Chúa Nhât V Phục Sinh A
CON ĐƯỜNG GIÊ-SU
LÀ TIN YÊU VÀ PHỤC VỤ
Lm. ĐAN VINH – HHTM
***
1. TIN MỪNG: Ga 14,1-12
2. Ý CHÍNH:
Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã tiên báo việc Người sắp từ giã môn đệ mà về trời với Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ và sẽ trở lại đón các ông lên trời với Người (1-4). Sau đó, Đức Giê-su mặc khải Người chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Người. Ai biết và thấy Người là đã thấy và biết Chúa Cha (5-7). Rồi Người cũng cho biết mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Cha với Người: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (9). Cuối cùng Người còn hứa sẽ ban quyền năng lớn lao cho những kẻ tin vào Người (12).
3. CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Đừng xao xuyến: Sau khi nghe Thầy Giê-su tiên báo Người sắp chịu chết treo trên thập giá (x. Ga 12,32-33), một trong Nhóm Mười Hai sẽ phản nộp Thầy (x. Ga 13,21) và Phê-rô sẽ chối Thầy ba lần (x. Ga 13,38), nên các môn đệ cảm thấy xao xuyến và lo âu chán nản. Vì thế Đức Giê-su đã phải an ủi động viên tinh thần của các ông là “Đừng xao xuyến”. + Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy: Anh em đã tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào quyền năng và tình thương của Thầy sẽ cứu anh em khỏi mọi nguy hiểm đang chờ đón anh em. + Nhà Cha Thầy: Là trời cao hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa ngự trị. + Nhiều chỗ ở: Theo một số giáo phụ (I-rê-nê, Clê-men-tê, Ô-ri-dê-nê) thì trên thiên đàng có nhiều cấp độ hạnh phúc khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các học giả ngày nay (Maldonat, Lagrange, Durant, Huby) lại hiểu là trên thiên đàng có đủ chỗ ở cho tất cả mọi người. + Nếu không…: Nếu không phải như thế thì Đức Giê-su đã nói rõ để các ông khỏi thất vọng.
– C 3-4: + Đi dọn chỗ: Đức Giê-su cho các môn đệ biết Người không về trời một mình, mà Người sẽ trở lại đón các ông lên trời, để cùng được hưởng hạnh phúc với Người. + Thì Thầy sẽ trở lại: Khi nào Người trở lại ? Có ba ý kiến: Ý THỨ NHẤT: vào thời Giáo hội sơ khai, người ta cho là đến ngày tận thế sắp xảy ra, Chúa Giê-su sẽ lại đến phán xét chung toàn nhân loại và sẽ cho các môn đệ được hưởng hạnh phúc trên thiên đàng với Người (x. Mt 25,31-46). Ý THỨ HAI: cho rằng sự đoàn tụ với Chúa xảy ra ngay sau cái chết của mỗi người. Ngày nay nhiều người theo Ý THỨ BA: Đức Giê-su sẽ đoàn tụ với các môn đệ sau khi Người từ cõi chết sống lại. Từ đây, Người sẽ hiện diện với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Người sẽ ở giữa và ở trong các tín hữu bằng ơn thánh hóa (x. Ga 14,17-18). Rồi sau khi họ chết, Người sẽ ban cho họ được hưởng hạnh phúc thiên đàng tùy theo công việc họ đã làm khi còn sống (x. Mt 16,27).
– C 5-7: + Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường ?: Câu này cho thấy Tô-ma là một con người thực nghiệm: đòi phải sờ mó, nhìn xem và kiểm chứng rồi mới chấp nhận (x. Ga 20,24-29). Câu nói của Tô-ma chứng tỏ ông cũng như Phê-rô và các người Do thái khác đều không hiểu gì về việc ra đi của Đức Giê-su (x. Ga 13,37; 7,35-36; 8,14). + Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống: *LÀ CON ĐƯỜNG: Đức Giê-su là con đường duy nhất dẫn đưa loài người từ mặt đất lên trời cao, giống như chiếc thang tổ phụ Gia-cóp đã nằm mơ. *LÀ SỰ THẬT: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đức Giê-su mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa (x. Ga 12,45; 14,9) và chỉ đường cho các tín hữu phải ăn ở sao cho đẹp lòng Chúa Cha, nhờ lắng nghe lời Người (x. Mt 17,5). *LÀ SỰ SỐNG: Con đường dẫn đến mục tiêu cuối cùng là sự sống sung mãn nơi Chúa Cha. Chúa Cha đã ban sự sống cho Đức Giê-su, nên chỉ Người sau khi phục sinh sẽ ban sự sống đời đời cho những ai tin Người (x. Ga 3,36; 10,28). Tín hữu nhờ đức tin sẽ có mầm sống vĩnh cửu trong mình. Họ cần tiếp tục gia tăng mầm sống ấy nhờ lãnh nhận các phép bí tích do Đức Giê-su thiết lập, và có trách nhiệm làm cho mầm sống ấy phát triển cho đến khi đạt tới sự sống sung mãn trong Thiên Chúa ở đời sau. + Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy: Qua thập giá, Đức Giê-su đã giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Từ đây, không ai có thể nhận được ơn cứu độ nếu không đi “con đường thập giá” (x Mt 16,24) và không được tái sinh bởi nước và Thần Khí (x Ga 3,5). Vì dưới gầm trời này không một danh nào khác ban ơn cứu độ ngoài danh Giê-su Ki-tô. + Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người: Thực ra các môn đệ đã không xem thấy Chúa Cha vì Người thiêng liêng vô hình, mà chỉ xem thấy Chúa Giê-su, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm. Tuy nhiên ai xem thấy Chúa Giê-su cũng như đã xem thấy Chúa Cha rồi, vì Chúa Giê-su chính là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x Mt 1,23), và Người hằng làm đẹp lòng Chúa Cha (x Mt 17,5), vâng theo ý Cha. Có lần Người đã khẳng định: “Tôi và Chúa Cha là Một” (Ga 10,30).
– C 8-10: + Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha: Phi-líp-phê yêu cầu Đức Giê-su chỉ cho ông xem thấy Chúa Cha như ông Mô-sê xưa đã xem thấy Đức Chúa trong đám mây trên núi Si-nai (x. St 24,9-17). + Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha: Đức Giê-su đã cho Phi-líp-phê biết: ngày nay Thiên Chúa sẽ không tỏ hiện trong sấm chớp như xưa, mà sẽ ngự nơi con người Đức Giê-su. Từ nay không có con đường nào khác để người ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa, ngoài con đường duy nhất là Đức Giê-su (x. Ga 1,18), vì Người là đầu của thân thể nhiệm mầu là Hội Thánh (x Ep 5,23). + Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy: Chúa Cha được biểu lộ qua Đức Giê-su là Con Một của Ngài (x. Ga 12,45; 14,7). Chúa Cha sẽ được tỏ mình ra cách hoàn hảo qua đời sống, lời nói và việc làm của Đức Giê-su. Vì Người luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và làm theo ý Chúa Cha.
– C 11-12: + Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm: Đó là được tham phần vào sứ mạng cứu độ loài người của Đức Giê-su. + Còn làm những việc lớn hơn nữa bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha: Không phải các môn đệ sẽ làm được những phép lạ lớn hơn Đức Giê-su. Nhưng sau khi Người lên trời, các ông sẽ được trao cho sứ mạng thay Người đi loan báo Tin Mừng cho các dân tộc đến tận cùng thế giới, với ơn phù trợ của Thánh Thần (x.Cv 1,8).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao các môn đệ bị xao xuyến khiến cho Đức Giê-su phải động viên tinh thần của các ông ? 2) Đức Giê-su muốn nói gì qua câu “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở” ? 3) Đức Giê-su đã hứa sẽ đi trước dọn chỗ và khi nào Người sẽ trở lại đón các môn đệ đi theo Người ? 4) Khi tự ví mình là con đường, là sự thật và là sự sống, Đức Giê-su muốn dạy các tín hữu điều gì ? 5) Câu “Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” nghĩa là gì ? 6) Ngay từ bây giờ các môn đệ đã xem thấy Chúa Cha qua hình ảnh của ai ? 7) Từ đây ai muốn gặp được Chúa Cha thì phải gặp qua người nào ? 8) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ làm được những việc Người đã làm và còn làm được những việc lớn hơn nữa, cụ thể là những việc gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG QUYỀN NĂNG VÀ VÔ HÌNH:
Một ông vua kia do cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra lệnh triệu tập tất cả các giám mục trong nước vào hoàng cung. Vua ra lệnh cho các giám mục: trong một tuần lễ phải chứng minh được là có Thiên Chúa. Nếu không chứng minh được thì tất cả các giám mục sẽ bị khép vào tội lừa bịp dân chúng và bị án treo cổ. Thật là một đòi hỏi nan giải, vì làm sao có thể chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa vô hình được ? Rồi càng gần đến ngày hẹn, tâm trạng các vị giám mục càng thêm bồn chồn lo lắng. Bấy giờ một tu sĩ trẻ nghe biết câu chuyện, liền đến yêu cầu nhà vua được thay các giám mục chỉ cho nhà vua nhìn thấy Thiên Chúa. Đúng hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng quần thần lên một ngọn đồi đang lúc trưa hè nắng gắt, rồi chỉ tay lên mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin nhìn theo ngón tay của thảo dân, thì bệ hạ sẽ thấy Thiên Chúa”. Nhà vua và các cận thần đều nhìn lên mặt trời theo hướng tay của anh tu sĩ kia đã chỉ, nhưng không ai có thể xem thấy gì vì bị ánh sáng mặt trời làm chói mắt. Bấy giờ nhà vua liền nổi cơn lôi đình truyền thị vệ chém đầu anh tu sĩ trẻ kia vì đã dám đánh lừa mình. Vị tu sĩ liền quỳ dưới chân nhà vua thưa rằng: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đòi nhìn xem Thiên Chúa. Thế mà mặt trời chỉ là một tạo vật tầm thường của Thiên Chúa, mà bệ hạ đã không thể xem thấy được, thì làm sao bệ hạ đòi nhìn thấy chính Thiên Chúa là Đấng vô cùng cao cả được ? Thiên Chúa luôn hiện hữu, nhưng vì Ngài thiêng liêng vô hình, nên người phàm mắt thịt không thể xem thấy Ngài, mà chỉ có thể thấy Ngài bằng mắt đức tin thôi”. Nhờ câu nói này của anh tu sĩ trẻ và các giám mục đã không bị khép tội khi quân và khỏi bị hành hình.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giê-su đã nói với môn đệ Phi-líp-phê rằng: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình (Ga 14,9-10).
2) TIN VÀO THIÊN CHÚA LÀ NIỀM AN ỦI VÀ HY VỌNG CHO CUỘC SỐNG MAI SAU:
Trong một gia đình nọ. Ông chồng là người không tin có Thiên Chúa. Ông thường nhạo báng việc cầu nguyện dự lễ để thờ phượng Thiên Chúa. Trái lại, bà vợ của ông lại là một tín hữu sùng tín. Hằng ngày bà đều đến nhà thờ cầu nguyện cho chồng sớm được ơn trở về với Chúa. Bà luôn ăn ở ngay lành và dạy con sống tốt lành đạo đức để sau khi chết được lên thiên đàng hưởng nhan thánh Thiên Chúa. Dù sống giữa hai niềm tin trái nghịch giữa bố mẹ, người con trai duy nhất của hai người vẫn sống ngoan ngoãn với cha mẹ. Rồi một ngày kia, đứa con trai yêu quý bị mắc cơn bệnh phổi hiểm nghèo. Nghe bác sĩ cho biết mình sắp bị chết, em đã hỏi ông bố bấy giờ đang ở bên giường bệnh rằng: “Bố ơi, xin bố hãy nói thật cho con biết: sau khi chết con sẽ đi về đâu? Nếu theo mẹ dạy thì con sẽ được về trời gặp gỡ Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương con và sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi với Chúa và sau này còn được đoàn tụ với cả bố mẹ trên thiên đàng. Còn nếu theo bố thì sau khi chết sẽ chẳng còn gì nữa: con sẽ chẳng còn ai để yêu thương con và bảo vệ cho con…
Ông bố nghe đứa con yêu hỏi mà tê tái lòng. Ông liền ôm con vào lòng và nói với con: “Bố đã sai rồi con ạ. Con hãy tin theo mẹ con nhé”. Đứa con lại nói: “Nhưng nếu bố không cùng tin Chúa như mẹ, thì làm sao sau này con có thể gắp được cả bố mẹ trên thiên đàng được?” Trước lời nói đơn sơ của đứa con thân yêu, ông bố của em đã không kềm nổi những giọt nước mắt thống hối. Sau ngày con qua đời, ông đã xin theo học khóa giáo lý dự tòng. Nhờ được nghe Lời Chúa, ông đã đạt tới đức tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa và thiên đàng đời sau. Ông đã tập sống đức tin bằng việc thực tập đức cậy và đức mến. Cụ thể là cầu nguyện sớm hôm để phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, thực thi yêu thương bằng sự tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giê-su. Ông năng đến nhà thờ dự lễ và rước lễ để được kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể là mầm sống lại trong ngày sau hết. Ông xác tín Chúa Giê-su chính là con đường duy nhất dẫn đưa ông lên trời hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa như lời Người dạy: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
3. SUY NIỆM:
1) Nội dung Tin Mừng hôm nay:
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho môn đệ Phi-líp-phê khi ông muốn Thầy chỉ cho xem thấy Chúa Cha. Đức Giê-su nói: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Ngày nay muốn nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giê-su. Vì Người là Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình khi mặc lấy thân xác phàm nhân để nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội (x. Ga 1,14). Đức Giê-su cũng trấn an các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh như sau: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở” (Ga. 14,1-2).
Tin mừng hôm nay cũng mặc khải cho chúng ta: Mọi người trên trần gian đều có một Cha chung trên trời là Thiên Chúa, và đều là anh em với nhau. Sau này chúng ta sẽ được đoàn tụ với Thiên Chúa và với nhau trên Thiên Đàng. Thánh Phao-lô cũng dạy: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Tuy nhiên chúng ta chỉ có thể lên trời với Thiên Chúa qua con đường Giê-su như Người đã nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha nếu không qua Thầy” (Ga 14,6). Vậy Con Đường Giê-su có những đặc điểm nào ? Và chúng ta phải làm gì để đi tới đích là được về quê trời với Thiên Chúa và hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng?
2) Những đặc điểm của Đường Giê-su ?
1) Đức Giê-su là Đường: Con đường lên trời vô cùng khó khăn và vượt quá tầm khả năng hữu hạn của người phàm. Chỉ có Đức Giê-su, Đấng từ trời mà đến, trở thành “Em-ma-nu-el” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, mới có khả năng chỉ đường lên trời cho chúng ta như Người đã nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Người luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống (x. Lc 24,15) và ban Thánh Thần giúp chúng ta về tới thiên đàng đời sau.
2) Đức Giê-su là sự thật và là sự sông: Người dạy cho chúng ta sự thật là các mầu nhiệm của Thiên Chúa, ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương loài người và sai Con Một xuống thế để dạy loài người con đường cứu độ và sẵn sàng chịu chết đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống cho loài ngươi. Chính Sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta nếu chúng ta tin vào Đức Giê-su (x. Ga 8,32)
3) Đi con đường của Đức Giê-su là chọn con đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi; Là chấp nhận “qua đau khổ sự chết để vào vinh quang phục sinh” theo thánh ý Chúa Cha; Là “mến Chúa yêu người” theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giê-su; Là “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa”, là khiêm tốn rửa chân phục vụ anh em và quảng đại chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, góp phần chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền của tha nhân, năng thăm viếng an ủi những người sầu khổ bất hạnh… Là sẵn sàng chịu đựng những sỉ nhục và đau khổ vì danh Chúa như các Tông đồ xưa. Tóm lại là sống theo bản hiến chương Nước Trời là “Tám Mối Phúc Thật“ do Chúa Giê-su đã công bố.
3.Chúng ta phải làm gì? :
– Nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su: Trở thành Ki-tô hữu tức là thành một Chúa Giê-su khác trước mặt người đời. Mỗi tín hữu chúng ta phải sống thế nào để có thể nói được rằng: “Ai biết tôi là biết Chúa Giê-su. Ai thấy tôi là thấy Chúa Giê-su, vì chính Chúa Giê-su đang sống trong tôi”. Từ nay, chúng ta cần xác tín rằng: Chỉ có Con Đường Giê-su mới dẫn đưa chúng ta lên trời. Tông đồ Phê-rô cũng đã quả quyết trước Thượng Hội Đồng Do thái như sau: “Chính Đấng ấy, là Tảng Đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, Tảng Đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,11-12).
– Phải về quê trời cùng với tha nhân: Đức Giê-su đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một cuộc đời yêu thương tận hiến và đã trải qua cuộc khổ nạn theo thánh ý Chúa Cha. Cuộc đời của Người đã trở thành con đường lên trời của các tín hữu chúng ta hôm nay. Khi suy niệm Lời Người và sống gắn bó với Người trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ hiểu biết ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì và sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su. Nếu chúng ta đi trên Con Đường Giê-su thì chính chúng ta cũng sẽ trở thành con đường để giúp anh em lương dân đến với Đức Giê-su. Chính nhờ gặp gỡ chúng ta, họ sẽ nhận biết Chúa Giê-su qua lời nói, việc làm và lối ứng xử hiền hòa nhân ái yêu thương phục vụ của chúng ta. Rồi “nhờ Người, với Người và trong Người”, họ sẽ gặp được Thiên Chúa Cha và trở thành con Chúa Cha trong gia đình Hội Thánh ở đời này, để sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa Cha và với công đoàn tín hữu trên thiên đàng đời sau.
4. THẢO LUẬN:
1) Bạn có đồng ý với lập luận: “Đạo nào cũng tốt. Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Do đó, Hội Thánh chẳng cần truyền đạo cho ai. Chỉ cần giúp anh em lương dân sống theo lương tâm hay sống đạo làm người là đủ” ? Tại sao ? 2) Khi gặp một hoàn cảnh nan giải, bạn cần làm gì để nhận biết thánh ý Thiên Chúa và vâng theo ? 3) Hát bài kết thúc như sau: “Con đây ! Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì ?”
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con cảm thấy mình thật nhỏ bé và bất lực, khó lòng có thể chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa đã trao cho Hội Thánh trước khi lên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: Sứ mạng truyền giáo trước hết phải thực hiện cho những người thân quen như: cha me, vợ chồng, con cái, anh em và bạn bè của chúng con, rồi sau đó mới đến người khác. Xin giúp chúng con năng nhìn ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và suy niệm các hành vi và lời dạy của Chúa, vì Chúa chính là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy và quyết tâm thực hành ý Chúa trong đời sống thường ngày. Xin cho chúng con biết từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ ngày một nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em của mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON