Bài 08: GIA ĐÌNH PHỤC VỤ SỰ SỐNG
Dẫn nhập
Ngày nay nhiều quyền bính chính trị xã hội hoặc những tổ chức tư nhân đang theo đuổi một tâm thức chống lại sự sống, đã đề nghị và quảng bá việc sử dụng một cách có hệ thống những phương tiện ngừa thai và phá thai, và những hình thức chống lại sự sống khác.
Trong bối cảnh đó, các gia đình Kitô hữu cần phải biết phục vụ sự sống và luôn can đảm bảo vệ và thăng tiến sự sống. Phục vụ và yêu mến sự sống có nghĩa là luôn nhớ đến trách nhiệm của mình đối với sự sống và đối với việc truyền sinh.
1. Tính thánh thiêng của sự sống con người
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo khẳng định: “Sự sống con người phải được coi là điều linh thánh, vì từ lúc khởi đầu của mình, sự sống đó ”đòi phải có hành động của Đấng Tạo Hóa” ”[1].
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng xác quyết: “Sự sống của con người là thánh thiêng và bất khả xâm phạm trong tất cả các khoảnh khắc của sự hiện hữu của nó, cả trong khoảnh khắc khởi đầu có trước sự sinh ra”[2].
Tính thánh thiêng của sự sống con người hệ tại việc chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo nên sự sống, và Ngài có quyền đối với sự sống và sự chết. Việc hủy hoại sinh mạng con người không thuộc quyền phán đoán tự do của con người[3]. Trách nhiệm của chúng ta đối với sự sống là trách nhiệm của người quản lý. Quyền làm chủ tuyệt đối là quyền chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa[4].
- Gia đình phục vụ sự sống
2.1. Gia đình thông truyền sự sống.
– Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ. Sự khác biệt phái tính cho phép cả hai bước vào trong cuộc đối thoại sáng tạo, làm nảy sinh giao ước tạo nên sự sống. Sự khác biệt giữa hai phái là điều kiện tiên quyết để mỗi người có thể tương tác với người khác. Khi hai người phối ngẫu tự trao hiến hoàn toàn cho nhau, thì đồng thời họ cũng trao ban chính mình cho con cái sẽ được sinh ra.
– Con người ở một mình thì không tốt. Khi dựng nên người nữ như là trợ trá tương xứng cho người nam, Thiên Chúa muốn cho họ cùng cộng tác với nhau trong việc thông truyền sự sống. Phẩm giá như nhau giữa người nam và người nữ không cho phép bất cứ một sự phân biệt đối xử nào.
– Cả hai thành một xương một thịt. Sự kết hợp nên một giữa người nam và người nữ để họ thông truyền sự sống. Nơi họ, sự sống con người không những được thông truyền và sinh ra, mà còn là nơi tập hợp tất cả những tình cảm và các mối quan hệ nhân vị được đón nhận và học hỏi. Khi cùng đón nhận nhau, vợ chồng hiện thực hoá sứ mạng phục vụ cho công trình tạo dựng mà Thiên Chúa đã khởi sự nơi họ.
2.2. Gia đình là “cung thánh của sự sống”.
Gia đình được mời gọi làm thành “cung thánh của sự sống”[5], có nghĩa chính gia đình là nơi cưu mang và phát sinh sự sống; là nơi nuôi dưỡng và phát triển sự sống; là nơi che chở và bảo vệ sự sống.
– Gia đình là nơi cưu mang và phát sinh sự sống. Nơi gia đình, đôi bạn: “thực hiện bằng việc thông truyền hình ảnh Thiên Chúa từ người này sang người khác trong hành động truyền sinh” (x. St 5, 1tt)[6].
– Gia đình là nơi nuôi dưỡng và phát triển sự sống. Trong việc nuôi dưỡng sự sống và làm cho sự sống lớn lên và phát triển thì giáo dục giữ vai trò quan trọng nhất: “vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận vô cùng quan trọng là giáo dục những người con trong gia đình… Do đó, gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội cần thiết cho tất cả các cộng đồng”[7].
– Gia đình là nơi che chở và bảo vệ sự sống. Gia đình phải là thành lũy bảo vệ sự sống trước sự tấn công của các luồng thông tin độc hại, các lối sống buông thả, các xu hướng hưởng thụ lạc thú với bất cứ giá nào. Che chở và bảo vệ sự sống là phải giúp chúng biết phán đoán và chọn lựa những giá trị theo tiêu chuẩn Kitô giáo khi hòa mình vào xã hội chung quanh.
3. Tội chống lại sự sống con người.
– Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền trên sự sống và sự chết. Ngoại trừ trường hợp tự vệ chính đáng, không một ai có quyền giết người.
– Giết người hoặc đồng lõa giết người đều bị cấm. Trong chiến trận, giết người không có khí giới, cũng bị cấm. Phá thai trực tiếp ngay khi thành thai cũng bị cấm. Tự tử, cắt chặt thân thể, phá hủy thân thể đều bị cấm. Làm cho chết êm, nghĩa là giết người tàn tật, người bệnh, người đang chết, đều bị cấm.
– Trường hợp tự vệ: Người nào đang thực sự tấn công mạng sống của người khác, ta cần phải ngăn cản họ ngay lập tức, mặc dù khi ngăn cản có thể gây chết.
– Giáo hội chống lại án tử hình, vì án tử hình vừa tàn bạo vừa không cần thiết.
– Chủ động gây chết cho một người luôn luôn phạm điều răn “ngươi không được giết người” (Xh 20,13). Ngược lại, ở bên và giúp đỡ người đang sắp chết là bổn phận nhân đạo và bắt buộc.
– Cấm sử dụng phương pháp ngừa thai nhân tạo, đôi bạn chỉ được sử dụng phương pháp ngừa thai tự nhiên.
– Việc phá thai: “việc phá thai trực tiếp, nghĩa là, hoặc được muốn như mục đích hoặc được muốn như phương tiện, đều trái ngược một cách nghiêm trọng với luật luân lý”[8].
– Phá các bào thai bị tàn tật luôn là tội ác nặng, cả khi phá nó với chủ ý để nó khỏi đau khổ về sau.
– Giáo hội kết án tội phá thai bằng vạ tuyệt thông tiền kết: “người nào thi hành việc phá thai và nếu việc phá thai có hiệu quả, thì bị vạ tuyệt thông tiền kết”[9].
– Không được phép làm thí nghiệm trên phôi sống và các tế bào gốc phôi. Phôi thai phải được coi là con người, vì sự sống con người bắt đầu từ khi một tế bào tinh trùng và trứng thụ tinh.
– Không được dùng bạo lực trên chính thân xác mình. Chúa Giêsu mời gọi ta rõ ràng phải yêu bản thân mình: “ngươi phải yêu tha nhân như chính mình ngươi” (Mt 22,39).
– Hút xì ke ma túy là một tội, vì làm hại sức khỏe và đó là tự hủy mình, phạm đến sự sống mà Thiên Chúa đã ban cho ta vì yêu mến ta.
– Những thí nghiệm y học, tâm lý học và khoa học trên con người đang sống, chỉ được phép khi kết quả mong đợi làm ích cho sức khỏe con người, và khi không còn cách nào khác nữa. Tuy nhiên, đòi có sự tự do và sự ưng thuận của người bị thí nghiệm.
– Hiến tặng cơ quan của cơ thể có thể giúp kéo dài hoặc cải thiện phẩm chất sự sống, đó là việc phục vụ chính đáng cho tha nhân, nhưng không được ép ai hiến tặng.
– Không được có những hành vi xâm phạm đến sự toàn vẹn thân xác của con người như dùng bạo lực, bắt cóc, bắt làm con tin, khủng bố, hành hạ tra tấn, cưỡng hiếp, ép triệt sản, cắt bỏ bộ phận[10].
Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, gia đình được mời gọi phục vụ sự sống để cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Vì thế việc hủy diệt sự sống, nhất là sự sống của những người vô tội và vô phương tự vệ là đánh mất nền tảng căn bản của gia đình. Người nam và người nữ được dựng nên, với những dị biệt về phái tính, để lưu truyền và nên như thành lũy bảo vệ sự sống mà Thiên Chúa đã khởi sự nơi con người.
4. Áp dụng
Chuyện Thánh nữ Gianna Beretta Molla: Hy sinh mạng sống cho con
Gianna Beretta sinh ngày 04.10.1922 tại Magenta, thành phố Milan, nước Ý, là con thứ 10 trong một gia đình có 13 người con. Cô Gianna lập gia đình với Pietro Molla và có ba người con là: Pietro Luigi (1956), Moriolina (1957) và Lauretta (1959). Tháng 8 năm 1962, Gianna có thai đứa con thứ tư nhưng một ung bướu rong tử cung phải giải phẫu. Gianna buộc phải chọn lựa một trong hai: cứu mẹ thì mất con hoặc cứu con thì mất mẹ. Sau khi đã suy nghĩ và cầu nguyện, Gianna đã hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa và quyết định hy sinh tính mạng mình để đứa con được sống.
Vào ngày thứ Sáu tuần thánh năm 1962, Gianna trở dạ, bà nói với một nữ tu y tá trong bệnh viện: “chị yêu quí, hôm nay tôi biết chắc tôi sẽ chết, nhưng không sao, miễn là con tôi sống”. Trong tối thứ Bảy vọng Phục sinh, bác sĩ đã mổ và cứu cô bé an toàn khoẻ mạnh, mang tên Emanuela. Một tuần sau lễ Phục sinh, Gianna đã nhắm mắt tắt hơi thở cuối cùng, vĩnh viễn rời bỏ cõi đời, về trời với Chúa. Sự ra đi của bà để lại bao tiếc thương vô hạn cho người còn sống, đặc biệt bà đã hy sinh tính mạng mình khi trao lại sự sống cho đứa con gái yêu quý của mình vừa đúng một tuần tuổi. Thật là một hành động quả cảm: mẹ chết để con được sống.
Ngày 24.04.1994, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong bà Gianna Beretta Molla lên bậc Chân Phước trong dịp mở đầu Năm Thế giới về Gia đình. Ngày 16.05.2004, cũng chính ĐGH Gioan Phaolô II đã long trọng nâng Bà Gianna lên bậc Hiển Thánh[11].
Câu hỏi thảo luận
(1) Anh chị hãy cho biết ở nơi mình sinh sống, những việc làm nào bênh vực sự sống và những hành động nào chống lại sự sống con người?
(2) Làm thế nào để mọi Kitô hữu đều là những người che chở và bảo vệ sự sống và mọi gia đình Kitô hữu đều trở thành “cung thánh của sự sống”?
(3) Đâu là những khó khăn khi tuân giữ các phương pháp ngừa thai được Giáo hội chấp nhận? Anh chị đã giải quyết những khó khăn đó thế nào?
Ban Huấn giáo Giáo phận Bà Rịa
—————————————–
[1] GLHTCG 2258
[2] Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae (30/03/1995), số 61; 2; x. Phaolô VI, Thông điệp Humanae vitae (25/07/1968), số 13.
[3]x. Tôma Aquinô, Tổng luận Thần học, II-II, q. 64, a. 5.
[4] x. GLHTCG 2280.
[5] Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae (30/03/1995), số 59.
[6] FC 28.
[7] GE 3; x. FC 36.
[8] GLHTCG 2271; Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae (30/03/1995), số 58; 62; x. GS 27; 51.
[9] GLHTCG 1398.
[10] x. Youcat Việt Nam, Nhà Xuất bản Tôn giáo 2013, câu 378-392; x. GS 27; x. Phaolô VI, Thông điệp Humanae vitae (25/07/1968), số 14-16.
[11] Anh Quân, “Thánh Gianna Beretta Molla: Hy sinh mạng sống cho con”: www.ubmvgiadinh.org/node/160
































