Đợi Chờ và Hy Vọng
Giữa màu tím đợi chờ của mùa vọng, hôm nay chúng ta thấy ánh lên một chút màu hồng vui tươi qua bộ lễ phục của vị chủ tế. Một chút màu hồng ở giữa mùa vọng, tượng trưng cho niềm hy vọng đang vươn lên trong lòng ta vì Chúa sắp đến. Một chút màu hồng như niềm vui làm tăng thêm sức mạnh cho những “bàn tay rã rời và những đầu gối mỏi mòn”. Một chút màu hồng ấy như chiếc mầm nhỏ bé đang nhú lên từ mảnh ruộng của người nông phu. Một chút màu hồng đó đang tỏa sáng để làm hé lộ dần khuôn mặt của Chúa, Đấng đang đến với chúng ta. Tất cả đều mong chờ Ngài như mảnh đất khô cằn mong đợi những giọt mưa xuân.
Người ta kể rằng : một nhóm thương gia dự một buổi họp. Vì cuộc họp kéo dài bất thường, nên vừa tan họp, mọi người hối hả chạy ra xe buýt để về nhà. Một người vì vội vã đã đụng phải quầy bán táo của một cậu bé. Những trái táo rơi tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu bé. Mọi người đều lên được xe buýt và thở phào nhẹ nhõm.
Ít phút sau, một người trong nhóm cảm thấy áy náy trong lòng, liền xuống xe trở lại chỗ cậu bé bán táo. Ông thấy cậu đang vất vả lần mò tìm từng trái táo để lượm lại. Nhìn kỹ, ông mới giật mình : thì ra cậu bé bị mù ! Tội nghiệp quá, ông giúp cậu bé lượm lại từng trái táo. Một số trái táo bị giập, ông dúi vào tay cậu bé một món tiền rồi bỏ đi. Cậu bé hỏi với theo : “Ông ơi, ông có phải là Chúa Giêsu không ?”. Nhưng người đàn ông đã lẩn vào đám đông trên hè phố.
Trong đôi mắt mù lòa của cậu bé, người đàn ông tốt bụng với những việc làm tử tế kia mang hình ảnh của Chúa Giêsu.
Hôm nay, Tin Mừng theo thánh Matthêu cũng nêu lên một câu hỏi tương tự như thế. Khi thánh Gioan Tẩy Giả đang bị giam trong tù, nghe nói về những việc làm tốt đẹp của Chúa Giêsu, liền sai các môn đệ đến hỏi Ngài : “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác ?”.
“Đấng phải đến” là Đấng hoàn toàn khác.
Lẽ tất nhiên, thánh Gioan Tẩy Giả đã biết rõ Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế, Đấng phải đến rồi. Tuy nhiên, có lẽ thánh Gioan muốn Chúa Giêsu xác nhận mình là Đấng Cứu Thế và công bố cho mọi người biết điều đó.
Nhưng Chúa Giêsu không muốn tuyên bố mình là Đấng Messia, tuy nhiên chính những việc làm của Chúa đã chứng minh điều ấy. Vì thế, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ Gioan về thuật lại những điều mắt thấy tai nghe do Chúa Giêsu đã thực hiện : “Người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó”.
Chỉ có đôi mắt đức tin mới có thể nhìn thấy diện mạo của Vị Thiên Sai mà thôi. Cũng chỉ khi nhìn bằng trái tim, người ta mới có thể nhận ra Ngài là “một Đấng Khác” so với những mong ước và chờ đợi nơi người Do Thái. Họ mong chờ một vị Cứu Tinh giải thoát họ khỏi sự thống trị của người La Mã và đem lại sự hưng thịnh cho đất nước Israel.
Dĩ nhiên, người Do Thái không cần phải chờ đợi “một Đấng Khác” vì Chúa Giêsu chính là “Đấng phải đến” đã đến. Nhưng quả thật, Ngài lại là “một Đấng hoàn toàn khác” : Ngài đến để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết. Ngài đến để cứu chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền, và nhất là Ngài đến để loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó.
Nhưng tiếc thay, người Do Thái đã không nhận biết Ngài là Đấng Cứu Thế, họ vẫn còn mãi ngóng đợi một Đấng Cứu Thế khác. Họ không nhận ra Ngài vì họ thiếu đôi mắt đức tin.
“Người nhỏ nhất” là người lớn nhất.
Cũng thế, vì không biết nhìn qua lăng kính đức tin, nên người Do Thái đã không nhận biết ở bên cạnh họ có một vị tiên tri lớn là thánh Gioan Tẩy Giả. Đó là người mà Chúa Giêsu ca ngợi : cao trọng nhất trong số “các con cái người nữ sinh ra”.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại kết luận : “Người nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”.
Vậy, “người nhỏ nhất” là ai ? Đó là những người bé mọn, nhưng lại có một lòng tin lớn lao. Đó là những người có đôi mắt niềm tin sáng ngời, nhận ra Chúa và tiếp đón Ngài.
Người bé mọn là những mục đồng, là các nhà đạo sĩ, là Đức Maria, là thánh cả Giuse … Họ đã mở lòng ra để tiếp nhận Chúa, trong khi những người khác thì khép chặt lòng mình.
Những người bé mọn còn là đoàn lũ dân chúng đi theo Chúa để lắng nghe Lời Chúa. Người bé mọn là ông Giakêu, là cô Maria Mađalêna, thậm chí là những người tội lỗi bị mọi người khinh chê và xua đuổi.
Chính những người bé mọn ấy lại là những người đầu tiên lãnh nhận ơn cứu độ của Đấng Messia. Họ đã mong đợi, tìm kiếm và gặp gỡ Đấng Thiên Sai.
Đợi chờ và hy vọng.
Nhưng cuộc đợi chờ nào mà không mệt mỏi ? Cuộc tìm kiếm nào mà không có hy sinh ? Người nông phu nào mà không phải vất vả chăm bón để hạt giống nảy mầm vươn lên và sinh bông hạt ?
Vì thế, sự đợi chờ luôn cho ta một bài học lớn nhất : sự kiên tâm bền chí. Sự đợi chờ cũng luôn hướng chúng ta đến niềm hy vọng và dẫn chúng ta đến niềm vui.
Tiên tri Isaia đã nhìn thấy cảnh dân chúng mệt mỏi chán chường trong sự đợi trông : họ đang lê bước với những “bàn tay rã rời và những đầu gối mỏi mòn”, họ bi quan sợ hãi trước những áp bức bất công, họ buồn đau và rên xiết trước những đau khổ cuộc đời. Tiên tri Isaia đã khích lệ họ : “Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi” (Bài đọc I).
Cũng vậy, các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai cũng nản chí sờn lòng giữa cuộc sống vất vả lầm than, giữa những bất công xã hội. Họ mong Chúa đến cứu giúp và giải thoát họ.
Thánh Giacôbê đã dạy họ bài học kiên nhẫn của bác nông phu : gieo vãi và kiên tâm đợi chờ mùa gặt : “anh em hãy bền chí và vững tâm vì Chúa đã gần đến” (Bài đọc II).
Tác giả David Paul Eich trong cuốn sách “Hành Trình Đến Cùng Thiên Chúa Của Người Bạn Trẻ” đã kể câu chuyện sau:
Một doanh nhân trẻ đang lái chiếc xe hơi hiệu Jaguar bóng loáng trên đường, thì bỗng đâu một cục đá bay thẳng vào cánh cửa xe. Giật mình, anh ta dừng xe để xem kẻ nào cả gan ném cục đá vào chiếc xe đắt tiền của anh ta. Xuống xe, anh ta ngạc nhiên nhìn thấy một thằng bé đang đứng khóc. Nó mếu máo nói : “Cháu xin lỗi, cháu không còn cách nào khác, cháu phải ném đá vì không có ai chịu dừng lại để giúp anh cháu”. Nói rồi, nó chỉ tay xuống một cái mương rất sâu bên đường. Nhà doanh nhân nhìn thấy một thanh niên tàn tật bị rơi xuống mương bên cạnh chiếc xe lăn lật úp. Thì ra, người anh tật nguyền của đứa bé bị té xuống mương, vì không đỡ lên nổi, gọi xe thì không ai dừng lại, nó đành phải ném vào xe thì xe mới dừng lại.
Nhà doanh nhân cảm động, giúp mang người thanh niên tàn tật lên khỏi mương, băng bó vết thương và đặt vào chiếc xe lăn cho đứa trẻ đẩy về.
Anh ta không bao giờ sửa lại chỗ móp trên cánh cửa xe. Anh ta muốn giữ lại dấu vết ấy để từ nay, anh không còn sống quá vội vã đến nỗi để người khác phải ném một cục đá, anh mới dừng lại để giúp đỡ.
Chúa đã đến, Ngài mang khuôn mặt và dáng vóc của những người anh chị em khốn cùng. Đôi khi vì cuộc sống quá vội vàng, chúng ta đã không dừng lại để gặp gỡ và đón tiếp Ngài.
Chúa đã đến trần gian cách đây hơn 2000 năm và Ngài tiếp tục đến với từng tâm hồn. Điều Chúa mong muốn không phải là đến một nơi chốn nào đó, mà là đến với con người. Phải chăng một lần nữa, Chúa chỉ đến trong hang đá lạnh lẽo, mà không đến được với tâm hồn mọi người chúng ta ?