Lời Chúa Chúa nhật 33 Thường niên C
Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống
Chú giải của Fiches Dominicales
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ việc loan báo Đền thờ, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, bị phá huỷ
Đức Giêsu giảng dạy trong Đền thờ. ” Có mấy người ” không thể không ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của tòa nhà đồ sộ ấy; công trình kiến trúc này được vua Hêrôđê cả cho khởi công trùng tu từ năm 20 trước công nguyên và chỉ hoàn tất vào năm 63 sau Đức Giêsu Kitô. Những cuộc đào bới mới đây đã cho người ta thấy rõ cái nền móng khổng lồ của tòa nhà, mà một trong những khối đá cân nặng không dưới 370 tấn, khiến người xem hiểu được thế nào là lộng lẫy đồ sộ, như sử gia Rôma Taxít đã ghi lại trong tác phẩm của ông.
Một lần nữa vẫn đứng trên lập trường đối lập với đám thính giả đang nghe mình, Đức Giêsu loan báo cho họ biết Đền thờ sẽ bị phá huỷ, Người quả quyết: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó, có ngày bị tàn phá hết, không còn trong đá nào trên tảng đá nào “.
Phải chăng sự mất đi dấu chỉ uy nghi về sự Chúa hiện diện giữa dân người sắp đanh dấu ngày tận cùng của thế giới?
Đám thính giả muốn được biết rõ hơn vấn đề, liền đặt ngay câu hỏi: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra thì có điềm gì báo trước? “. Đây cũng sẽ là câu hỏi mà nhiều Kitô hữu thuộc các cộng đoàn của Luca sẽ đặt ra khi họ sẽ được chứng kiến cảnh tàn phá thực sự đền thờ vào ngày 30 tháng 8 năm 70 và họ sẽ coi biến cố này như lời loan báo Đức Kitô sắp trở lại.
Đức Giêsu lập tức cảnh giác họ về một sự giải thích biến cố như thế, một sự giải thích được truyền đi từ các kẻ mạo danh Đấng Mêsia và các tiên tri giả chỉ tìm “lừa gạt ” dân chúng. Tận thế là điều chắc chắn xảy ra, nhưng việc Đền thờ bị phá hủy sẽ không hẳn là tận thế: ” Chưa phải là chung cuộc ngay đâu “, Chúa Giêsu khẳng định rõ như vậy.
2. Đến việc loan báo Đức Giêsu hiện diện trong Giáo Hội của người mãi mãi
Người Kitô hữu cùng với mọi người là anh em và cũng như họ sẽ phải đối mặt với những thăng trầm và biến động của lịch sử: “(chiến tranh”, “nổi loạn”, “động đất”, “dịch hạch”, “đói kém”… Và vì họ là môn đệ của một ông Thầy mà chính bản thân cũng bị ngược đãi vì lẽ công chính, thì đến lượt họ cũng sẽ phải chịu bắt bớ và ngược đãi thôi: “Người ta sẽ tra tay bắt bớ và ngược đãi anh em, nộp cho các hội đường và nhà tù và điệu đến trước mặt vua chúa, quan quyền vì danh Thầy”.
Lời trấn an “anh em đừng sợ hãi” chẳng qua là để động viên các môn đệ của mình đừng quá hoả sợ.
– Để trong thời gian hiện nay của Giáo Hội, họ vững tin rằng kế hoạch của Thiên Chúa đối với trần gian cuối cùng sẽ thành công và họ kiên trì tiến bước: “Có kiên trì, Người nói với họ, anh em mới giữ được mạng sống mình”.
Để họ giữ được niềm tin không lay chuyển và sự hiện diện của Người: Từ sau khi sống lại, người vẫn không ngừng nâng đỡ các bạn hữu mình, khi họ phải điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền để làm chứng cho Người: “Anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thù của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được “.
H. Cousin có thể kết luận: “Người ta đã hiểu được rằng Luca viết chương 21 này không nhằm mục đích mô tả trước cho độc giả biết diễn biến của lịch sử, cho bằng muốn thổi cho họ một luồng sinh khí, để họ sống hiên ngang giữa những gian truân, thử thách, nhắc nhở cho họ biết rằng thời gian hiện tại có một giá trị tích cực. Chính ở đây và lúc này mà Thiên Chúa đang vẫy tay mời gọi ta… Một niềm hy vọng như thé không làm giảm thiểu tầm quan trọng của những trách vụ trần thế, nhưng đúng hơn còn giúp chu toàn những trách vụ ấy nhờ nào những động cơ mới” (Vatican II) L’Evangile de Luc”, Centurion, trg 278).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. “Chứng nhân của niềm hy vọng”
(Đức Cha L. Daloz, trong “diệu a visité son peuple”, Dcsclcc de Brouwer, trg l68)
Các xáo trộn của những thời kỳ cuối cùng có thể xui khiến người ta đi tìm kiếm những sự an toàn sai lạc, sự hoảng loạn hoặc ngược lại có thể làm cho lòng can đảm lớn lên. Đức Giêsu dạy cho các môn đệ mình biết đọc ra điều mà các biến cố kia đang sửa soạn, cùng một cách như họ biết đoán trước mùa hè gần tới, khi thấy cây vả đâm chồi nẩy lộc vậy nước Thiên Chúa đang tới gần”. Người khơi lên trong các ông niềm hy vọng: “Anh em hãy đứng thắng, ngẩng đầu lên, vì sự giải thoát anh em đang gần kề”.
Phải chăng đó cũng là một chìa khóa Chúa trao cho ta, để ta biết giải mã lịch sử của ta, cùng với những đổi thay bất trắc của nó, và rồi nhân danh Nước trời đang đến, ta sống làm những chứng nhân của niềm hy vọng giữa lòng lịch sử và những thăng trần của đời ta chăng?
2. “Một niềm hy vọng vô biên giữa những liễn biến của lịch sử”
(G. Boucher, trong “Le ciel sur terre”, trg 60).
Chỉ cầ n xem truyền hình chiếu cảnh một thành phố bị chiến tranh san bình địa, mới đo lường được khả năng tàn phá của con người. Lẽ nào khi nhìn cảnh thành phố đổ nát ấy, người ta lại không nghĩ bụng: tận thế chăng?
Khi trong đầu óc đã có những phác họa như thứ nhất định chúng ta đều hình dung tận thế và tận cùng lịch sử như một đại hoạ. Nhất định là một đại họa thôi. Nếu các vì sao biến mất, và nếu mặt trời không còn thì chẳng có thể còn sự sống nữa. Thế giới chỉ còn là ngày tàn.
Còn chính Đức Giêsu, Người lại đem đến cho chúng ta một niềm hy vọng vô biên giữa những đổ vỡ và uy hiếp này.
Một bảo đảm mạnh hơn những đắng cay của ta. Người mời gọi ta sống làm chứng nhân, làm người có lòng tin, làm người tin chắc vào kế hoạch của Chúa đối với thế gian, người luôn vững tâm dù có xảy ra thế nào chăng nữa.
Những công trình xây cất, những nền văn hoá, những quốc gia cũng như mặt trời và các tinh tú đều phải tàn lụi và qua đi do tình trạng lỗi thời và lão hóa của vũ trụ.
Điều xảy đến cho con người có lòng tin thực sự bị hất ra bên lề xã hội, bị chỉ trích chối từ, ruồng rẫy lại thuộc về mầu nhiệm.
Điều gì đang làm xáo trộn Giáo Hội hiện nay đều gợi nhìn lại những gì đã xảy đến cho Con Thiên Chúa khi còn tại thế.
Đức Giêsu mới là chỗ dựa an toàn của chúng ta.
3. “Tận thế… hay là “chuyển dạ sinh” ra thế giới mới?”
(H. Denis, trong “100 mots pour dire la loi”, Desclee de Brouwer, trg 51-52).
Năm phụng vụ kết thúc cũng như sắp bắt đầu cùng thích nói về Tận Thế.
Mở đầu bằng nói về kết thúc quả không phải là chuyện tầm thường. Một phần nào, đó chính là cách thức Thiên Chúa dùng, để cho mọi người phải thấy rõ ràng thế giới ta đang sẽ nên hoàn bị nhờ sự can thiệp của Chúa, một sự can thiệp thần diệu sẽ vượt quá mọi hy vọng và vượt qua mọi thất vọng của ta.
Ta dám nói được rằng mạc khải của Đức Kitô đã làm thay đổi chiều hướng của Lịch Sử. Thực vậy, khi chúng ta nói về một người hay một nhóm nào rằng: “Rồi cũng có ngày phải kết thúc thôi”, ta gán cho từ “kết thúc” này một ý nghĩa đức tin khá rõ ràng mà cũng khá nghèo nàn. Đúng là mọi sự phải kết thúc thôi. Vả lại trên đời này, hoa nào mà chẳng phải tàn thân xác nào mà không tàn tạ. Thế nên sự chấm dứt hay kết thúc sẽ là dấu chỉ sự xuống cấp năng lượng, sự trở về hư ô. Điều đáng quan tâm trong mạc khải Do Thái giáo chính là sự chết, sự tận cùng mang ý nghĩa trái lại. Chết cũng như tận cùng là nhân tố tạo ra chuyển động cho lịch sử, như thể sát sinh tồn của thế giới và của nhân loại được lôi kéo về phía trước một cách hoàn toàn tự do để vượn tới sự hoàn bị mất nhiệm này.
Đức Giêsu như ta vốn tin, vừa là người bạn đường sát cánh với ta vừa là điểm hẹn của đoàn người mà người cầm đầu đã leo tới đỉnh. Thế nên, dù cuộc sống và những hệ thống kinh tế của ta có vô vàn cặn bã, thì người tín hữu và là người tin rằng thế giới đang tiến đến cùng Đức Kitô, Đấng làm chắc niềm tin của chúng ta được ứng nghiệm.
Có lẽ cũng nên thôi hát nay nói rằng Đức Giêsu lại đến. Nói lời đó một phần nào giống như nói Người lại-bắt-đầu mầu nhiệm Nhập thể của người. không Đức Giêsu đang đến.
Thiết tưởng cũng đúng hơn khi nói rằng Chính chúng ta đang đi đến với Đức Kitô trong khi muôn loài thọ tạo cùng rên xiết và quằn quại như sắp sinh nở (cf. Rôma 8).
Vậy thì tận thế là gì, nếu không phải là sự “chuyển dạ sinh nở” một “Thế Giới Mới”. Cùng với những tiếng rên rỉ khôn xiết, chúng ta sẽ cùng với muôn loại thọ tạo tiến vào hướng tự do thực sự dành cho những con cái của Chúa.