con người được dạy cho biết
những điều đẹp lòng Ngài,
và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ” (9: 18).
Ở đây ám chỉ đến Lề Luật, được xem như cách diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa, kim chỉ nam cho những đức hạnh phàm nhân, con đường cứu độ.
Đoạn trích hôm nay vừa kết thúc lời cầu nguyện của vua Sa-lô-môn và cũng là để chuyển sang phần thứ ba của sách: suy tư về sự khôn ngoan của Thiên Chúa đang hoạt động trong Lịch Sử.
BÀI ĐỌC II (Plm 9b-10, 12-17)
Thư gởi cho ông Phi-lê-mon, tuy ngắn nhất trong các thư của thánh Phao-lô, nhưng rất độc đáo vì những tâm tình tinh tế được diễn tả ở đây và những tấm lòng được biến đổi dưới ảnh hưởng của Ki-tô giáo thật là cảm động mà bức thư này làm chứng.
1/.Lý do thánh nhân viết bức thư này:
Vào lúc đó, thánh Phao-lô đang bị giam cầm ở Rô-ma, chắc hẳn vào những năm 62-63. Thánh nhân đang đối mặt với một vấn đề không đơn giản một chút nào. Ông Phi-lê-mon là một Ki-tô hữu Cô-lô-xê; chắc chắn là một nhân vật khá giả, vì cộng đồng Ki-tô hữu tụ họp ở tại nhà ông. Ông có một người nô lệ tên là “Ô-nê-xi-mô”. Người nô lệ này đã trốn chạy khỏi nhà ông và lấy trộm của chủ một số đồ đạc, như thánh nhân đã viết trong thư: “Nếu anh ấy đã làm thiệt hại anh hay mắc nợ anh điều gì thì xin để tôi nhận cả”. Để tránh khỏi những cuộc truy tìm và những hình phạt mà anh có thể phải chịu, anh Ô-nê-xi-mô đã chạy đến được Rô-ma, vì anh hy vọng mình có thể dễ dàng lẫn trốn vào đám đông trong các đường phố tại kinh đô rộng lớn này.
Người nô lệ này biết rất rõ những người Ki-tô hữu vì anh đã thấy họ thường xuyên tụ họp tại nhà của chủ mình. Phải chăng đó là lý do thúc đẩy anh chạy đến Rô-ma để gặp thánh Phao-lô? Bức thư không nói cho chúng ta biết lý do. Dù sao thánh Phao-lô đã rửa tội cho anh và quý mến anh. Trong thời gian ở với thánh Phao-lô, anh Ô-nê-xi-mô đã trở nên một người hữu ích đến nỗi thánh nhân muốn giữ anh lại bên cạnh mình. Tuy nhiên, thánh nhân không thể, vì sợ vi phạm quyền lợi của ông Phi-lê-mon, chủ của anh. Vì thế, thánh nhân quyết định gởi anh Ô-nê-xi-mô trở về cho chủ của anh, ông Phi-lê-mon, kèm theo bức thư do tự tay thánh nhân viết.
Không ai biết rõ hơn thánh nhân rằng người nô lệ đào thoát này trở về nhà chủ có thể gặp phải những nguy hiểm như thế nào. Như chúng ta biết thân phận của người nô lệ vào thời đó, người nô lệ không được đối xử như một con người nhưng như một dụng cụ sống trong bàn tay của chủ, tùy ý chủ sử dụng. Trong trường hợp một nô lệ trốn chủ, anh sẽ bị đóng dấu bằng thỏi sắt nung đỏ mang hình chữ viết tắt Đào Tẩu và chịu hình phạt tùy theo ý chủ.
Với sự tế nhị, thánh nhân thỉnh cầu ông Phi-lê-mon hai cử chỉ khác thường: khoan hồng cho phạm nhân và nhận lại người này không phải trong tư thế của người nô lệ nhưng như người ruột thịt của thánh nhân và như một người anh em thân mến trong Đức Ki-tô.
Một sự gợi ý thật tinh tế, một lời mời gọi thật kín đáo, một lời thỉnh cầu mà không đòi buộc. Đoạn trích này thuộc phần trung tâm của bức thư.
2/.“Tôi, một người đã già và đang bị tù vì Đức Ki-tô”:
Thánh Phao-lô thử đặt tất cả danh dự của con người ngài vào lời thỉnh cầu của mình cho người nô lệ này: thánh nhân nhắc lại rằng ngài đã già (vào thời đó, 50-55 tuổi được xem là già) và đang bị cầm tù, và chính trong cảnh giam cầm này mà thánh nhân rửa tội cho anh: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích”.
3/.“Tôi xin gởi nó về cho anh”:
Thánh Phao-lô muốn mọi việc đều rõ ràng. Anh Ô-nê-xi-mô thuộc quyền của ông Phi-lê-mon. Thật ra thánh nhân biết rằng nếu ngài ngỏ lời với ông Phi-lê-mon, chắc chắn bạn của mình sẵn lòng để anh Ô-nê-xi-mô ở lại với thánh nhân để phục vụ thánh nhân trong cảnh xiềng xích. Như vậy, khi gởi anh Ô-ne-xi-mô trở về chủ của mình, thánh nhân xem trọng tính cách vô vị lợi của tình bạn.
4/.Như một người ruột thịt của thánh nhân:
Nhưng thánh nhân nhấn mạnh tình phụ tử tinh thần của ngài vì đã có một thay đổi sâu xa: anh Ô-nê-xi-mô đã trở thành Ki-tô hữu. Thánh nhân thương mến anh như đứa con ruột thịt mà thánh nhân đã mang nặng đẻ đau trong cảnh xiềng xích. Phải chăng thánh nhân muốn ông Phi-lê-mon cũng sẽ chia sẻ với thánh nhân những tâm tình như thế?
Thánh nhân khuyên ông Phi-lê-mon nên tha thứ cho anh Ô-nê-xi-mô, dù không nói trắng ra nhưng chỉ gợi ý: “Tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không tự nguyện”.
5/.Như một người anh em rất thân mến:
Thánh nhân nhắc cho ông Phi-lê-mon rằng việc anh Ô-nê-xi-mô trốn chủ phải được xem như một thiên ân: vì ông Phi-lê-mon “không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến”. Với chỉ vài lời này thôi cũng đủ để diễn tả cuộc cách mạng mà Ki-tô giáo đem đến cho những mối quan hệ giữa người với người.
Quả thật, sau này thánh nhân đã viết: “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, , nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3: 28; Cl 3: 14). Biểu thức này không muốn nói rằng từ nay không còn phân biệt chủng tộc, phái tính, chủ tớ, nhưng những phân biệt này chẳng còn có ý nghĩa gì trước mặt Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng dạ con người. Từ nay, sự biến đổi nội tâm mới là đáng kể, nó làm đảo lộn thậm chí những thân phận bên ngoài, đến độ ở nơi khác, thánh nhân mạnh dạn phát biểu: “Người đang làm nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người đang tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Ki-tô” (1Cr 7: 22).
6/.Gấp bội mối liên hệ:
Ông Phi-lê-mon được lại anh Ô-nê-xi-mô như một người anh em “cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa”, nghĩa là cả trong sự phục vụ của anh cũng như trong những mối liên hệ của anh giữa người Ki-tô hữu với người Ki-tô hữu. Chắc hẳn thánh nhân muốn nói rằng việc ông Phi-lê-mon tha thứ sẽ thiết lập nên một mối liên hệ đặc biệt giữa chủ và nô lệ.
Thánh Phao-lô đưa ra lời khuyên tinh tế sau cùng: “Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Ông Phi-lê-mon và thánh Phao-lô là anh em trong đức tin. Tình huynh đệ này phải trải rộng đến người nô lệ, người anh em khác này. Đó là sự “hiệp thông” của các chi thể Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Lc 14: 25-33)
Các sách Tin Mừng, đặc biệt sách Tin Mừng Lu-ca, tường thuật muôn vàn những lời khuyên của Đức Giêsu về việc từ bỏ: từ bỏ chính mình, từ bỏ của cải, đoạn tuyệt với sự giàu sang phú quý, vân vân. Nhưng chưa bao giờ Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ Ngài xa đến mức phải hy sinh thậm chí ngay cả những tình cảm cao quý và chính đáng nhất.
Quả thật, Đức Giêsu không nghĩ phải hủy bỏ huấn lệnh yêu người mà Ngài đã công bố ngang bằng với huấn lệnh mến Chúa; nhưng Ngài ấn định theo cấp bậc hai bổn phận: “mến Chúa” và “yêu người”. Lời của Ngài đã vang lên bên tai các môn đệ Ngài, những người đã bỏ hết mọi sự mà theo Ngài. Những môn đệ đầu tiên, Phê-rô và An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, đã là mẫu gương, thậm chí Gia-cô-bê và Gioan đã để lại cha già mình là ông Dê-bê-đê mà họ có bổn phận chu toàn đạo hiếu, phụng dưỡng hằng ngày.
Những đòi hỏi của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, dù cứng rắn đến mấy đi nữa, tương ứng với thực tại và vang vọng xuyên suốt lịch sử Giáo Hội. Thánh Lu-ca, vốn bận lòng về Giáo Hội, nghĩ trước tiên đến Giáo Hội truyền giáo, nhưng cũng đến Giáo Hội của đời sống tu trì mà lý tưởng các tu viện sẽ nối tiếp.
1/.Mến Chúa trên hết mọi sự:
Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi yêu mến Người đến tuyệt mức như vậy. Khi đòi hỏi phải yêu mến Ngài đến tuyệt mức tương tự, Đức Giêsu nhận về mình những đặc quyền của Thiên Chúa; Ngài ngầm khẳng định sự duy nhất của Ngài với Chúa Cha. Ngài đòi hỏi một tình yêu tối thượng phải vượt lên trên mọi tình yêu khác.
Thánh Mát-thêu cũng nêu lên tính tận căn của những đòi hỏi của Đức Giêsu: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10: 37), nhưng thánh Lu-ca đưa ra một danh sách đầy đủ hơn về những người mà tình cảm dành cho họ phải được đặt vào hàng thứ hai: cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thậm chí cả mạng sống mình.
2/.Để là môn đệ Đức Ki-tô:
Cử chỉ này của Đức Giêsu: “Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ”, được thánh Lu-ca ghi nhận nhiều lần. Đức Giêsu luôn luôn dẫn đầu, Ngài là Thầy, người dẫn đường; còn các môn đệ là những người bước theo Ngài. Khi Đức Giêsu quay lại, Ngài ngỏ lời với đám đông hiện diện, nhưng bên kia đám đông này, với đám đông môn đệ tương lai. Tuy nhiên, cử chỉ của Đức Giêsu cũng nhấn mạnh rằng sứ điệp mà Ngài sắp công bố thật là quan trọng.
Lời mời gọi mở đầu của Đức Giêsu gởi đến đám đông đang theo Ngài: “Ai đến với tôi…”, là biểu thức Cựu Ước được gặp thấy ở nơi lời công bố Lề Luật. Trong Bộ Luật Giao Ước của sách Xuất Hành, biểu thức này được phát biểu: “Nếu ngươi…” (Xh 20: 22tt; 21: 2-17). Như vậy, đây là quy luật sống mà Đức Giêsu long trọng công bố, như xưa kia ông Mô-sê đã ngỏ lời như vậy với toàn thể dân Ít-ra-en.
Những yêu sách được trình bày dưới hình thức phủ định: “Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Ở nơi khác, biểu thức này được diễn tả dưới hình thức khẳng định: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9: 23). Các tác giả Tin Mừng đều sử dụng diễn ngữ “vác thập giá”, thậm chí trước khi Đức Giêsu nói rõ rằng Ngài sẽ bị đóng đinh vào thập giá vào lần loan báo thứ ba về cuộc Khổ Nạn của Ngài (x. Mt 20: 19). Nhưng các sách Tin Mừng được biên soạn dưới ánh sáng của biến cố Tử Nạn và Phục Sinh, vì thế diễn ngữ này gợi lên ở nơi các tín hữu tiên khởi còn khủng khiếp hơn. Các môn đệ phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, chấp nhận bước đi trên con đường đau khổ, thậm chí cho đến mức phải hy sinh cả tính mạng của mình.
3/.Phải suy nghĩ cho thật nghiêm túc:
Tiếp đó là hai dụ ngôn về việc xây tháp và việc một vị vua muốn xuất quân đi giao chiến, cả hai dụ ngôn này đều có chung một tư tưởng trong mối liên kết với những đòi hỏi của Đức Giêsu. Để là môn đệ Đức Giêsu, phải dấn thân trọn vẹn, phải yêu mến Ngài tuyệt mức. Như vậy, trước khi quyết định theo Ngài, trở thành môn đệ của Ngài, phải ngồi lại mà tính toán cho thật nghiêm túc, định liệu sức mình có thể theo đuổi cho đến cùng không, chứ không quyết định trong giây phút bốc đồng kẻo lỡ đường đứt gánh.
Tuy nhiên, vài nhà chú giải tự hỏi phải chăng Đức Giêsu đã công bố hai dụ ngôn này ở đây chứ không vào những hoàn cảnh khác. Bởi vì việc dấn thân theo Đức Giêsu, gắn bó với Ngài, phải phát xuất từ sựu bùng phát của một con tim bốc lửa chứ không từ những tính toán đắn đo hơn thiệt của lý trí. Ấy vậy, hai dụ ngôn này hoàn toàn thiếu vắng niềm hưng phấn của tình yêu nồng cháy này. Vì thế, kết luận mà từ đó Đức Giêsu rút ra: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”, khó định vị vào cái lô-gích của hai dụ ngôn này, nhưng đúng hơn tiếp nối giáo huấn về những đòi hỏi của người môn đệ ở trong những câu đầu tiên: Đức Giêsu đưa ra một mẫu gương, Ngài bước đi về cuộc Khổ Nạn của Ngài, Ngài sẽ chịu chết mình trần thân trụi, chơ vơ một mình trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15: 34).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – C
CÁI GIÁ PHẢI TRẢ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Mỗi ngày Chúa nhật khi chúng ta đến với Chúa, chúng ta đã được nghe Chúa nói với chúng ta nhiều điều, những điều rất ngọt ngào, những điều rất an ủi. Hôm nay Chúa sẽ nói với chúng ta một điều không ngọt ngào lắm: Ngài muốn chúng ta phải hy sinh, phải từ bỏ.
Tại sao theo Chúa thì phải hy sinh và từ bỏ? Và phải hy sinh từ bỏ những gì?
Chúng ta hãy chú ý nghe Chúa giải thích. Và xin Chúa giúp chúng ta can đảm đáp lại lời kêu gọi của Ngài.
II/. Gợi ý sám hối
- Phải chăng từ trước tới nay chúng ta đi theo Chúa vì tính toán vụ lợi, nghĩa là chỉ để được Chúa ban cho ơn này ơn nọ?
- Phải chăng chúng ta ít biết hy sinh?
- Phải chăng chúng ta rất ngại từ bỏ?
III/. Lời Chúa
1/. Bài đọc I (Kn 9, 13-18)
Sách Khôn ngoan sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người về những vấn đề căn bản. Đoạn trích hôm nay bàn về giới hạn của sự hiểu biết của con người:
- Ngay cả những vấn đề thuộc hạ giới, tức là những vấn đề trong tầm tay con người mà con người cũng phải rất nhọc công mới khám phá được, thậm chí nhiều điều con người không hiểu nổi.
- Huống chi những vấn đề thuộc thượng giới, những vấn đề liên quan đến cuộc sống đời đời.
- Vì thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để mà đi theo và nhờ đó được ơn cứu độ.
2/. Đáp ca (Tv 89)
Tv này triển khai những ý tưởng của bài đọc I:
- Thân phận con người rất mỏng manh: “như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn”
- Do đó con người kêu xin Chúa: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan”
3/. Tin Mừng (Lc 14, 25-33)
a/. Khung cảnh: Khi ấy “Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu”: họ đang cùng với Chúa Giêsu “tiến lên Giêrusalem”. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
b/. Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu (“đi theo” Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là “ghét”) tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
c/. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
4/. Bài đọc II (Plm 9b-10. 12-17) (Chủ đề phụ)
Đây là một phần của bức thư Phaolô viết cho một tín hữu của ngài là Philêmon.
Hoàn cảnh: Khi ấy, một nô lệ của Philêmon tên là Ônêsimô bỏ nhà trốn đi có lẽ sau khi đã ăn cắp một số tiền. Do hoàn cảnh nào đó đẩy đưa, Ônêsimô gặp Phaolô đang ở tù. Ônêsimô xin theo đạo. Phaolô chấp thuận. Phaolô cũng quyến luyến Ônêsimô muốn giữ anh lại với mình, nhưng không thể được. Vì thế Phaolô quyết định gởi Ônêsimô về cho chủ. Nhưng Phaolô không gởi suông, mà cho Tychique đi kèm và còn mang theo lá thư này nữa cho Philêmon trong đó Phaolô tế nhị gợi ý Philêmon sẽ đón nhận Ônêsimô như một người anh em trong đức tin. Nhưng Phaolô không hề lạm dụng tình nghĩa của Philêmon đối với mình để làm áp lực, trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmon sẽ vì lòng tốt mà làm việc đó.
IV/. Gợi ý giảng
* 1. Con đường theo Chúa
Thánh Luca mở đầu bài tường thuật này như sau:”Có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ”. Trong ngôn ngữ Thánh kinh, “đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Chúa Giêsu là ông thầy đi trước, các môn đệ đi theo phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này Chúa Giêsu đã “quay lại bảo họ”, nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ.
Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn dặn dò kỹ các môn đệ là gì? Đọc tiếp đoạn Tin mừng chúng ta thấy Chúa dặn dò 2 điều: một điều tiêu cực là phải từ bỏ, một điều tích cực là phải vác thập giá. Chúng ta hãy suy nghĩ về từng điều:
- Điều thứ nhất là từ bỏ
a/ Tại sao làm môn đệ Chúa thì phải từ bỏ? Vì đi theo Chúa giống như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc.
b/ Vậy phải từ bỏ những gì? Chúa Giêsu kể: phải bỏ “cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình”. Qua cách nói “Cha mẹ, vợ con, anh chị em”, ý Chúa muốn nói tới gia đình; còn qua chữ “mạng sống”, ý Chúa muốn nói tới những gì thân thiết nhất của mình. Nhưng ta hãy hiểu cho đúng; Chúa không bảo người môn đệ phải bỏ những thứ vừa kể một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Gia đình là tốt, mạng sống là cần. Gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng sống không có gì là xấu cả. Tuy nhiên bất cứ khi nào mình cảm thấy 2 thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ.
2/. Điều quan trọng thứ hai mà Chúa Giêsu căn dặn chúng ta là vác Thập giá
a/ Tại sao muốn đi theo Chúa thì nhất thiết phải với thập giá? Vì, như đã vừa nói ở phía trên, nếu đi theo Chúa giống như đi leo núi, thì thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
b/ Điều thứ hai này có liên quan tới điều thứ nhất: chúng ta từ bỏ những thứ bận vướng là để mình có thể thong dong mà vác thập giá.
Chúng ta thường quên mất 2 việc rất quan trọng để thực sự xứng đáng làm môn đệ Chúa:
- Xưa nay chúng ta quen tìm kiếm để được thêm chứ ít khi nào chủ động từ bỏ. Thỉnh thoảng có từ bỏ chỉ là vì miễn cưỡng, vì rán chịu vậy mà thôi. Thí dụ khi chúng ta bị mất tiền, mất đồ đạc, khi một người thân chết.
- Cũng thế xưa nay chúng ta không chủ động vác thánh giá. Thập giá nào Chúa gởi thì chúng ta rán mà vác vậy thôi. Nguyên việc khám phá thứ nhất này cũng cho thấy chúng ta chưa thực sự xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu. Người môn đệ thật của Chúa phải chủ động từ bỏ và chủ động vác thập giá.
* 2/. Đòi hỏi của tình yêu
Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.
Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.
Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.
Trùng Nhĩ dù sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ “dứt bỏ” không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là “ít hơn”. Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu “yêu và bỏ”. Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mi 10, 37).
Vậy ý của Chúa Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.
Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.
Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.
Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận “cầm cày mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy, những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Đúng như Pierre Charles đã nói về họ: “Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi”.
Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.
Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hôi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen. (TP)
* 3. Lời nói thẳng thắn
Dòng Thừa Sai Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta đã rất nổi tiếng, nên có rất nhiều thiếu nữ xin gia nhập. Nhưng Mẹ Têrêsa rất thẳng thắn, Mẹ nói với họ: “Công việc người nữ tu dòng này rất cực khổ: chúng tôi phải phục vụ cho những người nghèo và những người vô gia cư. Chúng tôi phải làm việc suốt 24 giờ mỗi ngày”. Mẹ Têrêsa thẳng thắn như thế để các thiếu nữ ý thức và cân nhắc cẩn thận trước khi gia nhập dòng.
Gia nhập “dòng” của Chúa Giêsu để làm môn đệ Ngài còn cực khổ hơn nhiều. Vì thế Chúa Giêsu cũng rất thẳng thắn nói rõ cho những kẻ đi theo Ngài: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải sẵn sàng từ bỏ tất cả và còn phải vác thập giá mà theo.
Làm môn đệ Chúa không phải là bám theo một nhân vật quyền thế để có ô dù che chở hay để chia xẻ vinh dự, mà là để sống theo gương Ngài: hy sinh tất cả vì yêu thương mọi người.
Bởi đó người muốn làm môn đệ Chúa cần phải suy nghĩ kỹ xem mình có thể đáp ứng được những đòi hỏi khó khăn ấy không. Như người xây tháp phải suy nghĩ kỹ về khả năng tài chính của mình, như một ông vua trước khi xuất chinh phải suy nghĩ kỹ về sức mạnh quân sự của mình.
Nếu chúng ta suy nghĩ kỹ về khả năng đáp ứng của mình trước hai đòi hỏi trên của Chúa Giêsu, chắc là chúng ta nản lòng không dám làm môn đệ của Ngài nữa.
Tuy nhiên gương các tông đồ là một khích lệ cho chúng ta: ban đầu các ông theo Chúa Giêsu mà không suy nghĩ gì nhiều; nhiều lúc các ông còn nghĩ rằng theo Chúa Giêsu thì sẽ được chia quyền chia thế trong nước mà Ngài sẽ thành lập. Nhưng Chúa Giêsu từ từ thanh luyện suy nghĩ của các ông. Sau ngày Chúa phục sinh, các ông mới hiểu rõ thế nào là làm môn đệ Chúa; và nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần các ông đã can đảm từ bỏ tất cả và vác thập giá của mình đi theo Chúa một cách hăng hái và vui vẻ.
Hiện giờ chúng ta chưa đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi của Chúa về một người môn đệ. Nhưng ít ra ý thức của chúng ta về những đòi hỏi đó cũng giúp chúng ta không đi theo Chúa vì những tính toán sai lệch. Nhìn gương các tông đồ và tin tưởng vào sự trợ giúp của ơn Chúa, chúng ta có thể can đảm từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.
* 4. Người-đi-theo và người-môn-đệ
Trong đoạn Tin Mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo” và “làm môn đệ”. Thánh Luca đã xử dụng những cụm từ này rất khéo: “Khi ấy có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi”… Rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu nhưng không phải tất cả đều là “môn đệ” Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là môn đệ.
Người-đi-theo chưa hẳn là người-môn-đệ
Cũng như người-nói “Lạy Chúa lạy Chúa” chưa hẳn là người-làm theo ý Chúa.
Cũng như người-đến-nhà-thờ chưa hẳn là người-tín-hữu.
Cũng như người-mang-danh kitô hữu chưa hẳn là người-kitô-hữu.
Điều khiến người-nói thành người-làm, người-đến-nhà-thờ thành người-tín-hữu, người-đi-theo thành người-môn-đệ, người-mang-danh-kitô-hữu thành người-kitô-hữu-đích-thực, đó là từ bỏ và vác thập giá.
Một trong những khiếm khuyết của Giáo Hội–và là khiếm khuyết lớn nhất – đó là trong Giáo Hội có rất nhiều người-đi-theo Chúa Giêsu, nhưng rất ít người-môn-đệ thực sự của Ngài.
* 5. Trả giá
Muốn làm việc gì cũng phải trả giá cho việc đó. Việc càng trọng thì giá càng cao. Nhiều người không làm xong việc mình muốn làm là vì không dám trả giá.
Antoinette là một cô gái rất đẹp nhưng rất nghèo. Điều mơ ước duy nhất của cô là trở thành giàu có, và cô nghĩ rằng cách dễ nhất là lấy được một người chồng giàu. Nhưng rủi thay khi cô lấy chồng thì người chồng của cô chỉ là một kẻ thường dân. Thất vọng và chán nản, cô chẳng muốn làm gì nữa, cũng chẳng muốn đi đâu hết.
Một hôm, Antoinette nhận được thiệp mời đến dự một bữa tiệc gồm toàn những người quý phái. Cô mừng lắm. Nhưng cô không có y phục và nữ trang sang trọng. Tuy nhiên cô biết cách thu xếp: cô rút hết tiền tiết kiệm ra mua được một bộ áo đẹp; cô đến với Marie một bạn học cũ mượn được một chiếc vòng nạm kim cương.
Thế là Antoinette xuất hiện trong bữa tiệc với một dáng vẻ rất xinh đẹp và sang trọng. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về cô. Cô rất sung sướng. Tuy nhiên khi tiệc tàn, trở về nhà, cô hoảng hốt khi biết chiếc vòng nạm kim cương đã rơi mất. Tìm tới tìm lui nhiều lần mà vẫn không thấy.
Chẳng còn cách nào khác, cô đành phải đi vay 40 ngàn quan với lãi xuất cao để ra tiệm kim hoàng mua một chiếc vòng y như thế trả lại cho Mary. Vì hai chiếc vòng rất giống nhau nên Marie không thắc mắc gì cả.
Từ đó trở đi, Antoinette phải làm đủ mọi việc để kiếm tiền trả nợ. Sau 10 năm, cô trả xong nợ. Nhưng khi đó trông cô rất già và không còn xinh đẹp như ngày xưa nữa.
Một hôm Antoinette và Marie tình cờ gặp nhau:
– Ồ sao trông bạn già đi và tiều tụy như thế? Marie giật mình hỏi.
– Tất cả chỉ tại bạn đó.
– Sao lại tại tôi?
Antoinette kể rõ đầu đuôi sự việc. Nghe xong Marie nói:
– Trời ơi tội nghiệp cho bạn quá. Chiếc vòng nạm kim cương của tôi là đồ giả. Giá chỉ có 400 quan thôi.
Thế là đột ngột Antoinette được Marie trả lại 39. 600 quan. Cô đã trở thành người giàu có. Nhưng với cái giá là 10 năm làm quần quật đủ mọi thứ việc cùng với một thân xác tiều tuỵ và một bộ mặt già nua.
Phải chi Antoinette đã chịu khó làm việc ngay từ đầu thì cái giá đâu đến nỗi cao quá như vậy!
6/. Chuyện minh họa
a/ Một hôm, có một người đến hỏi một giáo sư nổi tiếng về một thanh niên: “Anh ta có phải là môn đệ của Thầy không?” Vị giáo sư đáp: “Quả thật anh ta đang theo học những bài dạy của tôi. Nhưng không bao giờ anh ta là môn đệ của tôi”.
b/ Một vị vua đến thăm một thiền viện. Nhà vua hỏi vị thiền sư: “Trong thiền viện này có tất cả bao nhiều người đang theo học”. Thiền sư đáp “10 ngàn”. Nhà vua rất ngạc nhiên. Nhưng nhà vua càng ngạc nhiên hơn nữa khi thiền sư nói tiếp: “Trong số đó, số môn đệ thật của tôi chỉ có 4 hoặc 5 người”.
V/. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, có người nào biết được ý định của Thiên Chúa? Ai hiểu được Chúa muốn gì? Với ước mong được Chúa gan Đức Khôn ngoan và Thánh thần để giúp ta hiểu được thánh ý Người, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1/. Hội thánh luôn bênh vực những người thấp cổ bé miệng / bảo vệ những ai cô thế cô thân / giúp đỡ những kẻ đói rách bần cùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ các công cuộc từ thiện của Hội thánh trên khắp hoàn cầu.
2/. Ngày nay / tuy chế độ nô lệ không còn nữa / nhưng nhiều hình thức nô lệ khác tinh vi hơn vẫn tồn tại và phát triển / làm mất hết tự do và phẩm giá của con người / như việc buôn bán phụ nữ còn đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những nhà lãnh đạo các quốc gia / sớm tìm được phương thế thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng kinh tởm này.
3/. Trách nhiệm của người Kitô hữu / là cộng tác với hất thảy mọi người thành tâm thiện chí / để xây dựng trái đất này ngày càng xinh đẹp và hữu ích hơn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết cố gắng thực hiện trọn vẹn bổn phận cao quý này.
4/. Chúa Giêsu nói: / Ai không vác thập giá mình mà theo tôi / thì không thể làm môn đệ tôi được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn can đảm đón nhận mọi thử thách / và trung kiên bước theo Chúa mái đến cùng.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương và mời gọi chúng con làm con cái Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống xứng danh người Kitô hữu, để những anh chị em chưa nhận biết Chúa, nhìn vào đời sống của chúng con mà nhận ra Chúa chính là tình yêu. Chúng con cầu xin
VI/. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Tác giả đoạn sách Khôn ngoan hôm nay đã viết “ý định của Chúa ai nào biết được”. Chúng ta hãy xin Chúa tỏ cho chúng ta biết được thánh ý của Ngài để chúng ta thi hành.
VII/. Giải tán
Chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa Giêsu “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Trong tuần này chúng ta hãy can đảm vác lấy những thập giá hằng ngày để theo Chúa.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- C
TỐNG KHỨ TẤT CẢ– Chú giải của William Barclay
Trong khi Chúa Giêsu đi hướng về thành Giêrusalem, dân chúng đi theo càng ngày càng đông và sự náo nhiệt phấn khởi càng tăng. Dân chúng tưởng rằng Ngài sắp lập một nước vinh quang đầy quyền uy, họ mong được dự phần trong vinh hiển ấy. Để đánh tan hiểu lầm, Chúa Giêsu quay lại phán bảo họ những điều kiện chính yếu để làm môn đệ Ngài. Bằng cách rất sinh động, Ngài bảo họ rằng theo Ngài không phải là để được quyền thế và vinh quang của thế gian này, nhưng phải có lòng trung thành đến độ sẵn sàng chịu khổ như sự thống khổ của kẻ bị treo trên cây thập giá. Chúng ta không nên hiểu lời Chúa Giêsu theo một nghĩa đen lạnh lùng, thiếu óc tưởng tượng. Ngôn ngữ Đông phương bao giờ cũng sinh động tới độ cao nhất của trí khôn loài người. Khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ghét những kẻ gần gũi và thân thiết với mình là Ngài không có ý nói theo nghĩa đen. Ngài chỉ muốn nói rằng tình không có tình yêu nào trên đời này có thể so sánh với tình yêu mà chúng ta có đối với Ngài được. Có hai chân lý nổi bật trong đoạn này:
- Có thể là người theo Chúa Giêsu mà vẫn không phải là đầy tớ của Ngài, có thể là kẻ theo trại quân mà vẫn không phải lính của vua, có thể là kẻ bám víu vào một đại sự mà vẫn không dấn thân gì cả. Có người nói với một giáo sư về một chàng thanh niên rằng: “Anh ta nói với tôi rằng anh ta là học trò của ông”. Vị giáo sư thẳng thắn trả lời: “Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi, nhưng không phải là một trong số học trò của tôi”. Có sự khác biệt giữa một người trong lớp và thực sự làm học trò. Thật rất đáng buồn cho Hội Thánh khi trong Hội Thánh có quá nhiều kẻ theo Chúa cách xa xa và có quá ít người thực sự là môn đệ Chúa.
Những lời Chúa phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ nghe chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả một điều: tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong trái tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy. Thánh Grêgoriô Cả giải thích câu “khó nghe” này, ngài viết: “Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt khoát là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu: Chúa trên hết.
Thật ra những lời này cũng chỉ là lặp lại yêu sách mà Đức Giêsu đã đặt trong toàn bộ giáo huấn của Ngài (x. Lc 6,27-35). Đây quả là lời đanh thép. Dầu động từ ghét hay khinh thì cũng không diễn tả đúng được ý của Chúa, nhưng dầu sao những lời của Chúa cũng rất mạnh, và không thể giản lược vào “ít yêu hơn” như có người muốn để cho nó nhẹ đi. Lời rất khủng khiếp không phải vì nó được diễn tả trong thể phủ định, nhưng vì Đấng nói ra cũng là Đấng từng yêu tha nhân như chính mình và là người hiến mạng vì loài ngừơ. Lời Ngài chỉ phải hiểu đơn giản rằng đối với Chúa không có thái độ nửa vời. Người ta có thể diễn dịch lời Chúa bằng yêu hơn, yêu nhiều, hay đừng yêu bằng, một tình yêu vị kỷ cũng đừng yêu nửa vời: chúng ta phải yêu bằng chính tình yêu của Thiên Chúa” (Escriva). Chính Công Đồng Vaticanô II cũng dạy các tín hữu: “Phải chuyên lo làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn đẹp lòng người ta, luôn sẵn lòng bỏ mọi sự vì Chúa Kitô và chịu bách hại vì sự công chính”. (TĐ 4) và trong hiến chế Mục vụ Công Đồng dạy: “Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Ngài nêu gương để chúng ta theo vết chân Người, nhưng Người còn mở đường mới để nếu chúng ta theo thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới” (MV 22). Đường của người Kitô hữu đi là theo chân Đức Kitô, là nên giống Ngài. Không có con đường nào khác để theo Ngài ngoài con đường gúp Ngài vác thập giá. Kinh nghiệm cho hay rằng đau khổ luôn có sẵn và bất hạnh cũng kèm theo nếu thiếu một phản ứng với tinh thần đạo Kitô. Thập giá đâu phải là tấn bi kịch, thập giá là phương pháp sư phạm Chúa dùng để thánh hóa ta qua đau khổ, để liên kết ta vào Chúa Kitô và để ta được xứng đáng với vinh quang. Thế nên Đấng Đáng Kính Escriva đã reo lên: “Chúc tụng đau khổ! Đáng yêu thay đau khổ! Thánh thay đau đớn!”
- Phải tính cái giá phải trả khi theo Chúa. Không muốn làm nản lòng những kẻ theo Ngài, nhưng Ngài bảo họ phải tính toán trước cho kỹ. Ngài minh giải điều đó bằng hai hình ảnh về người xây tháp và vị vua lâm chiến. Cái tháp mà người định xây đó có lẽ là cái tháp của vườn nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó có thể trông coi cà vườn kẻo trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật đáng xấu hổ. Hay là ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính toán trước, đo lường số quân của mình với lực lượng của đối phương. Chúa Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống tín hữu hơn là bước vào rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước vào cuộc sống ấy đã phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi phục vụ.
Qua những hình ảnh minh họa này, Chúa cho chúng ta thấy nếu con người khôn ngoan cần phải tiên liệu các rủi ro đi kèm theo với bất cứ công việc nào, thì người Kitô hữu còn có lý do hơn để mà tự tình và quảng đại ôm lấy thập giá, vì nếu không thế sẽ không theo Chúa Kitô được: “Người này bắt đầu mà lại không hoàn thành nổi”. Lời phẩm bình không ai muốn nghe, mà nếu bạn muốn bạn sẽ không bao giờ là đối tượng, vì bạn có đủ mọi phương tiện để hoàn thành việc nên thánh: “ơn dư dật của Chúa và ý chí của bạn” (Escriva).
Nếu trước đó Chúa có nói tới việc ghét cha mẹ và đến hiến mạng sống, thì giờ đây cũng vẫn đòi hỏi cao độ ấy với sự từ bỏ của cải vật chất. Câu này là phải được áp dụng cho cả hai dụ ngôn nêu trên. Cũng như một vua nhất định giao chiến dầu biết tình hình ít quân là thiếu khôn ngoan, cũng thế một người đến theo Chúa mà lại không từ bỏ của cải là điên khùng. Từ bỏ của cải ở đây phải thực tiễn và cụ thể: tấm lòng phải cởi bỏ mọi trói buộc của cải trần gian mới có thể bước theo Chúa như Chúa nói sau này một người không thể vừa thờ Chúa vừa thờ tiền bạc (Lc 16,13). Không thiếu trường hợp Chúa đòi hỏi một số người sống đời nghèo khó tuyệt đối và tự nguyện; còn đối với tất cả, Chúa mong muốn một sự từ bỏ thực sự và quảng đại trong sử dụng. Nếu người Kitô hữu còn phải sẵn sàng từ bỏ đến cả mạng sống, còn nói chi đến việc từ bỏ của cải: “Nếu bạn là người của Chúa. Phải khinh chê của cải một cách cố chấp cũng như người thế gian ngoan cố trong việc tìm kiếm nó” (Escriva).
Ngoài ra vì tâm hồn muốn được đầy tràn Chúa, trước hết cần phải tống khứ ra ngoài tất cả những gì cản trở: giáo lý Con Thiên Chúa đến trần gian dạy là phải khinh chê tất cả các tạo vật, để thích ứng ta tiếp nhận Thần Thiên Chúa. Bao lâu tâm hồn ta không từ bỏ được các tạo vật, thì không thể nào đón nhận được Thần Linh Ngài và không thể biến đổi ta trong Ngài” (Gioan thánh giá, Montre du Cormel). Nhưng nếu có ai sợ hãi trước tất cả những đòi hỏi ấy thì nên nhớ rằng mình không phải chiến đấu cô đơn đâu, Đấng đã kêu gọi chúng ta vào con đường hẹp, sẽ đi cùng chúng ta trên con đường đó, và Ngài sẽ ở cùng cuối đường để đón tiếp chúng ta.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN -C
LÀM MÔN ĐỆ CỦA CHÚA– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ai trong chúng ta cũng mong ước được làm môn đệ của Chúa. Ai cũng muốn theo chân Chúa. Nhưng ta có thực sự hiểu làm môn đệ Chúa là như thế nào không? Hôm nay Chúa chỉ cho ta thấy rõ điều đó.
Làm môn đệ là một việc làm nghiêm túc. Đây không phải là một cảm tính bồng bột nhất thời. Nhưng là một việc lâu dài. Chúa Giêsu ví việc làm môn đệ theo Chúa với việc “xây dựng một cây tháp” và việc “chiến đấu với kẻ thù”. Xây dựng cây tháp là một việc làm lớn lao. Chiến đấu với kẻ thù là việc làm nghiêm trọng. Vì thế cần phải ngồi xuống suy tính cho cẩn trọng, chi li. Cũng thế việc làm môn đệ của Chúa là một việc làm nghiêm túc, vừa lớn lao như sự nghiệp cả đời, vừa nghiêm trọng vì ảnh hưởng tới cả định mệnh. Vì thế phải ngồi xuống suy tính cho kỹ lưỡng để có thể theo Chúa đến cùng. Phải suy tính kỹ lưỡng vì làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng.
Làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng. Môn đệ không phải là kẻ hiếu kỳ cưỡi ngựa xem hoa. Môn đệ không phải là kẻ tài tử nay làm mai không. Môn đệ là người đi theo thày suốt đời, sống như thày trong mọi sự. Chính vì thế mà phải coi thày là thần tượng duy nhất, không yêu mến thày. Chính vì thế mà phải từ bỏ tất cả, không chỉ người thân mà từ bỏ cả chính bản thân với những ý nghĩ riêng tư. Để không những đi theo thày, sống như thày mà con ăn nói như thày, suy nghĩ như thày nữa. Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong mình. Muốn có Chúa Kitô trong mình, ta phải loại bỏ tất cả những gì không phải Chúa ra khỏi mình. Điều này chắc chắn không dễ dàng. Nhưng ta an tâm, vì Chúa Giêsu không chỉ đòi hỏi ta. Người đã đòi hỏi chính mình trước. Chúa Giêsu không chỉ đòi ta vác thánh giá. Chính Người đã vác thánh giá trước. Ta sẻ cảm thấy dễ dàng vì chỉ việc làm như Chúa Giêsu.
Làm môn đệ là làm như Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi ta từ bỏ, chính Người đã từ bỏ trước. Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người và tự nguyện chết thay loài người. Khốc liệt nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới, Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Chúa đã từ bỏ ý riêng, vâng theo ý Cha, sẵn sàng ra đi chịu chết: “Nhưng đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”.
Nhờ hoàn toàn từ bỏ ý riêng, vác thánh giá đi đến cùng, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc của Chúa Cha trao phó, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Người môn đệ, khi hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẽ nên một với Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1/. Làm môn đệ là gì?
2/. Chúa Giêsu đã nêu gương từ bỏ thế nào?
3/. Tại sao ta phải từ bỏ tất cả?
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- C
ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA – Lm. Đan Vinh HHTM
- TIN MỪNG : Lc 14,25-33
(25) Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ : (26) “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. (27) Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được. (28) Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? (29) Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo : (30) “Anh ta đã khởi công xây mà chẳng có sức làm cho xong việc”. (31) Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống, bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? (32) Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa. (33) Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
- Ý CHÍNH : Bấy giờ có đông người đi theo Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Nhưng họ lại tưởng Người sắp đi lãnh đạo cuộc cách mạng chống lại đế quốc Rôma giành độc lập theo chủ nghĩa Thiên Sai Do thái. Để đám đông khỏi bị ảo tưởng về sứ vụ cứu thế của mình, Đức Giê-su đã dạy họ ba điều kiện để có thể đi theo làm môn đệ cua Người: Một là họ phải yêu mến Người trên cả tình cảm gia đình ruột thịt và mạng sống của mình. Hai là họ phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình mà đi theo Người. Ba là họ phải khôn ngoan suy tính kỹ trước khi quyết định theo Người giống như một người sắp xây tháp cao hay như một ông vua sắp đem quân đi giao chiến với quân thù.
- CHÚ THÍCH :
– C 25-27 : + Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su : Cuộc hành trình của Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem (x. Lc 9,51) trùng hợp với cuộc hành hương của người Do thái lên dự lễ Vượt Qua tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vì thế có nhiều người cùng đi với Đức Giê-su làm thành một đám người rất đông. + “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con”… : Tiếng Do thái không có lối văn so sánh. Do đó, khi muốn diễn tả ý hơn kém, người ta thường dùng lối văn song đối như “yêu” đối với “ghét” hay “từ bỏ”. Như vậy “từ bỏ” cha mẹ… chỉ có nghĩa là “yêu ít hơn”. Chính Mát-thêu đã hiểu như thế khi viết : “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy”… (Mt 10,37). Do đó khi nghe Đức Giê-su dùng kiểu nói có vẻ cứng rắn như “từ bỏ cha mẹ”, chúng ta sẽ không nghĩ rằng Người loại bỏ giới răn thứ tư là “Thảo kính cha mẹ” (x. Lc 18,20). Ở đây, Người đòi những ai muốn làm môn đệ phải dành mọi sự quý giá nhất cho Người. + “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” : Những ai muốn theo Đức Giê-su thì phải vác thập giá mình mà theo Người. Thập giá hôm nay là những hy sinh và từ bỏ mà người tín hữu phải chấp nhận khi bước theo Chúa.
– C 28-30 : + Ai trong anh em muốn xây một cây tháp… : Đây là một ví dụ cho thấy cần suy nghĩ kỹ trước khi làm một việc quan trọng. Chỉ những ai bền chí, có suy trước tính sau và không nản lòng thối chí mới có thể theo làm môn đệ của Người.
– C 31-33 : + Hoặc có vua nào… : Cũng như việc quyết định giao chiến của một ông vua cần cân nhắc thận trọng thế nào, thì việc đi theo Đức Giê-su cũng cần phải được suy tính kỹ càng trước khi quyết định như vậy. + Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được : Đây là lần thứ hai Đức Giê-su nhắc đến sự từ bỏ của cải như điều kiện để trở thành môn đệ của Người.
- CÂU HỎI : 1) Khi đòi những ai muốn làm môn đệ của mình phải dứt bỏ tình cảm gia đình hoặc từ bỏ cả mạng sống của mình, phải chăng Đức Giê-su đã phế bỏ điều răn thứ tư dạy “con cái phải thảo kính cha mẹ” ? 2) Đức Giê-su đòi môn đệ phải vác thập giá mình mà theo Người. Vậy thập giá ám chỉ điều gì ? 3) Đức Giê-su đã nêu ra hai dụ ngôn nào để dạy môn đệ phải cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định theo Người ? 4) Câu nào cho thấy Đức Giê-su đòi môn đệ phải từ bỏ ngay cả những của cải vật chất nữa ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA : “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi” (Lc 14,26).
- CÂU CHUYỆN :
1) SẴN SÀNG HY SINH MỌI SỰ TRẦN GIAN ĐỂ ĐƯỢC PHỤNG SỰ CHÚA :
Ô-ĐÉT (Odette) là một cô gái xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Bỉ. Năm 17 tuổi, cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ cô đến tu viện để bắt cô trở về nhà. Từ lâu, cha mẹ đã có ý gả cô cho vị lãnh chúa tên là Si-mon ở một lâu đài gần đó.
Vốn biết cô con cái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô phải âm thầm chuẩn bị cho hôn lễ của cô. Vào một buổi sáng đẹp trời, cô bị đánh thức vì có tiếng ồn ào lạ thường trong lâu đài. Vén tấm màn nhìn qua cửa sổ, cô ngạc nhiên thấy một chiếc xe hoa lộng lẫy đang tiến vào qua chiếc cổng để vào đậu trong sân trước nhà. Hỏi đầy tớ, cô mới biết gia đình đang chuẩn bị lễ cưới rất hoành tráng cho cô. Kế đó, các người hầu đã vào phòng để trang điểm cô dâu và cho cô mặc chiếc áo cưới xinh đẹp. Họ đưa cô xuống nhà nguyện của lâu đài. Nơi đây đã có đông đủ quý khách, và linh mục tuyên úy của lâu đài nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến phần giao ước. Vị chủ tế hỏi Ô-ĐÉT có muốn nhận Si-mon làm chồng theo luật Giáo Hội không ? Cô đã dõng dạc tuyên bố : “Con không nhận lãnh chúa Si-mon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tất cả tình yêu và đức tin của con, con đã hiến dâng cho Chúa Ki-tô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào, cho dù sự hăm dọa có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Ki-tô là bạn trăm năm duy nhất của đời con”.
Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng của con thì thấy Ô-ĐÉT gục đầu trên bàn trang điểm với vũng máu tươi trước mặt. Ông rất đau lòng và hiểu được ý định của Ô-ĐÉT : Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng dao làm biến dạng chiếc mũi xinh đẹp của cô. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi tại sao phải làm như vậy ? Cô thản nhiên đáp : “Như thế sẽ không ai còn cấm cản con bước theo làm môn đệ Chúa Ki-tô nữa”.
Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được bề trên cho nhập vào tu viện cũ, và sau thời gian khấn trọn 3 năm, nữ tu Ô-ĐÉT đã được chị em trong dòng bầu lên làm tu viện trưởng, đang khi cô mới được 23 tuổi đời.
2) LÒNG HY SINH TẬN TỤY CỦA MỘT BỀ TÔI TRUNG THÀNH :
GIỚI TỬ THÔI người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn. Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.
Trùng Nhĩ dù sau đó có làm vua thì cũng chỉ là vua trần gian, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực theo hầu, hơn nữa còn hy sinh cả bản thân để phụng sự chủ, thì Chúa Giê-su chính là Vua Thiên Sai, Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi bằng lòng chịu chết cứu độ chúng ta, lẽ nào chúng ta lại không dám hy sinh từ bỏ mọi sự và mạng sống mình để nên môn đệ của Người ?
3) LÒNG HY SINH PHỤC VỤ ĐẤT NƯỚC CỦA NEN-SƠN MĂNG-ĐE-LA :
NEN-SƠN MĂNG-ĐE-LA (Nelson Mandela), một người thông minh muốn lập nghiệp như mọi người khác. Một thương gia kia, qua lăng kính của luật cung cầu, đã nói với Măng-đe-la : “Tất cả là tiền bạc. Bởi vì giàu sang và tiền bạc đồng nghĩa với hạnh phúc. Bạn phải chiến đấu cho tiền bạc và không gì ngoài tiền bạc. Một khi bạn có đủ tiền bạc, bạn sẽ không còn muốn điều gì khác trên đời”. Nếu Măng-đe-la làm theo lời khuyên đó, ông có thể đã làm nhiều điều tốt phục vụ bản thân. May mắn thay cho nước Nam Phi, thay vì lo cho mình, Măng-đe-la đã cống hiến cả cuộc đời để phục vụ đất nước.
Để làm điều đó, Nen-sơn đã phải hy sinh, ông viết : “Đối với tôi, không phải dễ dàng gì khi phải xa lìa vợ con, giã từ những ngày tươi đẹp hạnh phúc. Sau một ngày làm việc ở văn phòng, tôi có thể quay về với gia đình để ăn bữa tối, thì tôi lại bị cảnh sát liên tục săn đuổi, phải xa cách những người thân yêu nhất, phải đối diện liên tục với những bất trắc như có thể bị bắt. Nen-sơn đã từng bị bắt và bị 27 năm trong cảnh tù đày vì lòng yêu nước. Ông đã trở thành vị tổng thống vĩ đại của nước Nam Phi.
4) TÔI LÀ THỨ BA :
GHÊN SÊ-Ơ (Gale Sayers), một cầu thủ chơi ở hàng hậu vệ của đội banh CHI-KÊ-GÔ BE-Ơ (Chicago Bears) vào thập niên 1960, được đánh giá là một trong những hậu vệ chạy nhanh nhất trong làng bóng đá chuyên nghiệp Hoa kỳ. Chung quanh cổ của cậu lúc nào cũng đeo lủng lẳng một chiếc mề đay bằng vàng, trên có khắc ba chữ “I am Third” nghĩa là “Tôi là thứ Ba”. Khi được hỏi lý do, anh đã cho biết như sau : “Chúa là thứ Nhất, tha nhân là thứ Hai, và tôi là thứ Ba”. Trong quyển tự thuật đời mình, Ghên viết : “Tôi cố gắng sống câu nói ghi trên tấm mề đay của tôi. Không hẳn lúc nào tôi cũng sống được như vậy. Nhưng dù sao việc đeo câu ấy cũng giúp tôi khỏi đi trệch đường quá xa” (Theo Mark Link SJ).
5) MƯỜI NĂM LÀM VIỆC VẤT VẢ TRẢ GIÁ CHO ƯỚC MƠ ĐỔI ĐỜI :
AN-TOAN-NÉT (Antoinette) là một cô gái có sắc đẹp nhưng lại lâm cảnh nghèo khó. Điều mơ ước duy nhất của cô là phải trở thành người giàu có, và cô nghĩ cách dễ nhất để được giàu nhanh là lấy được một anh chồng giàu có. Nhưng rủi thay khi cô lấy chồng thì người chồng của cô có dáng vẻ bên ngoài sang trọng, nhưng thực sự cũng chỉ là một người thường dân. Thất vọng và chán nản, cô chẳng còn thiết làm gì và cũng chẳng muốn đi đâu. Một hôm, An-toan-nét qua người bạn thân, cô đã nhận được thiệp mời đến dự một bữa tiệc gồm toàn những người quý phái khiến cô rất mừng. Nhưng cô lại không có y phục xứng hợp và nữ trang quý phái. Tuy nhiên cô cũng biết thu xếp là rút hết khoản tiền tiết kiệm ra mua một bộ váy áo đẹp ; cô cũng đến với Ma-ry là bạn học cũ và mượn được một chiếc vòng nạm kim cương.
Thế là An-toan-nét đã xuất hiện tại bữa tiệc với dáng vẻ xinh đẹp và sang trọng. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về cô khiến cô rất sung sướng. Tuy nhiên khi tiệc tàn, trở về nhà, cô hoảng hốt khi biết chiếc vòng nạm kim cương đã bị rơi từ lúc nào cô cũng không hay. Tìm tới tìm lui nhiều lần mà vẫn không thấy. Chẳng còn cách nào khác, cô đành phải đi vay 40 ngàn quan với lãi xuất cao để ra tiệm kim hoàng mua một chiếc vòng kim cương giống y như cái đã mượn để trả lại cho Ma-ry. Vì hai chiếc vòng rất giống nhau nên cô bạn Ma-ry không thắc mắc gì cả. Từ đó trở đi, An-toan-nét đã phải làm đủ mọi công việc để kiếm tiền trả nợ. Mãi 10 năm sau, cô mới trả xong hết nợ. Nhưng bấy giờ trông cô già và không còn vẻ đẹp quyến rũ như trước.
Một hôm hai cô bạn An-toan-nét và Ma-ry tình cờ gặp nhau :
– Ồ kỳ này sao trông bạn già đi và tiều tụy như thế ? Ma-ry giật mình hỏi.
– Tất cả nguyên nhân là tại bạn đó.
– Sao lại tại tôi ?
An-toan-nét kể rõ đầu đuôi sự việc. Nghe xong Ma-ry nói :
– Trời ơi tội nghiệp cho bạn quá. Chiếc vòng nạm kim cương của tôi cho bạn mượn là đồ giả. Giá chỉ có 400 quan thôi.
Thế là An-toan-nét đã được Ma-ry trả lại 39.600 quan. Cô đột nhiên trở thành một người giàu có. Nhưng cô đã phải trả giá để có số tiến đó bằng 10 năm làm việc quần quật khiến thân hình tiều tuỵ cùng với vẻ mặt già nua. Nếu An-toan-nét sớm biết bằng lòng với số phận và đừng ham trèo quá cao thì cô đã không phải trả một cái giá quá đắt như vậy !
- SUY NIỆM :
Trong Tin Mừng hôm nay, có hai cụm từ cần phân biệt là “đi theo” và “làm môn đệ”: “Khi ấy có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ : Ai không dứt bỏ… thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi”… Qua đó cho thấy : rất đông người “đi theo” Chúa Giê-su, nhưng không phải mọi người đều có thể trở thành “môn đệ” của Người.
1) ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU ? :
- a) Một là phải có tinh thần siêu thoát từ bỏ : Mọi thành quả trêntrần thế này, đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì cố gắngmới có thể đạt thành quả mỹ mãn. Chẳng hạn : một lực sĩ muốn chiếm huy chương vàng thế vận hội Ô-lym-pic, phải hy sinh tập luyện ngày đêm trong thời gian dài mới hy vọng chiếm được huy chương danh dự. Một người mẫu muốn có thân hình thon gọn, với ba vòng chuẩn, đòi phải ăn uống kiêng khem và tập thể dục hằng ngày… Chỉ cần lơ là một chút là thân hình sẽ bị mất vẻ thẩm mỹ ngay. Cũng thế, một sinh viên muốn thi đậu và đậu thủ khoa trong trường Đại học, hay muốn trở thành bác sĩ, luật sư… cũng phải trải qua bao năm dùi mài kinh sử. Ngoài ra, những người bệnh cao huyết áp do có nhiều chất Cholesterol trong máu hay bị bệnh thừa cân béo phì… cũng phải theo chế độ ăn kiêng vất vả trong một thời gian dài mới có thể giảm cân và tránh bị đột quỵ.
– Còn các tín hữu chúng ta : Nếu muốn trở thành những người môn đệ của Chúa Giê-su và hy vọng sau này được về trời hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, đòi chúng ta phải hy sinh từ bỏ theo lời dạy của Chúa Giê-su : “Ai đến với tôi mà không ghét bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
– Ghét bỏ trong câu nói của Đức Giê-su nghĩa là gì ? : Vì tiếng Do thái không có thể văn so sánh hơn kém, nên người Do thái thường dùng lối văn song đối như : “yêu và ghét bỏ“. Ghét bỏ chỉ có nghĩa là yêu ít hơn. Câu này tương đương với câu Chúa nói trong Tin Mừng Mat-thêu như sau : “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Qua đó, Đức Giê-su đòi những ai muốn làm môn đệ của Người phải tôn Người lên hàng đầu, trên cả tình yêu dành cho người thân như : cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và trên cả mạng sống mình nữa. khi cần chọn một trong hai thì người môn đệ phải ưu tiên chọn Đức Giê-su.
- b) Hai là phải vác thập giá mình mà theo Đức Giê-su : Thập giá ở đây được ví như một cây gậy đi đườngrất hữu ích cho một vận động viên leo núi : Vì nếu không có cây gậy dò đường và chống đỡ thì họ sẽ dễ bị mệt mỏi, chán nản bỏ cuộc nửa chừng và có thể còn bị tai nạn rơi xuống vực thẳm nữa. Nhờ biết bỏ đi những rào cản, người môn đệ mới dễ vác thập giá mình mà theo Đức Giê-su.
Người tín hữu cần biết chấp nhận thập giá là các thử thách gặp phải như : Bị kẻ gian giật điện thoại, cướp xe cộ… chúng ta sẽ không quá buồn phiền. Hoặc khi có cha mẹ, vợ chồng hay người thân qua đời… Chúng ta cũng không quá đau buồn buông xuôi mọi sự. Khi làm ăn thua lỗ, thi rớt đại học, bị người yêu bỏ rơi… chúng ta cần bình tĩnh đón nhận, vác thập giá đó để nên môn đệ Đức Giê-su.
- c) Ba là phải khôn ngoan và kiên trì theo Chúa đến cùng : Khôn ngoan suy tính xem mình có thể đáp ứng được những đòi hỏi để theo Đức Giê-suhay không. Giống như một người muốn xây một cây tháp phải khôn ngoan suy nghĩ về khả năng tài chính của mình. Hoặc như một ông vua trước khi xuất chinh phải biết đánh giá tình hình để có quyết định phù hợp. Có thể sau khi đi theo Chúa nhiều người vẫn bị nản lòng bỏ Chúa khi găp hoàn cảnh khó khăn. Khi đó hãy nhìn gương của các tông đồ : ban đầu các ông theo Đức Giê-su là để hy vọng sẽ được chia sẻ quyền lực địa vị trong Nước Trời mà Người sắp thiết lập. Nhưng Đức Giê-su đã dần dần thanh luyện suy nghĩ của các ông. Nhưng phải đợi đến sau khi Chúa phục sinh, nhờ ơn Thánh Thần, các ông mới hiểu rõ điều kiện để đi theo làm môn đệ Chúa; và can đảm từ bỏ mọi sự. JOHN NEWTON đã nói : “Những khổ sở mà đời ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nhỏ nó ra để mỗi ngày Người chỉ chất lên vai chúng ta một khúcthôi… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Thế nhưng, nhiều người lại không làm như vậy : chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay, mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và của cả ngày mai. Nên họ đã không thể vác nổi !”.
2) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NÊN MÔN ĐỆ THỰC SỰ CỦA ĐỨC GIÊ-SU ? :
- a) Mỗi ngày phải tập từ bỏ : Có những điều xấuchúng ta phải từ bỏnhư : rượu chè, ma túy, trụy lạc… Tuy nhiên cũng có những điều tốt mà chúng ta vẫn phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn như : Bỏ nghề đang làm để làm nghề mới phù hợp với ơn gọi tu sĩ, chọn ngành học vừa hợp với khả năng lại vừa phù hợp với ơn Chúa kêu gọi… Từ bỏ thường làm ta cảm thấy tiếc nuối và cần có tinh thần hy sinh mới làm được. Chẳng hạn : Từ bỏ chiếc giường êm ấm để thức dậy đi lễ sáng; Từ bỏ một cuốn phim hay đang xem trên Ti-vi để đọc kinh tối chung gia đình… Cuộc sống hôm nay cho chúng ta nhiều cơ hội chọn lựa. Bình thường, người ta dễ chọn cái tầm thường hơn điều cao cả; Chọn khoái lạc thấp hèn hơn là hạnh phúc vững bền; Chọn ích kỷ có lợi cho bản thân hơn chọn ích chung tập thể.
- b) Phải dứt khoát chọn đi con đường hẹp : Từ bỏ chính là chọn vào Nước Trời ngang qua cửa hẹp cùng với Đức Giê-su. Đây là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ: Sự từ bỏ ở đây không phải chỉ cần làm một lần là đủ, nhưng phải không ngừng từ bỏ. Cần từ bỏ noi gương Đức Giê-su, Đấng đã từ bỏ trời cao để xuống trần gian, trở thành con loài người, tự nguyện sống nghèo khổ, sẵn sàng chịu chết đền tội thay loài người. Nhất là từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa Cha.
- c) Phải quyết tâm từ bỏ thói xấu ích kỷ :Người môn đệ Đức Giê-su cần luôn sống vị thabác ái, quên mình dấn thân phục vụ cộng đoàn, nhất là phục vụ những người nghèo khó, bệnh tật và bị bỏ rơi… Sống yêu thương là dấu hiệu của người môn đệ đích thực của Đức Giê-su như Người đã nói : “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau” (Ga 13,35).
- THẢO LUẬN : 1) Nếu phải từ bỏ tất cả những gì đang có như tiền bạc, địa vị, đam mê… để thành môn đệ Đức Giê-su, thì theo bạn, từ bỏ điều nào khó nhất ? 2) Khi người yêu thù ghét đạo công giáo, không muốn cử hành lễ hôn phối tại nhà thờ thì bạn nên làm gì ?
- NGUYỆN CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Chúa đã nhiều lần dạy chúng con rằng : Muốn trở thành môn đệ của Chúa thì chúng con phải từ bỏ ý riêng và vác thập giá là chu toàn các việc bổn phận hằng ngày mà đi theo Chúa. Chúa ơi, đây quả thật là một điều cam go và không dễ thực hiện chút nào ! Bởi vì con cảm thấy dường như lúc nào cũng có những thập giá đè nặng trên vai con : bệnh tật, đau khổ, công việc, sự vất vả hy sinh, mất mát và thất bại… Xin giúp con sẵn sàng vác cây thập giá đời con, vì tin rằng chính Chúa cũng đang vác thập giá đi trước con và hằng ban ơn nâng đỡ, giúp con đủ sức vác thập giá đời mình để đi theo Chúa đến trọn cuộc đời.
*X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- C
MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊSU- Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ
Ai cũng được mời gọi trở thành môn đệ Đức Giêsu, nhưng không phải ai cũng là môn đệ Ngài. Để trở thành môn đệ của Chúa, phải chọn Thiên Chúa và từ bỏ những gì trái với Ngài.
Từ bỏ chính mình
Đám đông đi theo Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả là môn đệ của Ngài: “nếu ai đi theo tôi mà không từ bỏ chính mình, thì không thể theo tôi được”.
Từ bỏ chính mình, là cách nói khác của thái độ chọn Chúa trên tất cả. Không có sự trái nghịch giữa giữa việc đi theo Chúa và đạo hiếu, vì giới răn thứ tư Chúa dạy: “thảo kính cha mẹ”; nhưng giả như cha mẹ hay bất kỳ ai đó có những đòi hỏi trái với luật Chúa, thì phải chọn Thiên Chúa trên tất cả. Thiên Chúa không muốn con người phải chết, nhưng muốn con người được sống và sống hạnh phúc với Thiên Chúa; nhưng giả như có trường hợp phải chọn giữa Thiên Chúa và mạng sống mình, chẳng hạn như trường hợp bách hại đạo, thì phải chọn Thiên Chúa trên cả mạng sống mình.
Chọn Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả. Chọn Chúa, là yêu thương cha mẹ thật sự, là giữ đạo hiếu tuyệt hảo. Thí dụ, cha mẹ của một ai đó ép con mình lấy người nó không yêu không thương; thì theo đạo hiếu “thiển cận”, người con phải vâng lời lấy người cha mẹ muốn; nhưng nếu chỉ một thời gian ngắn sau cha mẹ người đó chết mà người con phải sống khổ cả đời vì đã vâng lời cha mẹ lấy người mình không thương yêu, thì nếu cha mẹ người đó biết con mình không sống hạnh phúc, chắc cha mẹ đã không ép con mình làm như vậy; nên trong trường hợp này không làm theo ý cha mẹ, là có hiếu hơn nghe theo lời cha mẹ. Nói như vậy, không có nghĩa là coi thường ý kiến của cha mẹ về vấn đề hôn nhân cho con cái. Con cái phải trân trọng ý kiến của cha mẹ, vì thường cha mẹ chỉ muốn cho con cái mình hạnh phúc; nhưng giả như có trường hợp khác, thì phải chọn Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn tôi làm điều đúng, và Ngài muốn tôi sống hạnh phúc.
Chấp nhận chính mình
“Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi”. Con người, ai cũng có những giới hạn.
Chẳng hạn, một người không được thông mình như chúng bạn mình, một người không đẹp như bạn mình, một người có một tật nào đó về thể lý hoặc tinh thần. Nếu con người không chấp nhận chính mình, luôn càm ràm Thiên Chúa “tại sao Chúa dựng nên con xấu như vậy, tại sao con lại không được thông mình bằng người khác, tại sao răng của con như vậy, tại sao mắt của con như vậy,…”, muốn làm “tài khôn” cho Chúa, thì người đó không thể làm môn đệ của Chúa được. Chấp nhận con người mình, chấp nhận những giới hạn của mình, đó là vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu. Chấp nhận con người mình như mình là, đã là vượt qua chính mình và nên thánh từng ngày rồi. Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (2 Cor.12, 7-9).
Chấp nhận chính mình, là chấp nhận để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên mình. Đó là thái độ cần thiết để một người có thể sống hạnh phúc trên trần gian này. Nếu ai không hài lòng với chính mình, không nhận ra được gì hay nơi con người mình để tạ ơn Chúa, thì thật bất hạnh cho người đó.
Chấp nhận tha nhân trong yêu thương
Thiên Chúa là nhất đối với Phaolô. Con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa và đối với con người. Trở nên con Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, là một hồng ân vô cùng lớn mà không gì có thể so sánh và mua được.
Onesimus, người nô lệ của Philemon đã được ơn trở lại qua Phaolô. Phaolô chấp nhận Onesimus như một người với tất cả giá trị của con người, cho dù người đời có phân biệt nô lệ và tự do. Phaolô mời gọi Philemon, người môn đệ của mình, nhận ra và chấp nhận phẩm giá của Onesimus, và đối xử với Onesimus, người nô lệ của mình, như người anh em trong Chúa. Để làm được điều này, Philemon phải chọn Chúa trên hết, coi trọng người tông đồ đã rao giảng Lời Chúa cho mình, đặt nhẹ lợi lộc trần gian, và nhận ra giá trị đích thực của con người không tựa vào nô lệ hay tự do theo kiểu trần thế.
Chọn Thiên Chúa trên tất cả, chấp nhận con người của mình như mình là, từ bỏ tất cả thậm chí cả bản thân mình, là điều kiện của người môn đệ Đức Giêsu. Xin cho chúng ta được ơn trở thành môn đệ Đức Giêsu trong cuộc sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1/. Có sự xung đột giữa những bổn phận đối với Thiên Chúa, cha mẹ và vợ chồng không? Xin bạn cho thí dụ và chia sẻ cái nhìn của bạn?
2/. Bạn có đồng ý với quan điểm “chọn Thiên Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả” không? Đâu là quan điểm của bạn?
3/. Liệu con người có thể từ bỏ chính mình được không? Tại sao?
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- C
ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA- Lm. Micae Võ Thành Nhân
Theo tường thuật của thánh sử Luca trong bài Tin Mừng hôm nay: “ Có rất nhiều đám đông đi theo Chúa “. Điều này chứng tỏ cho chúng ta thấy Chúa như là một người Mục Tử. Chúa đi trước để Chúa dẫn đoàn chiên của Chúa theo sau: “ Vì chính Người là Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, Đấng đã dựng nên chúng ta. Còn chúng ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt “ ( Tv 95, 7 ). Và rồi “ Chúa ngoảnh mặt lại “, nghĩa là Chúa yêu thương, Chúa quan tâm đến số phận của tất cả những người theo Chúa. Những người theo Chúa đông đảo đây dường như họ theo Chúa vì cảm tính. Bởi họ thấy Chúa làm được rất nhiều phép lạ như là cho kẻ điếc được nghe, kẻ câm được nói, kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ phong hủi được lành sạch, người bị bệnh được mạnh khỏe, kẻ chết được sống lại, người bị quỷ ám được khỏi, và Tin Mừng Chúa rao giảng thật hấp dẫn: “ Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư “ ( Mc 1, 22 ). Và vì cảm tính cho nên mục đích theo Chúa của họ lúc này chưa rõ ràng, chưa chắc chắn. Do đó, Chúa mới ngoảnh mặt lại để nói với đoàn người đông đảo này xác tín lại mục đích theo Chúa, nếu có sai thì hãy sửa lại cho phù hợp với thánh ý Chúa mà được hạnh phúc đời sau và đời này. Giả sử Chúa không ngoảnh mặt lại nói với họ thì họ sẽ dễ bỏ Chúa khi họ gặp những gian nan thử thách trong cuộc sống.
Chúa nói: “ Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta “ ( Lc 14, 26 – 27 ). Và cuối bài Tin Mừng, Chúa lại nói tiếp: “ Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta “ ( Lc 14, 33 ).
Như vậy, Chúa nói với đoàn người ngày xưa và chúng ta ngày hôm nay là một khi chúng ta theo Chúa, chúng ta trở thành con cái của Chúa, trở thành môn đệ của Chúa thì chúng ta phải đặt Chúa lên trên tất cả mọi sự, lên trên mọi thứ tình cảm nhân thế, lên trên tất cả của cải vật chất tiền tài, danh vọng, chức quyền, địa vị….ngay cả mạng sống là điều quý giá nhất của chúng ta, vì mỗi người chúng ta chỉ có một lần sinh ra đời, một lần để sống trên cõi dương gian, và một lần chết đi chứ không có lần thứ hai mà Chúa còn nói chúng ta khi cần là phải hy sinh luôn thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa thì quả là Chúa muốn chúng ta phải tôn Chúa lên trên hết mọi sự và yêu Chúa trên hết mọi sự.
Đồng thời, Chúa còn cho chúng ta thấy theo Chúa không phải để được vinh hoa phú quý chức trọng quyền cao, mà là theo Chúa thì phải dấn thân, phải vác thập gía mình hàng ngày mà theo Chúa. Thập giá đó là: bệnh hoạn tật nguyền, khổ đau, túng nghèo, cơ cực, bị bỏ rơi, bị chà đạp, bị coi thường khinh bỉ, bị thất bại…
Chúng ta theo Chúa, chúng ta từ bỏ tất cả mọi sự, chúng ta vác thập giá hàng ngày của mình mà theo Chúa. Điều này không dễ dàng thực hiện chút nào đâu, vì có rất nhiều người đã bỏ cuộc giữa đường, không trung thành được với Chúa. Do đó, Chúa nói với chúng ta hãy khôn ngoan tính toán cho rõ ràng, cụ thể. Việc theo Chúa là việc tâm linh, là việc của linh hồn, vì như trong bài đọc một được trích từ sách Khôn Ngoan ( Kng 9, 13 – 19 ), Chúa nói những việc ở dưới đất, những việc trước mắt của chúng ta mà chúng ta còn chưa tính toán ra được thì làm sao chúng ta lại có thể hiểu được những việc thiêng liêng khi mà chúng ta không thấy, không đụng chạm tới được. Do đó, chúng ta phải giống như những người Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay; chúng ta như người đang tính toán xây ngôi nhà, đang tính toán đem quân đi giao chiến…Chúng ta biết khả năng của chúng ta có giới hạn. Chúng ta không đủ sức tự mình trung thành theo Chúa được vì chúng ta là loài hay chết. Cho nên chúng ta cần tựa nương vào Chúa trong mọi sự, để cho Chúa sửa lại mọi suy nghĩ của chúng ta cho thẳng ngay để chúng ta mới trung thành vác thập giá theo Chúa mỗi ngày.
Khi chúng ta bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa, chúng ta phải hy sinh từ bỏ những gì nghịch với Lời Chúa, đó là chúng ta đã vác thập giá theo Chúa rồi. Ông Philêmon trong bài đọc hai hôm nay nghe lời khuyên của thánh Phaolô mà tiếp nhận lại Ônêsimô, một người nô lệ, phạm tội ăn cắp của ông. Để nghe lời khuyên của thánh Phaolô, ông phải bỏ ý riêng là không trừng phạt, không loại trừ Ônêsimô mà còn tiếp nhận Ônêsimô như một người anh em rất thân mến của mình.
Lạy Chúa, phận làm người là chúng con phải đối diện với những gian nan, thử thách, khổ đau, cơ hàn, trái ý cực lòng…nhờ Lời Chúa dạy mà chúng con biết được đó là những thập giá để chúng con vác theo Chúa mỗi ngày. Xin Chúa giúp chúng con biết đặt Chúa lên trên tất cả mọi sự ở trần gian này. Xin Chúa ban sức mạnh nội tâm để chúng con trung thành vác thập giá hàng ngày bước theo Chúa. Xin Chúa cho chúng con được chia sẻ hạnh phúc vinh quang phục sinh với Chúa sau này. Xin Chúa sửa lại những ý nghĩ tiêu cực khi mà chúng con sống theo lời Chúa dạy hôm nay. Amen.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN-C
TỪ BỎ ĐỂ THEO CHÚA- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Đạo Đức Chúa Trời có 10 điều răn, nhưng 3 giới răn đầu dành cho việc thờ phượng kính mến Chúa, còn 7 giới răn sau Chúa dành cho việc đối xử với tha nhân. Và giới răn đầu tiên trong 7 giới răn là thảo kính cha mẹ.
Rồi ngay từ xa xưa sách Huấn ca có viết: “Ai trọng kính cha sẽ được xoá bỏ lỗi lầm; ai thảo kính mẹ thì như người tích trữ kho báu trên trời” (Hc 3,3-4).
Trong thư Êphêsô thánh Phaolô tông đồ có nhắn nhủ: “Đạo làm con phải thảo hiếu với cha với mẹ, đó là điều răn Chúa kèm theo lời hứa” (Êp 6, 1-2).
Và theo truyền thống Á đông, đạo hiếu luôn được đặt lên hàng đầu, tội lớn nhất là tội bất hiếu. Thế mà Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta:“Ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta được”. Như vậy lời Chúa dạy có nghịch lý không?
Thực ra, vì ngôn ngữ Do thái không có kiểu so sánh hơn kém, nhiều hơn, ít hơn, như ngôn ngữ Việt Nam chúng ta, nên khi cần diễn tả hơn kém, thì họ dùng văn tự đối ngẫu “yêu và bỏ”. Vì thế, chúng ta có thể diễn tả theo ngôn ngữ Việt Nam thế này “Ai đến với Ta, mà không yêu Ta hơn cha mẹ, hơn vợ con, hơn anh chị em và ngay cả mạng sống mình, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”.
Có nghĩa là ý Chúa muốn nói: Nếu ai muốn làm môn đệ Chúa, thì phải đặt Chúa ưu tiên trên hết mọi sự, Chúa là quan trọng đối với chúng ta. Mà nếu Chúa quan trọng, thì Lời Chúa quan trọng, thánh ý Chúa quan trọng…
Nếu Chúa quan trọng, thì sáng sớm khi mở mắt thức dậy, người mà anh chị em nhớ đầu tiên là ai, có phải là Chúa không?
Việc chúng ta lo lắng, tìm kiếm đầu tiên có phải là Nước trời không? Vì Chúa đã nói: “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước, còn mọi sự khác Chúa thêm cho sau” (Mt 6,33).
Và cuối ngày trước khi chúng ta ngã lưng nằm xuống nghỉ đêm, người chúng ta nhớ đến cuối cùng có phải là Chúa không?
Anh chị em thân mến,
Trước khi Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ bỏ mình để đi theo Chúa thì Ngài đã từ bỏ trước rồi.
Ngài từ bỏ trời cao xuống đất thấp để ở với chúng ta. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa hạ mình xuống làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Sự từ bỏ được thể hiện rõ nét qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của nhân loại và tự nguyện chết thay cho loài người. Hơn thế nữa, Chúa còn từ bỏ bản thân, trở nên lương thực thần linh nuôi sống linh hồn chúng ta. Hành vi cao cả nhất là Chúa đã từ bỏ ý riêng để vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến chết, và chết trên thập giá.
Theo gương Chúa, có nhiều người sống từ bỏ, có nhiều người đặt Chúa ưu tiên trên hết mọi sự. Chẳng hạn như Mẹ Maria đã từ bỏ ý riêng thưa lời xin vâng sống theo thánh ý Chúa.
Các môn đệ năm xưa đáp lại tiếng Chúa mời gọi, họ dám từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống mình để đi theo Chúa.
Các nhà truyền giáo dám từ bỏ gia đình, quê hương xứ sở, để ra đi đem Tin mừng cứu độ đến cho những người chưa nhận biết Chúa. Các thánh tử đạo dám từ bỏ mạng sống để làm chứng cho đức tin.
Thế thì, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta đã tuyên xưng từ bỏ ma quỉ; từ bỏ những gì không phải là Thiên Chúa, để trở thành con Chúa.
Thế nhưng, dưới ánh sáng Lời Chúa hôm nay, nhìn lại đời sống đạo, chúng ta có thực sự dám từ bỏ ý riêng để sống theo thánh ý Chúa không?
Chúng ta có can đảm từ bỏ đời sống đen tối để sống như con cái ánh sáng không?
Chúng ta có dám từ bỏ những ước muốn trái với lương tâm, những hành động gian tà, những đam mê bất chính không?
Chúa không những đòi hỏi chúng ta từ bỏ, mà Ngài còn đòi chúng ta vác thánh giá mỗi ngày đi theo Chúa nữa.
Trong anh chị em đây, có những người bị bệnh tật, đau khổ, làm ăn thất bại nợ nần chồng chất, con cái hư thân mất nết, những rủi ro trong đời sống… đó là những thánh giá mà Chúa đã an bài gửi đến để chúng ta vác đi theo Ngài.
Chúng ta cầu nguyện cho nhau, và xin Chúa thương xót nâng đỡ thêm sức mạnh thiêng liêng, giúp chúng ta bền vững theo Chúa mỗi ngày. Xin Ngài giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa dạy, là đặt Chúa ưu tiên trên hết mọi sự. Chúa luôn là quan trọng đối với chúng ta, có như thế chúng ta mới xứng đáng là môn đệ đích thực của Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- C
BÀI HỌC CHO NGƯỜI MÔN ĐỆ- Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Vào thời Chúa Giêsu, các bậc thầy thường có những môn đệ hay các môn đệ theo thầy để học với thầy. Mục tiêu của việc theo thầy để học là để trở nên giống như thầy, đầy hiểu biết và quyền năng như thầy. Bình thường, những người trẻ, khi bước vào đời, họ thường phải tìm thầy hay là tầm sư để học đạo, học võ thuật, hay học nghề nào mà họ yêu thích để chuẩn bị cho cuộc đời tương lai của họ. Đó là điều cần thiết trong cuộc đời, bởi vì như người đời thường nói: không thầy đố mày làm nên. Người ta cần phải học với thầy để được hướng dẫn một cách đầy đủ, chính xác nếu như muốn tinh thông thành thạo một nghề nghiệp nào đó.
Trong Tin mừng Luca, một chủ đề mà chúng ta gặp, đó là những giáo huấn mà Chúa Giêsu đưa ra cho những người muốn theo người trên hành trình đi lên Giêrusalem để thực sự là môn đệ của người. Hành trình đi Giêrusalem là hành trình quyết định. Chúa Giêsu thay đổi địa bàn rao giảng Tin mừng, người không tiếp tục rao giảng ở Galilê, mà quyết định đi lên Giêrusalem nơi mà người biết rằng người sẽ gặp nhiều khó khăn và đe dọa đến tính mạng của mình, nhưng người vẫn tiếp tục đi Giêrusalem với sự xác tín người sẽ làm chứng trọn vẹn cho Thiên Chúa ở nơi này, nhất là bằng cái chết thập giá. Giáo huấn này hướng đến đám đông dân chúng, và cũng là những điều kiện cần thiết căn bản và triệt để cho mọi người muốn làm người môn đệ của thầy Giêsu : phải “ghét” những người thân thiết nhất của mình như cha mẹ, vợ con, anh em, ngay cả mạng sống của minh, đồng thời vác thập giá của mình mà theo người, thì mới có thể làm môn đệ của người. Thầy Giêsu không đưa ra một điều kiện ngoài tầm với của mỗi người, người đưa ra những điều kiện thật gần với mỗi người nhưng cũng thật triệt để. Chữ “ghét” mà Chúa Giêsu dùng ở đây không theo nghĩa thông thường, nhưng chỉ muốn nói là ai không đặt chính Chúa lên trên những tình cảm dành cho những người thân thương nhất của mình thì không thể xứng đáng làm môn đệ của người. Một loạt những mối liên hệ mà Chúa Giêsu nêu ra là những liên hệ ruột thịt thân thiết nhất. Bình thường ai cũng có những liên hệ quyến luyến đối với cha mẹ, vợ con, anh em. Nhưng Chúa Giêsu như thể đẩy môn đệ của mình về phía trước để chúng ta có được những tầm nhìn và quyết định mới. Đứng trước một vận mệnh quyết định là chính sự sống đời đời của mình, mỗi người phải có những chọn lựa quyết liệt. Những tình cảm dành cho cha mẹ vợ con anh em phải nhường bước cho chọn lựa làm môn đệ của thầy Giêsu bởi vì chọn lựa này là chọn lựa giữa sự sống và cái chết. Chỉ có thể ưu tiên chọn lựa thầy Giêsu và con đường thập giá mà thầy đã đi mới có thể có được sự sống đời đời cho chính mình, ngược lại nếu chỉ biết giữ sự sống của mình hay ưu tiên lo lắng cho những người thân thì sẽ phải chết đời đời. Đây vừa là một từ bỏ quyết liệt, vừa là một tính toán và cân nhắc thận trọng của một người thực hiện một việc xây dựng công trình lớn, hay còn là chọn lựa sống chết của một nhà vua xuất quân giao chiến với quân thù. Cần phải chọn lựa và hành động khôn khéo, dám hy sinh để gìn giữ được danh giá nếu không muốn bị người khác chê cười và sự sống của mình nếu không muốn bị quân thù tiêu diệt.
Chọn lựa của thầy Giêsu phải chăng là một chọn lựa không có nền tảng. Phải chăng thầy Giêsu dẫn đưa các môn đệ của mình đến một ảo tưởng thất bại. Truyền thống khôn ngoan vốn đã là một truyền thống suy tư của những người do thái. Theo truyền thống này, đã bắt đầu có nhận thức về sự bấp bênh của những tính toán con người. Con người có sự thông minh và tri thức, nhưng dù sao phải nhìn nhận là những suy tính của con người vẫn bấp bênh và không chắc chắn lý do là vì tinh thần con người bị lệ thuộc và chi phối bởi thân xác yếu đuối nặng nề. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa không ban khôn ngoan và Thánh Thần của Thiên Chúa, thì con người không thể hiểu thấu thánh ý Thiên Chúa mà sống đẹp lòng người được.
Môn đệ thì phải theo thầy và ở với thầy, môn đệ còn phải học với thầy để trở nên giống như thầy. Mục tiêu của người môn đệ không phải chỉ là theo thầy trên cùng một con đường mà còn trở nên giống như thầy, chia sẻ cùng một vận mệnh thăng trầm vinh nhục để rồi cũng sẽ tham dự vào vinh quang với thầy. Những người môn đệ của thầy Giêsu không chỉ đến học một ít lý thuyết, nhưng họ thực sự được đào tạo để trở nên giống như thầy, tham dự trọn vẹn vào vận mệnh của Thầy Giêsu, để rồi thực sự được tham dự vào quyền năng và vinh quang của thầy. Học là người môn đệ của thầy Giêsu vì thế bao hàm việc từ bỏ cũng như suy nghĩ chọn lựa. Họ không phải chỉ là những người đi theo một cách ngây ngô, không hiểu biết, mà trái lại, họ phải là những người biết suy tính và chấp nhận trả giá cao cho sự chọn lựa này, ngay cả dám hy sinh tất cả, ngay đến cái chết. Ngược lại, thầy Giêsu của họ sẽ dẫn đưa họ đến sự sống đời đời. Thầy Giêsu đã dùng những lời giáo huấn với ngôn ngữ rất triệt để nhằm cho mỗi người suy nghĩ và cân nhắc cẩn thận trong việc làm và chọn lựa của mình với ý chí vững mạnh xác tín.
Thầy Giêsu muốn huấn luyện những người muốn đi theo người cách thực sự và quyết liệt, người chỉ cho họ thấy những điều kiện thiết yếu nhất mà chính người đang thực hiện để hoàn tất sứ vụ của người: từ bỏ chính gia đình của mình, và sẵn sàng vác thập giá như chính người đã đón nhận cái chết hiến tế trên thập giá. Thầy Giêsu không thực hiện một con đường cứu độ nào khác như người ta hình dung. Lúc bấy giờ, khi cùng theo thầy Giêsu trên con đường đi Giêrusalem, nhiều môn đệ vẫn còn hình dung thầy Giêsu sẽ thực hiện một đường lối cứu thế bằng sức mạnh để chiến đấu chống lại chính quyền Rôma. Thầy Giêsu đã tỏ ra rất là mạnh mẽ đầy quyền năng trong những việc chữa lành cho những người bệnh tật, thậm chí những lần người làm phép lạ để hóa bánh nuôi năm ngàn người ăn no là những dấu chứng người ta hình dung người sẽ thực hiện một cuộc giải phóng dân tộc quyết liệt. Thế nhưng, thầy Giêsu lại đưa ra những điều kiện của một chuộc chiến đấu nội tâm chống lại những cản trở từ trong chính nội tâm của mỗi người. Đây là một chọn lựa bởi khôn ngoan và Thánh Thần Thiên Chúa, vượt lên trên những tầm nhìn hẹp hòi thiển cận của con người. Đây là chọn lựa sẽ dẫn đưa người đến sự sống vinh quang bởi vì theo sự hiểu biết của Thầy Giêsu, nếu người hiến thân chịu chết, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và người sẽ được phục sinh vì chính Chúa Cha sẽ phục sinh người vì người hằng làm theo thánh ý của Chúa Cha.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN- C
MỘT SỰ NGHỊCH LÝ- Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan
Vào thời Chúa Giêsu, các bậc thầy thường có những môn đệ hay các môn đệ theo thầy để học với thầy. Mục tiêu của việc theo thầy để học là để trở nên giống như thầy, đầy hiểu biết và quyền năng như thầy. Bình thường, những người trẻ, khi bước vào đời, họ thường phải tìm thầy hay là tầm sư để học đạo, học võ thuật, hay học nghề nào mà họ yêu thích để chuẩn bị cho cuộc đời tương lai của họ. Đó là điều cần thiết trong cuộc đời, bởi vì như người đời thường nói: không thầy đố mày làm nên. Người ta cần phải học với thầy để được hướng dẫn một cách đầy đủ, chính xác nếu như muốn tinh thông thành thạo một nghề nghiệp nào đó.
Trong Tin mừng Luca, một chủ đề mà chúng ta gặp, đó là những giáo huấn mà Chúa Giêsu đưa ra cho những người muốn theo người trên hành trình đi lên Giêrusalem để thực sự là môn đệ của người. Hành trình đi Giêrusalem là hành trình quyết định. Chúa Giêsu thay đổi địa bàn rao giảng Tin mừng, người không tiếp tục rao giảng ở Galilê, mà quyết định đi lên Giêrusalem nơi mà người biết rằng người sẽ gặp nhiều khó khăn và đe dọa đến tính mạng của mình, nhưng người vẫn tiếp tục đi Giêrusalem với sự xác tín người sẽ làm chứng trọn vẹn cho Thiên Chúa ở nơi này, nhất là bằng cái chết thập giá. Giáo huấn này hướng đến đám đông dân chúng, và cũng là những điều kiện cần thiết căn bản và triệt để cho mọi người muốn làm người môn đệ của thầy Giêsu : phải “ghét” những người thân thiết nhất của mình như cha mẹ, vợ con, anh em, ngay cả mạng sống của minh, đồng thời vác thập giá của mình mà theo người, thì mới có thể làm môn đệ của người. Thầy Giêsu không đưa ra một điều kiện ngoài tầm với của mỗi người, người đưa ra những điều kiện thật gần với mỗi người nhưng cũng thật triệt để. Chữ “ghét” mà Chúa Giêsu dùng ở đây không theo nghĩa thông thường, nhưng chỉ muốn nói là ai không đặt chính Chúa lên trên những tình cảm dành cho những người thân thương nhất của mình thì không thể xứng đáng làm môn đệ của người. Một loạt những mối liên hệ mà Chúa Giêsu nêu ra là những liên hệ ruột thịt thân thiết nhất. Bình thường ai cũng có những liên hệ quyến luyến đối với cha mẹ, vợ con, anh em. Nhưng Chúa Giêsu như thể đẩy môn đệ của mình về phía trước để chúng ta có được những tầm nhìn và quyết định mới. Đứng trước một vận mệnh quyết định là chính sự sống đời đời của mình, mỗi người phải có những chọn lựa quyết liệt. Những tình cảm dành cho cha mẹ vợ con anh em phải nhường bước cho chọn lựa làm môn đệ của thầy Giêsu bởi vì chọn lựa này là chọn lựa giữa sự sống và cái chết. Chỉ có thể ưu tiên chọn lựa thầy Giêsu và con đường thập giá mà thầy đã đi mới có thể có được sự sống đời đời cho chính mình, ngược lại nếu chỉ biết giữ sự sống của mình hay ưu tiên lo lắng cho những người thân thì sẽ phải chết đời đời. Đây vừa là một từ bỏ quyết liệt, vừa là một tính toán và cân nhắc thận trọng của một người thực hiện một việc xây dựng công trình lớn, hay còn là chọn lựa sống chết của một nhà vua xuất quân giao chiến với quân thù. Cần phải chọn lựa và hành động khôn khéo, dám hy sinh để gìn giữ được danh giá nếu không muốn bị người khác chê cười và sự sống của mình nếu không muốn bị quân thù tiêu diệt.
Chọn lựa của thầy Giêsu phải chăng là một chọn lựa không có nền tảng. Phải chăng thầy Giêsu dẫn đưa các môn đệ của mình đến một ảo tưởng thất bại. Truyền thống khôn ngoan vốn đã là một truyền thống suy tư của những người do thái. Theo truyền thống này, đã bắt đầu có nhận thức về sự bấp bênh của những tính toán con người. Con người có sự thông minh và tri thức, nhưng dù sao phải nhìn nhận là những suy tính của con người vẫn bấp bênh và không chắc chắn lý do là vì tinh thần con người bị lệ thuộc và chi phối bởi thân xác yếu đuối nặng nề. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa không ban khôn ngoan và Thánh Thần của Thiên Chúa, thì con người không thể hiểu thấu thánh ý Thiên Chúa mà sống đẹp lòng người được.
Môn đệ thì phải theo thầy và ở với thầy, môn đệ còn phải học với thầy để trở nên giống như thầy. Mục tiêu của người môn đệ không phải chỉ là theo thầy trên cùng một con đường mà còn trở nên giống như thầy, chia sẻ cùng một vận mệnh thăng trầm vinh nhục để rồi cũng sẽ tham dự vào vinh quang với thầy. Những người môn đệ của thầy Giêsu không chỉ đến học một ít lý thuyết, nhưng họ thực sự được đào tạo để trở nên giống như thầy, tham dự trọn vẹn vào vận mệnh của Thầy Giêsu, để rồi thực sự được tham dự vào quyền năng và vinh quang của thầy. Học là người môn đệ của thầy Giêsu vì thế bao hàm việc từ bỏ cũng như suy nghĩ chọn lựa. Họ không phải chỉ là những người đi theo một cách ngây ngô, không hiểu biết, mà trái lại, họ phải là những người biết suy tính và chấp nhận trả giá cao cho sự chọn lựa này, ngay cả dám hy sinh tất cả, ngay đến cái chết. Ngược lại, thầy Giêsu của họ sẽ dẫn đưa họ đến sự sống đời đời. Thầy Giêsu đã dùng những lời giáo huấn với ngôn ngữ rất triệt để nhằm cho mỗi người suy nghĩ và cân nhắc cẩn thận trong việc làm và chọn lựa của mình với ý chí vững mạnh xác tín.
Thầy Giêsu muốn huấn luyện những người muốn đi theo người cách thực sự và quyết liệt, người chỉ cho họ thấy những điều kiện thiết yếu nhất mà chính người đang thực hiện để hoàn tất sứ vụ của người: từ bỏ chính gia đình của mình, và sẵn sàng vác thập giá như chính người đã đón nhận cái chết hiến tế trên thập giá. Thầy Giêsu không thực hiện một con đường cứu độ nào khác như người ta hình dung. Lúc bấy giờ, khi cùng theo thầy Giêsu trên con đường đi Giêrusalem, nhiều môn đệ vẫn còn hình dung thầy Giêsu sẽ thực hiện một đường lối cứu thế bằng sức mạnh để chiến đấu chống lại chính quyền Rôma. Thầy Giêsu đã tỏ ra rất là mạnh mẽ đầy quyền năng trong những việc chữa lành cho những người bệnh tật, thậm chí những lần người làm phép lạ để hóa bánh nuôi năm ngàn người ăn no là những dấu chứng người ta hình dung người sẽ thực hiện một cuộc giải phóng dân tộc quyết liệt. Thế nhưng, thầy Giêsu lại đưa ra những điều kiện của một chuộc chiến đấu nội tâm chống lại những cản trở từ trong chính nội tâm của mỗi người. Đây là một chọn lựa bởi khôn ngoan và Thánh Thần Thiên Chúa, vượt lên trên những tầm nhìn hẹp hòi thiển cận của con người. Đây là chọn lựa sẽ dẫn đưa người đến sự sống vinh quang bởi vì theo sự hiểu biết của Thầy Giêsu, nếu người hiến thân chịu chết, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và người sẽ được phục sinh vì chính Chúa Cha sẽ phục sinh người vì người hằng làm theo thánh ý của Chúa Cha.
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN-C
CÙNG ĐI VỚI CHÚA GIÊSU- Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Ở Giêrusalem, hàng năm cứ đến ngày thứ sáu tuần Thánh, từng đoàn người cùng với chủ chiên vác thập theo chính con đường Đức Giêsu đã vác thập giá lên núi Sọ chịu đóng đinh.
Ở Rôma cũng long trọng diễn ra cảnh Đức Giáo Hoàng cùng với đoàn tín hữu vác thập giá lên đồi Vaticanô vào ngày thứ sáu Tuần Thánh để thờ kính Thánh giá Đức Giêsu và những Thánh giá của thánh Phêrô, thánh Phaolô và hàng ngàn Thánh giá của các thánh tử đạo đã chịu đóng đinh suốt 300 năm thời Giáo hội sơ khai.
Ở Việt Nam chúng ta chưa thấy diễn ra cảnh vác Thánh giá như thế, chỉ thấy rước Thánh giá và viếng chặng đàng vào cuối thứ sáu Tuần Thánh. Phải chăng chúng ta chưa vác nổi thập giá mình đi theo Đức Giêsu chăng? Có lẽ chúng ta đi theo Người giống như đám đông đi theo Đức Giêsu xưa: “Họ cùng đi đường với Đức Giêsu đông lắm”. Nhưng, không cùng vác thập giá với Người, mà chỉ đi theo Người vì nhiều lý do lợi lộc, như được chữa khỏi bệnh tật, được ăn bánh hóa nhiều, mong được giải phóng nô lệ Rôma hay được địa vị sang trọng khi Người làm Vua, làm Đấng Cứu thế cai trị muôn dân. Vì thế, Người quay lại bảo họ: “Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được”. “Ai không vác thập giá mình đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được”. “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi được”.
Vậy muốn cùng đi đường với Đức Giêsu chúng ta phải làm gì? Một là từ bỏ, hai là vác thập giá, ba là vâng ý Cha.
Một là từ bỏ: yêu cầu đầu tiên của Đức Giêsu là dứt bỏ mọi liên hệ gắn bó với mình, như: cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình, từ bỏ hết những gì mình có. Đức Giêsu là ai mà đòi hỏi họ phải gắn bó với chính Người hơn là cha mẹ, vợ con, và cả mạng sống mình? Chỉ có Thiên Chúa mới dám yêu cầu như thế, vì giới răn trọng nhất là “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Dnl. 6, 5). Đức Giêsu cũng đòi buộc họ yêu mến Người như thế. Vậy Người đòi họ phải tin Người là Thiên Chúa. Khi họ tin Người là Thiên Chúa, thì yêu mến Người là làm cho tình yêu của họ được vươn lên tới tình yêu của Thiên Chúa: “Anh em hãy yêu nhau như Thầy yêu anh em”. Tình yêu của họ được tái sinh, được đổi mới, được siêu thăng, thành tình yêu thăng tiến, tình yêu thánh hóa, tình yêu siêu nhiên và tình yêu cứu độ vinh phúc muôn đời. Họ được giải thoát khỏi tình yêu phàm trần chỉ bám vào xác thịt bên ngoài, chỉ lo cho đời sống vật chất tạm bợ, chóng tàn. Loài người, dù vĩ đại như Khổng Tử cũng chỉ dậy: Hiếu có ba: đại hiếu tôn trọng cha mẹ, thứ đến không làm ô nhục, sau là nuôi dưỡng – “Hiếu hữu tam: Đại hiếu tôn thân. Kỳ thứ phất nhục. Kỳ hạ năng dưỡng” (lễ ký, tế nghĩa). Như vậy, yêu mến hiếu thảo cha mẹ vẫn còn trong vòng tình cảm loài người. Đức Giêsu đòi ta dứt bỏ thứ tình yêu tầm thường hạn hẹp đó, để vươn lên tình yêu như Thiên Chúa: Người đã yêu thương dựng nên ta, sống nên một với ta, mang lấy đau thương tật nguyền, tội lỗi và cả cái chết của ta, cho ta được sống và được sống dồi dào hạnh phúc vinh quang đời đời. Nhờ tình yêu như Thiên Chúa, Phaolô đã nhận Ônêximô làm con, làm anh em rất thân mến, chứ không còn là nô lệ nữa.
Hai là vác thập giá mình đi theo Ta. Thập giá Đức Giêsu là gì? Là hình khổ do người Hy Lạp và Rôma lập ra để phạt đóng đinh treo trên thập giá những kẻ nô lệ phạm tội và những kẻ trọng tội không phải công dân của Rôma. Đức Giêsu đã chịu cực hình đó như kẻ tử tội, khốn cùng, bị chúc dữ, ô nhục và chết đi để làm giá cứu chuộc muôn dân. Như vậy, Người đã biến khổ giá loài người thành Thánh giá, biến đau khổ thành hạnh phúc, biến chúc dữ thành chúc lành, biến ô nhục thành vinh quang, biến sự chết thành sự sống muôn đời; như Người đã biến thân nô lệ thành thân Đấng Cứu thế, biến những chum nước lã thành rượu ngon, biến bánh rượu vật chất thành Mình Máu thánh Người.
Thập giá chúng ta cũng là những cực khổ, những sự dữ, những xỉ nhục, những thử thách gian nan, những sự chết dần dần. Chúng ta phải biết hy sinh vác đi theo Chúa để Chúa biến đổi những khốn khổ đó thành giá cứu chuộc chúng ta và mọi người, như những giọt nước hòa tan trong rượu nho làm của lễ dâng lên Chúa.
Ông Simon đã vác thập giá mình theo Chúa. Xin cho mỗi người chúng con được vinh phúc như ông Simon.
Ba là sống theo Thánh ý Thiên Chúa: Đức Giêsu đã xin vâng ý Cha để từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, hạ mình xuống làm thân nô lệ, vâng lời Cha chịu chết trên Thánh giá. Người đã thực hiện ý Chúa Cha vì Chúa Cha đã thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống phong phú, như vậy, lý do Người từ bỏ mình và vác Thánh giá là vâng ý Cha, để yêu mến Chúa Cha trọn vẹn và yêu thương loài người đến thí mạng sống. Chúng ta muốn cùng đi với Đức Giêsu, muốn vác thập giá mình đồng hành với Đức Giêsu, cũng phải vâng ý Cha như Đức Giêsu, vì ý của Thiên Chúa ban đức khôn ngoan của thượng giới cho chúng ta được cứu độ. Đó là nền tảng vững chắc để xây dựng nhà cho chúng ta ở vĩnh viễn trên trời. Đó là sức mạnh của chúng ta đi giao chiến với tướng quỷ để chúng ta chắc chắn chiến thắng.
Lạy Chúa, vinh dự của chúng con là thập giá Đức Kitô.
Tình yêu của chúng con là đồng hành với Đức Giêsu.
Lẽ sống của chúng con là làm theo Thánh ý Người.
CHÚA NHẬT XXIUI THƯỜNG NIÊN- C
NIỀM VUI LỚN HƠN- Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật OP
Cuộc đời, chọn lựa và từ bỏ
Trên báo chí, người ta vẫn đọc thấy chuyện về các vận động viên phải hy sinh một số những điều mình ưa thích, chẳng hạn phải kiêng một món ăn nào đó để khỏi tăng trọng lượng, bỏ một thói quen nào đó không phù hợp với môn thể thao mình đang theo đuỗi. Và rồi, họ phải dành nhiều thời gian, nhiều sức lực để tập luyện, nhờ đó thành tích thể thao càng lúc càng được nâng cao.
Trong việc kinh doanh sản xuất, cũng có những người bỏ cả sản nghiệp của mình để mong làm giàu hơn nữa. Đôi khi người ta giật mình vì có những người bỏ ra hằng trăm triệu để làm vốn kinh doanh. Hoặc có những người nghèo, nhưng say mê một công việc nghiên cứu nào đó, cũng đành phải bán những vật dụng thân thiết nhất của mình để có phương tiện tiếp tục công trình dang dở.
Cuộc đời là như thế, vẫn có những hy sinh, những từ bỏ, vẫn có những lựa chọn, những phiêu lưu. Hy sinh, từ bỏ là chấp nhận mất mát, chấp nhận thiếu thốn và cũng có lúc phải đau khổ, đau khổ xé lòng. Những hy sinh, những từ bỏ ấy có một mục đích: đáp ứng điều mình lựa chọn và tin chắc rằng đó là điều cao hơn, và điều ấy sẽ thành công. Đó cũng là cuộc phiêu lưu bởi vì sẵn sàng bỏ ra những gì mình đang có để đạt tới điều cao cả hơn.
Từ ý tưởng đó, xin trở lại với bài Tin Mừng. Đức Giêsu đi “lên” Giê-ru-sa-lem. Phía sau, phía thấp hơn là Na-da-rét, là gia đình thân thuộc, và cả miền Ga-li-lê, nơi Người cảm thấy như nhà của mình, và cũng ở đó, dân chúng đã nghe Người giảng dạy, đã tin Người một phần nào. Phía trước, ở trên cao, là thành đô, nơi những kẻ chống đối Người thường lui tới. Tuy nhiên, Người phải “đi lên”, phải đến thành đô, vì tại nơi chốn biểu tượng này, tất cả những điều Người thực hiện từ lâu nay sẽ đi đến kết thúc. Người phải đi lên để chu toàn trọn vẹn thánh ý Chúa Cha, và hoàn tất sứ mạng đã được trao phó. Trước mặt Người là những nguy hiểm đang đợi chờ, cả mối đe doạ đến mạng sống. Người biết rằng ở Giêsu-sa-lem, các đối thủ của Người đang tìm cơ hội, tìm lý lẽ để hại Người. Đã nhiều lần Người phê phán các hành vi của họ, tố cáo thói giả hình, và cũng đã từng xô đỗ những đặc quyền của họ. Người làm những điều đó vì lòng yêu thương, vì muốn đưa họ đến chân lý, nhưng họ lại coi Người là một đối thủ nguy hiểm, một kẻ phản loạn.
Tất cả những nguy cơ này, Đức Giêsu biết rõ. Người đi lên Giê-ru-sa-lem, chấp nhận những hiểm nguy. Người không chỉ bằng lòng với những điều đã đạt được ở Ga-li-lê, Người phải thực hiện những điều đó tại Giê-ru-sa-lem nữa, và làm cho những điều Người loan báo đạt tới kết cục toàn vẹn. Người sẵn sàng “bỏ vốn” để đạt được thành công cuối cùng, thành công dứt khoát. Vốn liếng của Người chính là mạng sống chứ không phải điều gì khác.
Đây thực là một mẫu gương về sự dấn thân. Người Kitô hữu được mời gọi đi lên Giê-ru-sa-lem thiên quốc, bỏ lại những gì mình đang nắm giữ, và đem cả con người mình bước vào con đường hẹp, con đường phiêu lưu với Thiên Chúa.
Chọn Đức Giêsu hơn tất cả
Trên con đường đi lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu suy nghĩ về tất cả những điều sắp xảy ra. Phía sau Người là các môn đệ, những người đã được Người mời gọi, quy tụ để theo Người và làm chứng cho Người. Như môn đệ của nhóm Pha-ri-sêu, các ông đi theo Người, sẵn sàng lắng nghe những giáo huấn của Thầy. Các ông là những người được Đức Giêsu tỏ lòng yêu mến. Nhưng liệu các ông có hiểu rõ sứ mạng của Người cũng như những việc Người cần thực hiện?
Trong tâm trí các ông, Đức Giêsu đi lên Giê-ru-sa-lem để đón nhận vinh quang, Người sẽ hoàn thành Vương quốc Người đã từng loan báo, và như vậy, chắc hẳn các ông cũng sẽ được thông phần. Các ông đã bỏ mọi sự, cả gia đình thân thuộc, nghề nghiệp và tương lai của mình để đi theo Người, nên lúc này, tâm hổn các ông tràn trề hy vọng sẽ được đền bù xứng đáng. Đọc lại câu chuyện các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất, và lời thỉnh cầu của bà mẹ các con ông Dê-bê-đê (xem Mt 20,21), người ta hẳn thấy rõ điều ấy.
Thực ra, đó cũng là chuyện bình thường của con người. Ai chẳng mong rằng những vất vả của mình được đền bù, người nào bỏ vốn ra làm ăn mà không mong thu lời. Thế nhưng, chương trình của Thiên Chúa lại khác. Đoạn đường các ông đã đi, chưa phải là tất cả. Còn có những khó khăn, những nguy hiểm lớn hơn đang chờ các ông ở phía trước. Như Đức Giêsu, các ông sẽ còn trải qua những đau khổ ghê gớm hơn nữa, và phần thưởng không phải là cuộc sống vinh quang ở trần gian, nhưng là ở trong Nước Thiên Chúa.
Bấy giờ, Đức Giêsu biết được những điều đang ám ảnh các tông đồ, Người quay lại và đưa ra một lời cảnh cáo rất ghê gớm: đi theo Người, tức là chấp nhận chương trình của Người, đồng thời chấp nhận luôn những đòi hỏi nằm trong chương trình đó. Những đòi hỏi ấy như thế nào?
Trước hết là yêu mến Đức Giêsu hơn tất cả, và mang lấy thập giá của mình. Điều này không có gì là phi nhân bản. Đức Giêsu biết rằng trong cuộc đời vẫn có những chọn lựa nền tảng buộc đặt vấn đề lại. Vào những lúc như thế, người ta thường đưa ra những tình cảm chính đáng nhất như cái cớ để tránh những chọn lựa cần thiết.
Không thể là môn đệ của Đức Kitô khi vẫn sống theo tính ngẫu hứng, theo một hệ thống tư tưởng. Cần phải ý thức về thân phận của mình, đảm nhận thân phận ấy trong cuộc sống thường ngày, và hoàn thành thân phận ấy, không để cho bất cứ điều gì làm lung lạc, làm biến chất hay tiêu diệt. Đi theo Đức Giêsu là một cuộc sáng tạo trường kỳ, không được quay lại đàng sau, dù bất cứ vì lý do gì.
Như thế, tính cách độc đáo của Nước Trời đòi buộc nằm ngay ở trong nội tâm mỗi người. Đó không phải là một việc này việc nọ thành công, cũng không phải là vinh quang vì được người đời nhắc đến. Tính cách này không buộc người ta phải trở thành những anh hùng, nhưng là vượt qua chính mình; nó cũng không kêu gọi con người sống cách tuỳ thích, nhưng kêu mời trao tặng. Trong việc lựa chọn này, lý do căn bản luôn luôn được gợi hứng từ tình yêu.
Sau nữa, đi theo Đức Giêsu là chấp nhận phiêu lưu, là đánh đổi cả đời mình. Người ta không biết trước điều gì sẽ xảy ra, nên Tin Mừng mời gọi những người muốn trở thành môn đệ Đức Kitô phải sẵn sàng, phải biết dự liệu: biết sử dụng những phương tiện để đạt tới mục đích. Nếu không dự liệu trước, không những công cuộc này bị thất bại, nhưng còn phá huỷ cả điều đã lôi cuốn, đã hấp dẫn, đã mời gọi con người bước theo. Ở đây, điều đáng nhấn mạnh là cần phải đạt tới Nước Trời. Đức Giêsu đã báo trước điều này: Người không có ý làm những người nghe nản lòng, nhưng muốn họ nhận định rõ ràng về tầm mức của công việc. Họ phải đánh đổi tất cả để được tất cả, phải đem tất cả của cải và sức lực của mình vào cuộc, phải chấp nhận những hy sinh lớn lao, bởi vì ơn cứu độ là một cuộc phiêu lưu mà không có gì so sánh nỗi.
Niềm vui tiến về phía trước
Năm 1992, cả thế giới hân hoan mừng kỷ niệm 500 năm khám phá ra Châu Mỹ. Để có được thành công này, Christophe Colomb đã đem toàn bộ gia tài của mình ra để thực hiện chuyến đi, đồng thời phải lấy uy tín và ảnh hưởng của mình để thuyết phục nhà vua. Cuối cùng sự liều lĩnh và gan dạ của ông đã đem lại kết quả tuyệt vời: khám phá ra Tân thế giới.
Người môn đệ đi theo Đức Giêsu cũng phải liều lĩnh và gan dạ. Họ chấp nhận phiêu lưu với Đức Giêsu, chấp nhận chương trình của Người, đồng thời sẵn sàng và vui vẻ mang lấy thập giá của mình. Họ tin tưởng vì những nỗ lực của họ không uổng phí. Họ vui vẻ bước đi vì biết rằng những gian truân hiện tại không đáng kể gì so với tương lại rực rỡ ở phía trước. Đây là nét đặc trưng của Kitô giáo, trong đó có dấu ấn của nhà nghệ sĩ đồng thời là một người khám phá. Không gò bó, không an phận; họ sẵn sàng bỏ lại đàng sau tất cả những gì đã có để lao mình về phía trước, và đó là niềm vui, niềm vui của sự từ bỏ, niềm vui của những đỉnh cao mới.
Nước Thiên Chúa vẫn ở phía trước, vẫn có một khoảng cách vô tận, nhưng đồng thời vẫn trong tầm tay.
* * *
“Hồng ân quý giá, đó là kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng.
Vì kho tàng ấy, người ta sẵn lòng đem bán tất cả những gì mình đang có.
“Hồng ân quý giá, đó là viên ngọc quý.
Vì viên ngọc ấy, người lái buôn sẵn sàng đem cả tài sản ra đánh đổi.
“Hồng ân quý giá, đó là vương quốc của Đức Kitô.
Vì vương quốc ấy, con người sẵn sàng vứt bỏ con mắt gây sa ngã.
“Hồng ân quý giá, đó là lời mời gọi của Đức Kitô.
Vì lời mời ấy, các môn đệ bỏ chài lưới để đi theo.
“Hồng ân quý giá, đó là Tin Mừng mà người ta phải khám phá luôn.
Đó là ân huệ mà người ta phải cầu xin.
Đó là cánh cửa mà người ta phải gõ.”
…
theo D. Bonhoeffer
#cacbaisuyniemloichuachuanhat #suyniemloichuachuanhatxxiiithuongnienc #suyniemloichuagpbr