Lời Chúa Chúa nhật 32 Thường niên C
SỰ SỐNG LẠI
Lm. Jos. TVH
Chúa Giê-su đã đánh bại các kinh sư và các thầy tư tế khi họ tìm cách gài bẫy Ngài về chuyện nộp thuế, bây giờ đến lượt một nhóm người Xa-đốc, một đảng thế lực trong hàng các thượng tế tấn công Ngài. Họ không tin sự bất tử của linh hồn, không tin sự sống lại của người chết, không tin có các thiên sứ và các thần linh. Về Kinh Thánh họ chỉ công nhận bộ luật thành văn của Cựu ước, và trong Cựu ước họ chỉ coi trọng luật Mô-sê.
Dựa vào luật hôn nhân kế tục Lê-vi (Đnl 25,5) : Khi một người đàn ông chết không con nối dõi, em trai (hay anh trai) người này phải cưới người vợ góa đó và sinh con để nối dòng cho người thân quá cố. Có lẽ vào thời Chúa Giê-su, luật đó không còn thi hành nữa, nhưng nó đã có trong bộ luật Mô-sê, vì thế người Xa-đốc coi luật đó còn hiệu lực. Vậy người Xa-đốc đã đến với câu hỏi rằng ai sẽ là chồng trên trời của người vợ đã gả cho bảy người đàn ông khác nhau. Họ cho đó là một câu hỏi làm cho niềm tin vào sự sống lại thành ra lố bịch. Họ hy vọng Chúa Giê-su sẽ chối tín lý cổ truyền về sự sống lại hay sẽ nói một câu chống lại luật pháp Mô-sê qui định về luật hôn phối kế tục. Nhưng Chúa Giê-su đã đưa ra một câu trả lời hàm chứa một chân lý vĩnh cửu. Ngài nói chúng ta không nên hiểu về trời theo cách hiểu dưới đất này. Sự sống ở đó sẽ hoàn toàn khác bởi chúng ta sẽ hoàn toàn khác. Cuộc sống phục sinh sẽ được điều hành bởi những qui luật khác hơn những qui luật hiện nay. Những kẻ dự phần vinh hiển trong thời đại đó, từng kinh nghiệm các phước hạnh của sự sống lại từ kẻ chết sẽ trở nên bất diệt về linh hồn cũng như về thân thể. Hôn nhân cần thiết cho sự lưu truyền dòng giống ngày nay, lúc ấy sẽ không còn tồn tại nữa. Những tương quan trong cuộc sống ấy sẽ cao hơn, cả những tương quan thiêng liêng nhất của cuộc sống hiện tại. Những kẻ có phần trong sự sống lại này “sẽ giống như các thiên thần”, không phải về mọi phương diện mà về trạng thái bất tử của họ. Trong một ý nghĩa rộng rãi hơn, họ sẽ là “con cái Thiên Chúa” và là “con cái của sự sống lại, vì sự chết đã mất uy lực trên họ.”
Chúng ta cần lưu ý, nhiều tín lý ngày nay có vẻ khôi hài và mâu thuẫn với những qui luật chính xác của khoa học thực nghiệm một ngày kia sẽ trở nên sáng tỏ nhờ khám phá ra những quy luật cao hơn những quy luật hiện nay. Chúng ta sẽ tránh được nhiều sai lầm nếu ta đừng tiếp tục tưởng tượng một cõi trời như thế nào (theo ý chúng ta) cứ trao trọn vẹn mọi sự cho tình yêu của Thiên Chúa.
Chúa Giê-su còn đi xa hơn nữa. Như chúng ta đã biết, người Xa-đốc không tin sự sống lại của thân thể. Họ tuyên bố rằng, họ không thể tin điều đó vì không có lời nào, càng không có chứng cớ nào về điều đó được tìm thấy trong các sách luật mà Mô-sê là tác giả. Vả lại không có ra-bi nào có thể giải đáp thỏa mãn vấn đề đó cho họ, nhưng việc này Chúa Giê-su đã làm. Ngài chỉ cho họ biết chính Mô-sê đã được nghe Thiên Chúa phán : “Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.” (Xh 3,1-6) và không thể nào Thiên Chúa lại là Thiên Chúa của kẻ chết, cho nên Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp vẫn đang sống. Ý Ngài muốn xác định sự trường tồn của kẻ chết, nhưng chẳng phải chỉ có bấy nhiêu đó, Ngài còn chứng minh được sự sống lại của kẻ chết. Đó chính là vấn đề đang bàn cãi. Chữ “kẻ sống” của Chúa dùng, là chỉ những kẻ sống một cuộc sống thường, không phải của những sinh linh không có thân thể, mà của những linh hồn bất tử được khoác bằng một thân thể bất tử. Do đó, Chúa thêm rằng : “Vì đối với Chúa tất cả đều đang sống.” Ý muốn và mục đích của Thiên Chúa là đem mọi người ra từ kẻ chết để hưởng đầy đủ những phước hạnh của sữ sống lại.
Căn cứ vào tương quan của ta hiện nay mà ta biết mình sẽ đến tương lai đó hay không. Nếu Ngài thật là Thiên Chúa của chúng ta vì ta là dân Ngài, thì sự chết sẽ không làm hại ta, một ngày kia ta sẽ đạt đến sự bất tử vinh quang thân thể lẫn linh hồn.
“Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy : người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời” (Đn 12,2) “Ai đã làm điều lành, thì sống lại để được sống ; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án.”
Qua việc cho sống lại, Thiên Chúa hoàn tất việc cứu độ chúng ta, không phải với thân xác được chắp vá lại, nhưng thân xác mới, thích ứng với con người mới. Qua việc tái sinh và nên thánh, Chúa đã đổi mới con người bề trong bằng, bây giờ với một thân thể mới để thích ứng. Thân thể mới liên kết nhưng khác biệt với thân xác cũ giống như cây liên kết với hạt (nhưng khác biệt) từ đó chúng đã mọc lên (Cf 1 Cr 15, 35-44). Thân xác hiện tại của tôi-mà Phanxicô Assisi muốn gọi bằng “anh lừa” cũng giống như chiếc xe cọc cạch của chàng sinh viên-dù tôi chăm sóc mấy đi nữa vẫn chạy tạm thời-không khi nào suông sẻ, lại thường khiến tôi và ông chủ của tôi thất vọng não nề. Nhưng thân thể mới của tôi sẽ cảm thấy và hoạt động như một chiếc Rolls-Royce, và khi ấy công tác phụ vụ của tôi không còn bị hỏng hóc nữa.
Chắc chắn, ai trong chúng ta, cũng yêu quý thân thể của mình vì nó là một phần của chúng ta-nhiều lúc cũng khó chịu vì nó hạn chế ta. Thật rất tốt khi biết Thiên Chúa ban cho chúng ta một bộ khung hạng nhì nhằm giúp ta chuẩn bị quản lý thân thể tốt hơn. Sau này : có người đã nói rằng : “Người ta giao cho bạn một con ngựa tầm thường là để bạn tập cưỡi, và chỉ khi nào bạn sẵn sàng rồi, bạn mới được giao cưỡi con ngựa biết phi nước đại và phóng qua chướng ngại vật. Một người lùn đã khóc vì vui sướng khi nghỉ đến cái thân thể Chúa dành sẵn cho mình trong ngày sống lại. Khi nghĩ đến những người ta quen thân mà về mặt này mặt khác, thân thể không được toàn vẹn, vì tật bệnh, suy nhược … Thật vui khi nghĩ đến hạnh phúc của họ. Muốn được thế , ta phải nên giống Chúa Giê-su.
2Mach 7,1-2.9-14 Chuyện tuẫn đạo của bảy (con số trọn vẹn) anh em nói lên niềm tin vào sự sống lại của những người trung thành tuân giữ lề luật. Thân xác ở đời này do Chúa ban qua cha mẹ , khi sống lại Chúa cũng cho một thân xác hiển vinh.
(2Tex 2,15-3,5) Phân đọan Kinh thánh này có thể xem là một bài tóm lược về sự sống Kitô:
1. Nếp sống Kitô bắt đầu với sự kêu gọi của Thiên Chúa. Chúng ta không bao giờ có thể tự mình đi tìm Thiên Chúa được trừ phi Ngài đã đến tìm gặp chúng ta trước. Mọi sự đều do Ngài phát đọng trước. Nguyên nhân căn bản và động lực của cả vấn đề là tình yêu tìm kiếm của Ngài.
2. Cuộc sống Kitô phát triển do nỗ lực của chúng ta. Kitô hữu không được gọi để mơ mộng, nhưng để chiến đấu, không phải để đứng yên một chỗ nhưng để vươn lên. Con người không chỉ được gọi đến để nhận những đặc quyền vĩ đại nhất, nhưng cũng để nhận những công tác khó khăn nhất trong trần gian.
3. Nỗ lực này luôn luôn được hai điều trợ lực :(a) Nó được trợ lực do sự dạy dỗ, hướng dẫn và gương tốt của những người thánh. Thiên Chúa phán với chúng ta qua những người Ngài đã phán với. Như lời một người đã nói “thánh nhân là người giúp những người khác dễ tin Chúa hơn”. Có những người giúp đỡ nhiều cho chúng ta không bởi những gì họ nói hay viết, nhưng chỉ bởi chính cuộc sống họ, gặp họ tức là gặp được Thiên Chúa. (b) Nó được trợ lực bởi chính Thiên Chúa. Chúng ta không bao giờ bị bỏ rơi để phải chiến đấu, vật lộn và làm việc đơn độc. Đấng giao trách nhiệm cho chúng ta cũng ban sức lực để thực hiện; hơn thế nữa, chính Ngài cũng đồng công với chúng ta. Chúng ta không bị ném vào chiến trận và phấn đấu trong cuộc sống với chút sức lực ít ỏi của chúng ta đâu; nhưng ở phía sau và bên cạnh của chúng ta có Thiên Chúa. Khi Phaolô đối diện với những khó khăn tại Corintô, ông thấy được khải tượng vào ban đêm trong đó Chúa phán với ông rằng “đừng sợ…vì Ta ở với ngươi” (Cv 18,9). Những người ở với chúng ta luôn luôn mạnh hơn những người nghịch với chúng ta.
4. Sự kêu gọi và nỗ lực đó nhằm đem lại hai điều: (a) Để đem lại sự nên thánh trong thế gian. Theo nghĩa đen trong tiếng Hi lạp, một vật được nên thánh là vật được để riêng ra cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là chúng ta được biệt riêng một cách dặc biệt hầu Thiên Chúa có thể dùng chúng ta để phục vụ Ngài. Kết quả là sự sống của con người không còn thuộc về chính mình để làm điều mình muốn, nhưng thuộc về Thiên Chúa để Ngài dùng nó theo ý Ngài. (b) Để đem lại sự cứu rỗi ở thiên đàng. Sự sống ở kitô hữu không chấm dứt với thời gian nhưng mục đích của nó là cả cõi đời đời. Kitô hữu là người có thể xem những phấn đấu và đau khổ trong hiện tại là một vấn đề rất nhẹ nếu đem so sánh với sự vinh hiển sẽ đến.
Đến phần cuối của bức thư Phaolô xin các tín hữu cầu nguyện cho ông. Một điều rất cảm động khi nghĩ đến một con người vĩ đại như Phaolô lại đi xin những nguời tại Texalonica, những người tự nhận biết sự yếu hèn của mình, cầu nguyện cho ông. Không có chỗ nào bày tỏ sự khiêm nhường của Phaolô rõ hơn nữa. Hành động ngã mình vào lòng họ theo phương cách này đã làm cho Phaolô xích lại gần hơn với anh em, ngay cả những nguời chống đối ông, vì thật khó mà ghét một người xin mình cầu nguyện cho. Nhưng dầu Phaolô rất yêu mến và tin cậy con người, ông vẫn là con người thực tế. Ông nói rằng, không phải ai cũng có đức tin. Chúng ta có thể biết chắc rằng điều Phaolô nói ở đây không phải nói với ý mỉa mai nhưng với lòng buồn rầu. Một lần nữa chúng ta thấy một trách nhiệm rất lớn của ý chí tự do. Chúng ta có thể dùng nó để mở lòng ra và cũng có thể dùng nó để đóng lòng lại. Lời mời gọi của đức tin không dành cho một số được lựa chọn nhưng được trải rộng ra cho hết mọi người, nhưng lòng của con người có thể từ chối lời mời gọi đó. Trong câu cuối của phần này chúng ta có thể thấy những gì mà chúng ta có thể gọi là những đặc tính nội tâm và ngoại tại của Kitô hữu. Đặc tính nội tâm là sự ý thức và nhận biết tình yêu của Thiên Chúa. Đó là ý thức sâu xa rằng chúng ta không thể vượt ra khỏi tình yêu và sự chăm sóc đó, chúng ta ý thức được cánh tay đời đời đang bao bọc quanh chúng ta. Một trong những nhu cầu căn bản của cuộc sống là sự bảo đảm an toàn, và chúng ta nhận thấy rằng nhu cầu này được thỏa mãn trong ý thức về tình yêu không đổi dời của Thiên Chúa. Phẩm chất ngoại tại của Kitô hữu là sự nhịn nhục do Chúa Giêsu ban cho. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà con người phải chịu những chấn động tâm thần nhiều hơn bao giờ hết. Đó là một dấu hiệu thật đơn giản cho thấy ngày càng có nhiều người có cảm xúc rằng họ không thể thích ứng được với cuộc sống. Đặc tính ngoại tại của Kitô hữu là khi mọi người ngã xuống thì mình vươn lên, khi ngững người khác quị xuống, thì mình xốc gánh lên vai và tiếp tục đi. Với tình yêu của Thiên Chúa trong lòng và sức mạnh của Chúa Kitô trong cuộc sống, Kitô hữu có thể đối diện với mọi sự.
(1Tex2,15-3,5 ) Đối với người Texalonica, đức tinKitô không mang đến bình an mà là khó khăn. Sự rung thànhcủa họ đã đưa họ vào sự bắt bớ. Phương cách Phaolô dùng để khích lệ họ rất hay. Ông muốn nói với họ rằng:”anh chị em yêu dấy, chúng ta đang đi trênconđường các thánhđồ đã trải qua”. Sự bắt bớ là điềudanh dự đặt họ đứng chúng trong số những người đựoc tuyển chọn của đạo quân Chúa Kitô. Nhưng điểm lý thú nhất trong đoạn Kinh thánh này ở câu 15 và 16 , nơi Phaolô đã nêu lên một danh sách những sai lầm và tội lỗi của người do thái:
1. Họ giết Chúa Giêsuvà các tiên tri. Khicác sứ giả của Thiên Cchúz đên thì bị họ loại trừ ngay. Theo sự ký thuật của Phúc âm, chúng ta thấy các nhà lãnh đạo Do thái nỗ lực tím cách loại trừ chúa Giêsu trước khi Ngài có thể gây thêm thiệt hại. Nhưng chưa có ai loại bỏ một sứ điệp bằng cách trừ diệt sứ giả mang sứ điệp đó. Người ta thuật lại chuyện một nhà truyền giáo đến giảng đạo tại một bộ lạc bán khai. Ông phải dùng những phương pháp thật đơn sơ để dânchúng co thể hiểu được. Ông vẽ một sơ đồ diễn tiến của một người từ lúc mới tiếp nhận Chúa Giêsu cho đến lúc vào thiên đàng và sự sa xuống hỏa ngục của một nguơi từ chối Chúa Giêsu. Sứ diệp này làm cho cả bộ lạc bôi rối, họ không muốn nó là sự thật. Như vậy họ đã làm gì? Họ đốt sơ đồ và tưởng rằng bởi đốt sơ đồ họ sẽ được bình an. Một người có thể từ chối không chịu nghe sứ điệp của Chúa Giêsu, nhưng người ấy không thể loại trừ sứ điệp ấy khỏi cấu trúc của vũ trụ và của chính cuộc sống mình.
2. Họ bắt bớ Kitô hữu.dẫu rằng họ từ chối không chấp nhận sứ điệp của Chúa Cứu thế, ít ra họ cũng để cho nguời khác nghe và tiếp nhận chứ. Con người trần thế phải lu6n luôn nhớ rằng không phải chỉ có một phương cách dẫn đến thiên đàng bởi thế đừng bao giờ tỏ ra khó khăn trong lãnh vực này.
3. Họ không cố gắng làm vừa lòng Thiên Chúa.Sự rắc rối trong giáo hội là thường hay bám vào tôn giáo do con người thay vì đức tin do Thiên Chúa mạc khải. Câu hỏi con người vẫn thường đặt ra làtôi nghĩ thế nào chứ không phải Thiên Chúa nói gì?. Vấn đề quan trọng không phải luận lý của chúng ta mà là sự bày tỏ của Thiên Chúa.
4. Họ nghịch vơi tất cả mọi người. Trong thế giới thời xưa, dân Do thái bị xem là những người thù ghét nhân loại. Tội của họ là tội kiêu ngạo. Họ kiêu ngạo vì mình là tuyển dân. Họ tự xem mình là dân tộc được chọn để hưởng các đăc quyền, chứ không phải được chọn để phục vụ. Mục đích và mơ ước của họ là một ngày hầu đến, thế giới sẽ phục vụ họ chứ không hề có ý tưởng phục vụ thế giới. Con người chỉ nghĩ đên quyền lợi và đặc quyền riêng của chính mình luôn luôn là thù nghịch đối với những người khác,và điều còn nghiêm trọng hơn nữa là chống nghịch luôn cả với Thiên chúa.
5. Họ muốn giữ tình yêu của Thiên Chúa riêng cho chính họ. Họ không muốn dân ngoại được chia sẻ bất cứ điều gì trong ân sủng của Thiên Chúa. Có người đã tóm tắt thái độ vị kỷ này trong bốn câu thơ chua chát: chúng tôi dân tuyển Chúa Trời, bao nhiêu người khác “đời đời diệt vong”. Ai kia đừng tưởng, đừng mong. Thiên đàng hết chỗ dễ hòng chen chân. Nếu có một tôn giáo nào tìm cách loại một người ra khỏi cộng đồng của mình thì tôn giáo đó sai lầm tận gốc rễ. Nếu một người thật yêu mến thiên Chúa thì tình yêu đó phải tuôn tràn thành tình yêu đồng loại. Người sẽ không ôm cả đặc quyền cho chính mình, mà hân hoan chỉa sẻ với tât cả mọi người.