CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN C
CHÚA GIÊSU TẠI NAGIARÉT
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
***
1. Sách bài đọc của phụng vụ đã tổng hợp làm thành một bài đọc hai đoạn phúc âm cách nhau đến 3 chương trong Phúc Âm thánh Luca. Thực khó tìm thấy được ý hướng xếp đặt này; một cách đơn giản có lẽ phụng vụ muốn ráp nối 2 đoạn văn khai mạc: một đoạn của phần nhập đề Phúc âm Luca và đoạn kia nói đến việc Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy tại Nagiarét. Dù sao, giả thiết phần nhập đề của phúc âm không đặt ra vấn đề gì đặc biệt trong việc chú giải, chúng ta chỉ cần chú giải ở đây phần thứ hai của bài đọc phụng vụ, nghĩa là sự rao giảng của Chúa Giêsu tại Nagiarét.
2. Cả ba Phúc âm nhất lãm đều phù hợp nhau khi kể lại rằng, sau khi được thanh tẩy và bị cám dỗ, Chúa Giêsu trở về Galilêa để bắt đầu rao giảng ở đó (Mc 1,14; Mt 4,12; Lc 4,14). Lời rao giảng công khai của Đấng thiên sai đi liền theo sau các giai thoại siêu nhiên được thực hiện cách âm thầm.
Theo Mc 1,15 và Mt 4,17, Ngài rao giảng nước Thiên Chúa đã gần đến và cần phải thống hối ăn năn để thông dự vào nước ấy (Macco xác định đó là Tin mừng và phải lãnh nhận Tin mừng ấy bằng đức tin). Luca không phải là không biết đến những đề tài này trong lần rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu (4,43; 5,32). Nhưng thay vì tóm lược lời rao giảng ấy trong một câu thì tác giả lại trình bày nó trong một khung cảnh rộng rãi, khung cảnh ấy phác họa những đường hướng hướng căn bản khai mào cho sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu. Đó là một khai mào trọng thể được Thánh Thần hướng dẫn (4,14.18), là Đấng đã tuôn tràn trên Chúa Giêsu từ ngày thanh tẩy (3,22; 4,1).
3. Trình thuật tiếp theo một đoạn tóm lược lời rao giảng của Chúa Giêsu tại Galilêa: Ngài giảng dạy trong các hội đường, gây sự chú ý và lòng nhiệt thành khắp cả vùng (4,14-15). Rồi “trở lại Nagiarét là nơi Ngài đã sinh trưởng, và theo thói quen, thì ngày nghĩ lễ, Ngài vào trong hội đường, đứng dậy đọc sách” (c.16), Luca vắn tắt nhắc lại điều ông đã kể về thời thơ ấu của Chúa Giêsu ở Nagiarét (2,39 – 40.51-52). Chỉ lần này tác giả gọi thành nhỏ này bằng tiếng Aram Nazara (như trình thuật tương tự của Mt 4,13) nhưng tác giả không gọi thành đó là “quê hương” của Chúa Giêsu (như Mc 6,1 và Mt 13,54 đã gọi): có lẽ vì Chúa Giêsu không sinh ra ở đó (2,4-7), và nhất là vì đối với Luca thì “quê hương” của Chúa Giêsu là tất cả vùng đất Israel (x.các chương 24-27).
Phúc âm của ông đã cho thấy cha mẹ Chúa Giêsu nhiệt thành tuân giữ lề luật (2,21.22-34.39.41-42), tác giả sẽ còn kể nhiều lần Chúa Giêsu vào trong các hội đường ngày hưu lễ (4,31-33; 6,6; 13,10). Nhưng đây là ngày hưu lễ đầu tiên mà Chúa Giêsu lên tiếng công khai trong buổi cầu nguyện ở hội đường. Do đó, theo phong tục thời bấy giờ, Ngài đứng dậy sau khi nghe sách luật và ra mắt quần chúng bằng một bài đọc sách các tiên tri.
4. Cách chung người ta thừa nhận rằng vào thời Chúa Giêsu thì việc đọc các sách tiên tri trong hội đường ngày hưu lễ không theo một lịch trình rõ ràng, nghĩa là không theo một chu kỳ gồm những bài đọc dọn sẵn như phụng vụ chúng ta ngày nay (ít ra đó là ý kiến của phần đông các nhà chú giải Phúc âm Luca. Lập trường của Strack-Billerbeck trong cuốn Commenter zum Neuen Testament, IV Minchen năm 1928, trang 169-170, dầu vậy lập trường này cũng bị chống đối: xem Guilding, The Fourth Gospel and Jewish Waship, Oxford, 1960, tr. 7-10, 21-22, 125-126; vấn đề hình như cũng chưa được giải quyết ổn thỏa). Điều này rất phù hợp với trình thuật của Luca, Chúa Giêsu “gặp ngay” bản văn (chắc chắn sau khi đã tìm kiếm: Chúa Giêsu là người biết rõ Kinh Thánh, có thể dễ dàng tìm được một đoạn nói về Đấng Messia trong hầu hết các sách tiên tri; khi tỏ ý cho người chủ nhà hội mời Ngài giải thích đoạn văn Isaia, chắc chắn Ngài có thể chọn một trong nhiều đoạn văn loan báo về Đấng Messia) có thể giúp Ngài giải thích sứ mạnh của mình.
Bản văn Chúa Giêsu đọc là Is 61,1-2. Luca trích dẫn theo bản văn LXX với một vài thay đổi: nơi câu một của tiên tri, tác giả bỏ sót câu “chữa lành những tâm hồn tan nát” và ngắt câu hai trước những chữ “và ngày báo thù”; tác giả thêm vào câu 1: “trả tự do cho những kẻ bị áp bức”, chắc hẳn là do Is 58,6; từ đầu câu 2, tác giả thay tiếng: “rao” (appeler) bằng “công bố” (proclamer) đã có sẵn ở câu trước.
Đối với thính giả Chúa Giêsu, bản văn này là lời của một tiên tri và họ có thể đồng hóa vị tiên tri ấy với người tôi-tớ – Giavê mà những lời sấm của người tôi tớ ấy được tìm thấy ngay trong chính sách này (nhất là 42,1-7 có những tương quan chặt chẽ với 61,1). Bản văn loan báo một năm hồng ân tương đương với định chế của năm toàn xá theo luật Môisen (Lv 25,8-17). Nhưng mọi người đều hiểu rõ rằng, đối với Isai, điều quan hệ ở đây không phải chỉ đơn giản nói đến những tính toán giữa con người với nhau: chính Thiên Chúa sắp can thiệp bằng ân sủng của Ngài, và sự tự do mà Ngài loan báo hoàn toàn vượt lên trên sự tha nợ giữa những Do thái; đó là sự cứu độ lạ lùng của thời cánh chung và có thể đồng hóa với nước Thiên Chúa, mà người ta sẽ sôi nổi chờ đợi.
5. “Bấy giờ Ngài bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Trong câu đầu tiên này Chúa Giêsu đưa ra tất cả ý hướng bài giảng. Ngài sắp thực hiện nơi Ngài lời sấm ngôn tiên tri mà chính Ngài vừa đọc. Làm như vậy, Ngài xử sự như một tiên tri.
Tiếng đầu tiên của Chúa Giêsu thật quyết liệt. “Hôm nay” xuất hiện nhiều lần nơi Luca, và chỉ Luca mà thôi, trong những đoạn khác nhau nói đến ơn cứu độ được thực hiện trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu: ngày sinh nhật (2,11), chịu thanh tẩy (3,22), chữa lành người bất toại (5,26), những phép lạ và cuộc tiến lên Giêrusalem (13,32-33), tha thứ cho ông Giakêu (19,5-9), lời hứa tha tội người trộm lành (23,43). Tiếng này ám chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu tạo nên một giai thoại thoại đặc sắc trong thời cứu độ. Luca không xem đây là thời thế mạt, vì ông biết Giáo hội đang nối tiếp cuộc đời Chúa Giêsu và ông trông đợi ngày Chúa trở lại (12,40; 17.22-37; 18,8; 21,27). Nhưng ông cũng nhìn thấy trong sứ điệp của Chúa Giêsu, một thời kỳ đặc biệt của lịch sử, một thời đại ân sủng giữa những sửa soạn của Cựu Ước và thời bành trướng của Giáo hội, “trung tâm thời gian”, thành ngữ danh tiếng của Conzelmann.
Chúa Giêsu áp dụng cho chính Ngài sấm ngôn của Is 61. Khi chịu phép rửa Ngài đã nhận lãnh Thánh Thần như một xức dầu ban cho Ngài một phận vụ thánh mà Luca diễn tả như là phận vụ của Messia (hoặc do việc trông đợi Đức Kitô trong 3,15 hoặc do lời Chúa Cha trong 3,22 lấy lại lời sấm phong vương cổ xưa của thánh vịnh 2,7). Nhưng Chúa Giêsu là Đấng Messia khác xa các vua trần gian mà các người đương thời mong đợi. Để tránh hiểu lầm Ngài không công khai minh định mình là Đấng Messia (x.4,11) và chỉ mạc khải điều đó cho nhóm tông đồ này, sau này khi họ đủ khả năng lãnh hội mạc khải đó (9,18-21). Còn bây giờ, lúc mới bắt đầu sứ vụ Ngài thích tự xưng là tiên tri mang tin mừng cứu độ. Có lẽ bản văn Isaia cho thấy Ngài là chân dung người tôi tớ Giavê, và nói lên các đề mục chính yếu của Tin mừng Ngài rao giảng là: người nghèo được ưu đãi, kẻ tù đày bị áp bức được giải phóng tự do, người mù được xem thấy. Những điều đó rõ ràng nói lên lòng ưu ái Ngài dành cho những kẻ khiêm nhu và các phép lạ Ngài sắp làm để thắng bệnh tật thể xác. Đồng thời các lời đó còn đưa ra các yêu sách và ân huệ của Ngài: lời mời gọi có tâm hồn nghèo khó, lời hứa giải phóng tội nhân đắm chìm trong giận dữ, cho người tin được xem thấy (khi chú giải “xem thấy” này, Chúa Giêsu theo sát tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong Is 61,2 tiên tri vừa loan báo một năm hồng phúc vừa loan báo một ngày báo oán; như thế ông trình bày đề tài cựu truyền về ngày của Giavê, vừa là ngày phán xét vừa là ngày cứu độ. Ở đây Chúa Giêsu không nói đến việc phán xét: không phải là Ngài loại bỏ chủ đề Ngài thường đề cập trong Tin mừng (Lc 6,20-26; 10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35 -48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,22-37; 18,8; 19,11-27), nhưng trong diễn từ này Ngài chỉ nhắm đến “trung tâm thời gian” là lúc mà ơn cứu độ được ban cho Israel; chính là thời gian mà Ngài gọi là năm hồng phúc của Chúa, là dịp thuận tiện mà dân Ngài phải lợi dụng (thật bạo gan khi muốn tìm ở đây một chỉ dẫn về thời hạn sứ vụ của Chúa Giêsu; bản văn Isaia nói là rao giảng trong một năm, nhưng Chúa Giêsu ở đây không nói chi đến thời gian hoạt động của Ngài).
Tóm lại, theo Luca, tư tưởng Chúa Giêsu ở đây giống như tư tưởng trong lời loan báo: Nước Thiên Chúa đã gần đến, mà Lc 1,15 và Mt 4,17 đã ghi lại vì lời loan báo này cho thấy bây giờ người ta có thể vào nước Thiên Chúa nhờ sứ mệnh của Chúa Giêsu. Nhưng cách diễn tả của Luca chính xác hơn: phân biệt thời gian Chúa Giêsu hoạt động với thời gian hoàn tất có ý nghĩa cánh chung Luca cũng xác định đúng vai trò, hồng ân và các yêu sách của Chúa Giêsu.
6. Giai thoại này bộc lộ các ý hướng chính của Luca. Ông biết giai thoại Nagiarét này nằm sau một chuỗi hoạt động của Chúa Giêsu. Ông nói câu đó trong hai câu đi trước đoản văn này (4,14-15) và gián tiếp ám chỉ ở 4,23. Ông đặt giai thoại này vào lúc Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng. Hiển nhiên ông muốn chính Chúa Giêsu xác định sứ mạng ngay từ đầu phúc âm. Ý hướng này cũng có ở đầu sách Cvsđ (Ccsđ 1,8), là câu ghi lời Chúa Giêsu loan báo sứ mệnh truyền giáo của các tông đồ, và cho thấy lược đồ cuốn sách.
Cũng như trong Macco và Matthêu, khung cảnh câu chuyện là hội đường. Đây là một trong những phương pháp của Chúa Giêsu (4,15.33-34; 6,6; 13,10). Đây cũng là cách các nhà truyền giáo (mà Lc được tháp tùng) thường làm; tại mỗi thành, các Ngài bắt đầu rao giảng tại hội đường (Cvsđ 9,20; 13,5.14.44; 14,1; 17,1.10; 18,4.7.19; 19,8). Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh sứ điệp cứu rỗi được ban cho Israel trước hết bắt đầu từ thánh kinh và phụng tự; giao ước mới hoàn tất giao ước cũ.
Mc 1,15 và Mt 4,17 tóm tắt sứ điệp đầu tiên của Chúa Giêsu là: công bố nước Thiên Chúa gần đến. Luca làm sáng tỏ điều đó hơn nữa khi trích Is 61 là đoạn mà chắc chắn Chúa Giêsu đã tự áp dụng cho mình. Trong cảnh ở Nagiarét, bản văn cho thấy đấng Messia, được giới thiệu khi chịu phép rửa, đã ra mắt công chúng như là vị tiên tri được Thánh Thần tấn phong; Ngài sắp đặc biệt lưu tâm đến các người nghèo khó, đau khổ, bị áp bức (đây là tư tưởng của riêng Luca); Ngài đến giải thoát họ và cho họ nhìn thấy chương trình của Thiên Chúa. Sứ mệnh tại thế của Chúa Giêsu tạo nên thời đại ân sủng cho Israel, mà họ phải biết lợi dụng ngay từ hôm nay.
KẾT LUẬN
Màn khai diễn là một điểm rất quan trọng để hiểu những chương phúc âm kế tiếp. Một cách nào đó Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài. Trước hết Ngài đem đến ơn cứu độ, giải phóng, ánh sáng, ủi an: tất cả những thứ đó đều dành cho những người nghèo khó và bị áp bức. Thực sự đã bắt đầu một năm mới toàn xá. Nhưng lần này không phải chỉ có con người mới tha nợ và trao trả quyền công dân, tự do. Trong ngôi vị được xức dầu, chính Giavê đến tha nợ cho con người và giải thoát con người khỏi nô lệ sự dữ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Kiến thức về Chúa Giêsu mà chúng ta có được, kiến thức mà các vị thủ lãnh giáo hội, cha mẹ và những nhà giáo dục truyền lại cho ta từ đời nọ sang đời kia, bắt nguồn từ các sách phúc âm. Những sách phúc âm này, như tác giả Phúc âm Luca cho biết trong những câu đầu của Phúc âm ta vừa đọc, đã được viết bởi các nhân chứng đã chứng kiến các biến cố, hay bởi những người cẩn thận như Luca, đã sưu tầm cách chắc chắn trước khi xuất bản. Như vậy có nghĩa là đức tin của chúng ta không phải được dựa trên những dụ ngôn hay thần thoại do trí tưởng tượng bày ra. Đức tin của chúng ta đặt cơ sở trên những sự kiện lịch sử được nhiều người thà đổ máu để làm chứng hơn là chối bỏ những sự kiện này. Điều này mang lại cho Kitô giáo một bộ mặt đặc biệt, độc nhất trong lịch sử nhân loại. Sự kiện Kitô giáo được đặt trên cơ sở chính yếu là sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử, phân biệt Kitô giáo với các tôn giáo cũng như với mọi hệ thống tư tưởng khác. Thiên Chúa chúng ta là Chúa tể mọi sự kiện,mọi hành động có thực, không phải là ngẫu tượng hay thuần tư tưởng. Và Thiên Chúa ấy lưu tâm đến lịch sử cụ thể của con người, chính Thiên Chúa ấy ngày nay còn kêu gọi ta qua trung gian Chúa Giêsu, con người cụ thể ở Nagiarét.
2. Khi rao giảng một trong những sứ điệp của mình cách công khai tại Nagiarét là “nơi mình đã sinh trưởng” (c.16), Chúa Giêsu cho thấy rõ sự tế nhị của tâm hồn Ngài. Là người có tiếng tăm khắp vùng Galiles (c.14-15), Ngài không quên nơi mình đã lớn lên. Ngài muốn thông truyền cho người láng giềng, bà con, người đồng hương Tin mừng cứu độ, “năm hồng phúc” mà Thiên Chúa ban cho dân Israel và thế giới qua Ngài. Cho dầu là Con Thiên Chúa, được sinh ra nơi Thánh Thần, Chúa Giêsu cũng không từ chối những tương quan nhân loại nối kết Ngài với thành Nagiarét. Ân sủng không đến để phá hủy nhưng để hoàn hảo những gì tự nhiên: để sống đời Kitô hữu trọn vẹn thay vì làm cho chúng ta tách rời khỏi người đồng hương lại làm cho chúng ta xích lại gần họ hơn và khích lệ ta yêu mến họ một cách trung kiên và tế nhị hơn.
3. Cho dầu là Đấng Cứu thế, Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng tiếp tục lui tới hội đường “theo thói quen của Người: (c.16). “Ngài tự đặt mình dưới lề luật” (Gal 4,4) như trình thuật về thời thơ ấu đã cho thấy điều đó. Ngài không đến để phá bỏ lề luật, nhưng thực thi và kiện toàn Lề luật. Là môn đệ của Ngài, chúng ta phải chọn con đường là vâng lời và tuân theo thánh ý Chúa Cha được bộc lộ trong luật Chúa và luật Giáo hội.
4. Chúa Giêsu đã đến trước hết là để cứu vớt những người nghèo, bị áp bức đui mù. Sứ vụ công khai của Ngài thấy Ngài luôn quan tâm nâng đỡ những người đau khổ Ngài gặp trên đường. Nhưng trước hết Ngài chú ý đến những người đau khổ trong tâm hồn. Vì những người đau khổ phần xác chỉ là hậu quả và dấu chỉ của đau khổ phần hồn. Vì vậy, chính khi chữa lành bệnh nhân, cho kẻ chết sống lại, hóa bánh ra nhiều, trước tiên ngài nhằm giải thoát những tâm hồn tội lỗi, xua đuổi ma quỉ, mở mắt đức tin. Công việc từ bi của Ngài luôn được tiếp tục trong giáo hội và qua giáo hội. Nhờ các nhiệm tích, Chúa Giêsu tiếp tục giải thoát các tín hữu nô lệ tội lỗi, nuôi dưỡng họ bằng bánh Thánh Thể, ban cho họ sức mạnh ân sủng. Nhờ lời giáo huấn của giáo hội, Chúa Giêsu tiếp tục thông truyền ánh sáng Ngài cho những ai đang ngồi trong tối tăm. Và mỗi người chúng ta, trong hoàn cảnh của mình, đã được thụ hưởng hồng ân cao cả ấy của Chúa Kitô, thì đến lượt mình cũng phải làm cho những người mình gặp cũng được hưởng ân huệ ấy như mình. Mỗi người phải tiếp nối công việc của Chúa Kitô quanh mình, bằng cách tuôn tràn niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng tất cả nhân phẩm của mình. Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ môn đồ Chúa Kitô như thế, thì lời tiên tri Isaia hôm nay được hoàn tất, năm hồng ân của Chúa hôm nay được công bố, và nước Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.